WISDOM OF
THE WEST của Bertrand Russell là một trong
các kỳ
thư tôi đã đọc qua thời còn sinh viên, nay mang ra cực thị (close reading) vẫn
thấy thú vị vì văn phong trong sáng của một nhà tư tưởng lớn nhưng không loè
người đọc với xảo ngữ cầu kỳ như một số thần tượng lý thuyết kiểu Paris. Trong THE ART OF
PHILOSOPHIZING đúc kết phương cách tiếp cận sự
vật của triết gia, ông đã nói giản dị thế này :. If you wish to become a
philosopher, you must try, as far as you can, to get rid of beliefs which
depend solely upon the place and time of your education, and upon what your
parents and schoolmasters told you. (Nếu có nguyện vọng trở thành triết gia, bạn phải hết sức
cố gắng vứt bỏ các tín điều lệ thuộc vào nơi chốn cùng thời điểm
đã giáo dục nên bạn, và những gì cha mẹ với thày cô đã dạy bảo
bạn.)
Xin
gửi đến bạn đọc vài trang đầu của cuốn biên khảo MINH TRIẾT PHƯƠNG TÂY, trong khi chờ
đợi cái ngày một dịch giả VN có dư nghị lực và biệt tài ngữ văn
trình làng cả tập.
Chân
Phương dịch
và giới thiệu
KHAI
TỪ
Triết gia làm gì khi họ vùi đầu vào
việc ? Đây đúng là một câu hỏi lạ đời, và ta có thể thử trả lời nó
bằng cách trình bày trước tiên những gì không thuộc nghiệp vụ của họ. Có nhiều
điều coi như dễ hiểu nơi thế giới quanh chúng ta. Lấy ví dụ cách vận hành của
máy hơi nước. Cái này thuộc lĩnh vực cơ khí học và nhiệt động học. Thêm một ví
dụ, ta biết khá nhiều về cách cấu tạo và chức năng của cơ thể con người. Các
thứ này được giải phẫu học và sinh lý học nghiên cứu. Hoặc, sau rốt, thử xét về
sự chuyển động của tinh tú, điều mà chúng ta có thừa kiến thức. Đây là đề tài
của thiên văn học. Mọi bộ phận tri thức được minh định như thế đều thuộc về một
trong các môn khoa học.
Nhưng tất cả các vùng tri thức ấy giáp quanh
bờ cõi của cái không biết. Khi ta đi đến những biên địa đó hoặc xa hơn, từ khoa
học ta bước qua địa hạt của tư biện. Hoạt động tư biện này là một loại thám
hiểm, và đây chính là triết học bên cạnh những tìm tòi khác. Như ta sẽ thấy ở
phần sau, các lĩnh vực đa dạng của khoa học đều bắt đầu như là thám hiểm triết
học, hiểu theo nghĩa trên. Khi nào một môn khoa học có được nền móng vững chắc,
từ đó ít nhiều nó sẽ diễn tiến một cách độc lập, ngoại trừ những vấn đề ở giới
tuyến và các câu hỏi về phương pháp. Nhưng quá trình thám hiểm coi như không đạt
được bước tiến nào, nó chỉ tiếp tục tìm những điều mới để khảo sát.
Đồng thời chúng ta phải phân biệt triết học
với các loại tư biện khác. Triết học tự nó không nhằm giải quyết các phiền lụy
hoặc cứu rỗi linh hồn của chúng ta. Nói như người Hi Lạp, đó là một thứ phiêu
lưu ngoạn cảnh chẳng có mục đích nào khác ngoài chính nó. Do đó, nguyên tắc mà
nói không có vấn đề tín điều, nghi thức hoặc thần linh các thứ ở đây, cho dù
trong giới triết gia người này kẻ nọ đương nhiên có thể biến thành giáo điều
cứng nhắc. Đối với cái không biết ta hiển nhiên có thể chọn một trong hai thái
độ. Một là chấp nhận các phán quyết của những người cho rằng họ kiến ngộ nhờ
vào các kinh thư, các điều huyền nhiệm hay các nguồn thần hứng khác. Còn cách
kia là tự mình đi ra mà nhìn ngắm, và đây là con đường của khoa học và triết
học.
Cuối cùng còn một đặc điểm của triết học ta
nên lưu ý. Nếu có ai đặt câu hỏi toán học là gì, ta có thể trao người ấy một
định nghĩa theo từ điển. Để bàn cho ra lẽ, cứ cho đó là khoa học về con số. Xét
cho cùng đây là một nhận định không cần phải tranh cãi, hơn nữa nó là điều
người nêu câu hỏi có thể hiểu được dễ dàng cho dù ông ta có thể dốt về toán.
Cũng như vậy ta có thể đưa ra các định nghĩa cho bất cứ môn ngành nào đã có
được một khối kiến thức xác định. Nhưng không thể định nghĩa triết học như thế.
Định nghĩa nào cũng gây tranh luận và đã hàm chứa sẵn một thái độ triết. Cách
duy nhất để khám phá xem triết học là gì là làm triết học. Trình bày cho thấy
trong quá khứ người ta đã làm triết học như thế nào là mục đích chính của cuốn
sách này.
Có nhiều câu hỏi khi này lúc khác những người
chịu suy nghĩ tự đặt ra mà khoa học không thể giải đáp. Và những ai cố gắng suy
nghĩ cho chính mình khó mà bằng lòng tin
vào những câu trả lời có sẵn do các sấm ký phán truyền. Công việc của
triết học là khảo sát, và đôi khi loại bỏ những câu hỏi ấy.
Như khi không cưỡng được chúng ta đặt cho
mình những câu hỏi chẳng hạn về ý nghĩa cuộc đời, nếu quả thật nó không hoàn
toàn vô nghĩa. Thế giới này có mục đích chăng, sự phô diễn của lịch sử hướng về
đâu, hay là các câu hỏi này vô nghĩa?
Lại còn các vấn đề, tỉ dụ thiên nhiên có tuân
theo qui luật hay không, hay chẳng qua ta suy ra như thế bởi ta muốn thấy sự
vật tuân theo một trật tự nào đó. Còn thêm sự chất vấn chung chung: thế giới có
chia thành hai phần rời - tinh thần và vật chất - hay không; và nếu chia rời
như thế thì chúng làm thế nào gắn kết vào nhau ?
Và nói về con người thì sao? Y là một hạt bụi
yếu ớt bò lê trên một hành tinh tầm thường bé nhỏ, như cách nhìn của giới thiên
văn học? Hay y là một đống hóa chất gắn vào nhau một cách kỳ quặc, nói theo các
nhà hóa học? Hoặc rốt cuộc, theo cách nhìn của Hamlet, con người vừa cao cả về
lý trí vừa có khả năng vô tận? Có lẽ con người cùng một lúc là tất cả các thứ
đó?
Cùng với điều này còn các câu hỏi về thiện
ác. Có chăng một cách sống tốt lành và một cách sống tồi tệ? Hoặc chúng ta sống
như thế nào mặc kệ, không có chuyện đúng sai hơn kém? Một cách sống tốt lành
nếu có thì nó ra làm sao? Và bằng cách nào ta học được cách sống như thế? Có
cái gì đó ta có thể gọi là minh triết chăng, hay cái có vẻ như là minh triết
chẳng qua là sự điên khùng rỗng tuếch?
Tất cả các câu hỏi này làm đau đầu nhức óc.
Ta không thể lý giải chúng bằng những khảo nghiệm trong phòng thí nghiệm, và
những ai có đầu óc độc lập sẽ không chịu qui phục các lời phán truyền của những
kẻ rao giảng mấy loại thuốc trị bá bệnh. Đối với các câu hỏi như thế lịch sử
triết học cung ứng những giải đáp tùy khả năng cho phép. Khi khảo cứu chủ đề
khó khăn này ta học được cái cách mà những kẻ khác ở những thời đại khác đã suy
tư về những điều này. Và như thế ta hiểu được họ khá hơn, bởi cách họ xử lý
triết học là một khía cạnh quan trọng trong cách sống của họ. Sau cùng điều này
có thể chỉ dạy chúng ta phải sống như thế nào cho dù cái ta biết chẳng là bao.
(Prologue,
Wisdom of the West, London, 1959)
nguồn : ăn mày văn chương amvc.fr