Tuesday, April 30, 2013

Nhớ Nguyễn Xuân hoàng

                                                 

Mới đó mà sắp đến giỗ lần thứ 7 của Nguyễn Xuân Hoàng, một nhà văn của miền Trung từ giã cuộc đời ở tuổi 40. Văn và đời của anh để lại bao ngưỡng vọng và tiếc nuối cho người ở lại. Các bậc tài hoa và lương thiện luôn là những người được chọn thoắt biến thoắt hiện ở cõi trần này để làm những việc mà chúng ta không thể biết được  
.

                                           
Hiệp sĩ buồn
Còn nhớ một ngày cuối năm 2006, anh Ba Đà Rằng, một cựu sinh viên Văn khoa Huế, gọi điện cho tôi: "Sáng nay, vợ con lay mãi không dậy, thế là Hoàng…". Sao thế, Hoàng ơi?. Trong mắt nhiều bạn viết cùng thời, Nguyễn Xuân Hoàng là một nhà báo, nhà văn trẻ tài hoa. Tôi cũng vừa mới đọc sáng tác của Hoàng đăng báo…

Nguyễn Xuân Hoàng dáng mảnh mai, nói năng nhỏ nhẹ nhưng đầy khí chất và niềm ấp iu cuộc sống. Cái cách ăn nói trầm ngâm, ưa sách vở mà cũng mê lang bạt như thế nên Hoàng viết tản văn, tạp bút, tản bút, tản mạn, nhàn đàm… mà anh gọi chung là tùy bút - đều hay là điều dễ hiểu. Kiểu viết này đã khắc tên Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Xuân Diệu, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Băng Sơn, Ngô Văn Phú… Ai bảo tùy bút là dễ hay khó đều có lý, ai viết cũng được nhưng viết hay thì không nhiều.
Tuy Hòa sau một đêm bù khú miệt mài, Hoàng rút tập tùy bút "Hương mùa thu" (NXB Thuận Hóa, 2001)… tặng tôi; rồi sau đó lại cũng một tập tùy bút nhan đề "Cỏ lau tóc mẹ" (NXB Thuận Hóa, 2003), cùng hàng trăm bài báo với tay nghề chữ nghĩa sắc sảo... Vẫn lối viết nhỏ nhẻ, nửa mờ nửa tỏ, ấp iu từ một chiếc lá kim, đôi sợi rơm quê đến chút ngẫm ngợi về thế sự nhân tình, tùy bút Nguyễn Xuân Hoàng rủ rỉ xa xót và ngọt ngào từng trang, từng trang rà ruột đến cả… bìa. Hãy nghe Hoàng tả cái khát vọng cuộc đời: "Gọi mùa xuân có hoa mai vàng, nở rưng rức như khóc. Gọi mùa hạ có hoa phượng cháy đỏ, nở như bếp lửa nhà ai iu ấp. Gọi mùa thu có hoa cúc tiết Trùng cửu, hương như đường mê, vàng chưa thôi những ngày tao ngộ. Gọi mùa đông có hoa hoàng hậu nở đỏ se sắt. Xa vắng trên những cội cây cao lung linh một bầy hoa rực rỡ như vương miện" (Gọi). Ồ, thì ra cuộc đời đẹp đến vậy! Lại tưởng, người ta viết về Huế đã mòn, vậy mà Huế hiện lên trong tản văn Nguyễn Xuân Hoàng gần gụi mà hun hút khác thường: "Dường như mỗi người có một cách riêng để yêu hoa. Có người chỉ thích hoa dại. Ven bờ thành nội Huế đẹp nhất là Cổ cò, thân mỏng, hoa trắng, cánh nhỏ, hương ngai ngái xa. Đây cũng là hoa trên bàn khách của những cặp vợ chồng nghèo"…
Đã có một sinh viên Đại học Huế làm luận văn "Huế trong tản văn của Nguyễn Xuân Hoàng…".
Ngồi trò chuyện với Hoàng, nếu ai không đồng cảm sẽ thấy "cha này" hơi dị dị. Bởi Hoàng chẳng những quan tâm đến một thoáng chuông ngân, mấy cọng cỏ thanh trong thơ Đường, mà còn tỉ mẩn đếm từng chiếc lá bàng bên ngoài cửa quán, hoặc cái thân cây này vì sao nhiều sẹo. Đang ngồi trong bữa đặc sản vang lừng, vậy mà chàng ta cứ nằng nặc đòi… xị rượu trắng để lên núi Nhạn sờ tay vào chân tháp cổ. Cái bản tính yêu thiên nhiên đất trời đã in dấu trong từng công chuyện của anh. "Chỉ về lá thôi cũng đã có khối chuyện nói. Đó là những câu chuyện sinh học, nghe rất lý thú. Nó mở ra trong tâm thức một sự sinh tồn triết học đáng nể. Mùa đông sở dĩ nhiều loài cây cho lá rụng là để bảo toàn nước trong thân cây. Đừng nhìn những hàng cây trơ trọi mà nghĩ là cây buồn vì thiếu lá. Rồi lá sẽ mọc lại, còn những chiếc lá cũ sẽ là kỷ niệm, của đời cây" (Trò chuyện với cây xanh). Nhà văn thì buộc phải có một chút lẩn thẩn nhưng đọc đoạn viết trên, tôi chợt thấy cỏ cây cũng như văn Hoàng không vẩn vơ chút nào. Trở về sau đợt đi Tuy Hòa lần ấy, Nguyễn Xuân Hoàng viết "Tháp xưa chim Nhạn bay về"




Đọc văn bạn, chưa chắc là mến bạn. Viết về bạn, chưa chắc là khen bạn. Điều tôi thấy được từ Hoàng là cái sự tự nhiên lẽ thường, hữu xạ tự nhiên hương, mắc mớ chi mà đao to búa lớn. Thể loại tùy bút cũng vậy, mấy ai nên danh nên tướng từ đó. Ừ, ta se sắt mến mộ cuộc đời thì tâm cảm đôi dòng cho đỡ nỗi tan man; có gì đâu một đôi điều bày giải của anh chàng gầy rộc vùng eo. Cái mặt nhậu đã mòn, vậy mà thỉnh thoảng giở đôi tờ báo lại thấy nhàn đàm, tạp bút, tản văn Nguyễn Xuân Hoàng khiêm khiêm xuất hiện; đã bảo có gì phải vội mà văn "cụ" này cứ riết róng bắt mình dán mắt vào rồi ngẫm ngợi lan man. "Ước mơ giản dị nhất, cũng là cao quý nhất của con người vẫn là có nhà ở, có cơm ăn, có áo mặc, và được học hành. Thời đại nào, chính sách nào, cơ chế nào cũng phải xoay quanh cái trục đó, lấy cái trục đó làm tiêu chí định lượng đánh giá sự phát triển. Xa rời tiêu chí đó một giờ, một buổi, một ngày là mất dân, mất lòng dân. Vì vậy mà cổ thư bảo chăn dân lòng sợ hãi như người cầm sợi dây mục mà điều khiển sáu con ngựa. Sách đã ghi vậy ai đọc, ai làm?". Làm chi mà già rứa, Hoàng ơi! Mà dân viết vốn chậm, lại hay cả nghĩ, vậy nên mới ngoài ba mươi cũng buộc già dặn thôi, chứ chả lẽ mãi làm "nhà văn trẻ".
..
Trông vậy chứ Hoàng không phải chỉ là người hướng nội, bởi anh nguyên là một phóng viên, rồi Phó phòng Chương trình Đài Phát thanh Truyền hình Thừa Thiên - Huế, hội viên Hội Nhà văn tỉnh này. Trước khi mất không đầy một năm, Hoàng vừa chuyển qua làm Thư ký tòa soạn Tạp chí Sông Hương. Tôi thấy Hoàng không phù hợp với nghề báo, dẫu nghề này đã giúp anh gặp gỡ và thẩm thấu nhiều điều hay từ những người giàu tư chất

Cõi Hoàng ở lại
"Cõi tạm phù hoa" là tập sách thứ 5 và là cuốn thứ hai của Nguyễn Xuân Hoàng do bạn bè góp tay in. Đầy đặn 360 trang sách với chân dung "người buồn trước tuổi" đằm đặm trên bìa đen trắng. Sau "Hồn mai" (2007) cũng với ngần ấy trang tùy bút do bè bạn góp tay in, lần này là "Cõi tạm phù hoa" với 20 truyện ngắn, 17 bài thơ, 9 chương của cuốn "Bút ký chân dung nhạc sĩ Trịnh Công Sơn" sắp hoàn thành và 8 bài viết của bạn bè về Hoàng. Mới đó mà đã 5 năm, nhà văn của rao rát miền Trung này rời cõi tạm ở tuổi 40. Nguyễn Xuân Hoàng là người con Quảng Ngãi, thành danh tại Huế.
Ở đất Thần Kinh, dân văn nghệ thường lưu truyền "Bạn bè ở Huế thương nhau thiệt/ Một đứa vợ la, cả bọn kinh". Thế nhưng được bạn tương kính như Nguyễn Xuân Hoàng thì không nhiều. Vượt qua bao mè nheo cuộc sống, họ vẫn đăm đắm cái tình với Hoàng, với văn tài của anh. 5 năm, hai cuốn sách tấm lòng đặt trên bàn thờ Hoàng, mà lại in đẹp và trang trọng lắm. Hỏi trong cõi tạm này, ai bằng Hoàng?
Và đời cảm thấy nợ Hoàng chăng? Nhiều khi tôi băn khoăn: Không hiểu Hoàng lấy đâu ra năng lượng để sống và làm việc gấp nhiều như thế? Có lần Hoàng đã trả lời: "Nhờ... cỏ!". Nhưng rồi Hoàng phải đi sớm vì chăng nỗi thương yêu và nỗi buồn đã quá sức bình sinh...

Về tùy bút Hoàng, nhà thơ Mai Bá Ấn viết: "Nếu Nguyễn Tuân ra đi đã trao thể bút ký và tùy bút lại cho Hoàng Phủ, thì người xứng đáng mà sau này Hoàng Phủ trao lại thể loại này, chắc chắn là Nguyễn Xuân Hoàng chứ không ai khác…". Trong truyện ngắn, chất duy mỹ, ôm níu con người của Hoàng lại làm người đọc bất ngờ từ một hướng khác. Truyện ngắn Nguyễn Xuân Hoàng là những nhát cắt ma mị, kết tinh tâm thức của người văn sớm thấu lẽ đời. Cách dựng truyện của anh thoải mái đến nỗi không còn ai nhận ra ấy là bịa. Lối viết không quá câu nệ vào cốt truyện nhưng sâu xoáy hút hồn bằng nhạc cảm, làm tôi liên tưởng đến bút pháp Pauxtốpxki. 

Rồi khi làm thơ (thường thì Hoàng làm thơ để hát mỗi khi uống rượu với bạn bầu), tài hoa nơi anh lại lấp lánh một cõi lạ. "Những bài thơ thương tật/ trên chiếc bàn thương tật/ làm chi/ nếu đời anh không thương tật" (Câu chuyện về thơ); "Tôi đợi bóng quạ mang về đêm tàn/ tôi khát đôi môi em ngày tôi còn sống/ tôi nhớ đắng ngắt miệng môi tôi/ ngày tôi yêu em" (Cho một tương lai); "Đôi khi tâm hồn tôi phiêu lãng thiên đường/ kể cho thân xác nghe câu chuyện về địa ngục/ đôi khi thiên thần gãy cánh / thân xác kể cho tâm hồn nghe câu chuyện thiên đường" (Câu chuyện thiên đường)..
.
Viết tập ký về Trịnh Công Sơn, mỗi câu mỗi chữ của Hoàng ánh lên niềm hạnh ngộ. Anh viết "Bậc thức giả ấy vẫn tiếp tục hành giả, giúp con người thấy rõ gương mặt tình yêu, những hóa thân như có phép chỉ xuất hiện khi ai đó chợt nhận ra những giấc mơ đời hư ảo". Thế là trọn vẹn, có dẫu còn dang dở nhưng đó vẫn là một trong những cuốn sách về Trịnh thành công nhất. Cũng phải thôi, chân tài gặp nhau…

Nhớ Cao Xuân Huy





Tháng Ba Gãy Súng



Hồi KÝ



Những trang văn xuôi lương thiện và giản dị về con người


Cuối tháng Giêng 85, cùng với một số đồng bào may mắn muộn màng khác ở đảo Bataan, chúng tôi có tên trong danh sách rời trại tị nạn Phi Luật Tân, lên đường đi định cư ở một thành phố miền đông bắc Hoa Kì, nơi tôi sẽ được gặp lại cô em út sau mười năm xa cách.
Cảnh vật mùa Ðông ở Springfield đẹp mà buồn. Cây cối trụi lá trơ cành khẳng khiu in mờ nhạt trên một bầu trời xám xịt. Mặt đất phủ đầy tuyết trắng lạnh giá. Tuy vậy, tôi còn nhớ rõ trong lòng tôi tràn ngập một niềm hạnh phúc ấm áp. Giờ đây khi bước sang mùa Ðông thứ hai, tôi nghiệm thêm một điều là không phải bao giờ tuyết cũng trắng sạch, cũng đẹp đẽ và cũng thú vị như cái cảm giác tôi đã có trong những ngày đầu. Dù sao, đó sẽ lại là một chuyện khác.

Tôi muốn nói, chính trong những tháng ngày thong thả tạm thời này, tôi có một niềm vui sướng là được đọc những trang viết đầu tay của một tác giả mà tôi chưa hề quen biết: Tháng Ba Gãy Súng của Cao Xuân Huy.

Tháng Ba Gãy Súng. Hình như tên gọi của truyện kể là điều trước tiên lôi cuốn tôi. Tựa đề của một cuốn sách vốn đơn giản. Tháng Ba Gãy Súng là sự đơn giản quyến rũ. Tháng Ba là tháng thọ nạn của miền Trung, khi cơn lốc đỏ từ miền Bắc lao xuống. Phải một thời gian sau nữa nó mới đổ ập tới Sài Gòn yêu dấu cái Tháng Tư Ðen hãi hùng và thống khổ. Cao Xuân Huy đặt câu hỏi: Ai đã bẻ gãy súng của quân đội ta, những người lính dũng cảm, có thừa mưu trí và kinh nghiệm chiến trường? Ai đã làm cho người lính chúng ta bó tay, khi súng còn đó mà đạn đã hết ở trong nòng?

Tác giả cho thấy bên dưới những người và việc là sự mất niềm tin của người lính trận trước một số cấp chỉ huy, những đàn anh "khả kính" đã dứt bỏ hàng ngũ trong cơn quẫn bách để chạy lấy thân, còn thì sống chết mặc bay!

Tháng Ba Gãy Súng vẽ lại cơn hồng thủy của một cuộc chiến không thương tiếc, phủ chụp lên số phận của cả một dân tộc. Trên bờ cát lạnh lẽo của biến cố, người ta nghe thấy tiếng động của những vòng xích sắt nghiến lạo xạo trên sọ người.

Ðó là cuốn sách chứa rất ít nụ cười nhưng rất nhiều máu và nước mắt; niềm vui thì khô cằn mà đau thương và bất hạnh thì màu mỡ phì nhiêu; tàn bạo và căm hờn là bình thường nhưng dịu dàng và thuận thảo là điều xa lạ.

Chữ nghĩa trong Tháng Ba Gãy Súng giản dị, tự nhiên và trong sáng. Nhưng người đọc biết rõ một cách mười mươi rằng để có được những dòng chữ tưởng chừng như dễ dàng đó, Cao Xuân Huy đã phải trả một giá khá đắt: sự thách đố của anh với tử thần trong những đường tơ kẽ tóc để đổi lấy phẩm giá làm người. Có thể nói Tháng Ba Gãy Súng đã được viết bằng một trái tim nóng bỏng trước khi được gọt dũa và trau chuốt bằng một bút pháp nghề nghiệp. Nhưng điều này không hề làm hạn chế sức sống của tác phẩm.

Những ai ham đọc sách đều biết rằng các nhà văn lừng danh trên thế giới như Flaubert, Hemingway, Dickens, Tolstoi... đều đã viết bằng một thứ ngôn từ tự nhiên và giản dị.
Trong một lần gặp gỡ tác giả, tôi hỏi anh tại sao lại xếp Tháng Ba Gãy Súng vào thể loại Hồi Ký mà không là Truyện Kể hay Truyện Ký, Cao Xuân Huy trả lời: "Bởi vì tôi đã không lồng vào đấy bất cứ một hư cấu nhỏ nào. Tôi viết lại hoàn toàn sự thật những điều mắt thấy tai nghe. Chỉ tiếc một điều là tôi đã không đủ khả năng để viết được tất cả những gì tôi cần phải viết".

Thật vậy, văn chương vốn cần hư cấu, nhưng hiện thực tự nó cũng thừa sự lớn lao và sâu sắc mà một trí tưởng tượng khiêm tốn đôi khi còn nghèo nàn và nông cạn hơn. Nói cách khác, hư cấu trong một tác phẩm tuy cần thiết, nhưng hiện thực bao giờ cũng là nền tảng để từ đó hư cấu có thể thành hình và đứng vững.

Chính cái hiện thực này đã khiến cho ngòi bút của Cao Xuân Huy có được cái vẻ sắc sảo đặc biệt, đồng thời cũng làm cho Tháng Ba Gãy Súng giữ được cái vẻ tươi mát nóng bỏng mà mọi thứ hư cấu rắc rối không sao đạt được.

Và nghệ thuật của Cao Xuân Huy nằm ở chỗ làm cho tác phẩm của anh có được sức thuyết phục mạnh mẽ hơn cái nó vốn có trong thực tế.

Thích nhất là những mẩu đối thoại trong Tháng Ba Gãy Súng. Nó nguyên chất, nhưng không dư thừa và tầm thường. Nó chưa bị chảy qua cái máy lọc "văn chương triết lí" nào. Nó sống và chát. Và rất gần với chúng ta.

Trả lời câu hỏi động cơ nào khiến anh viết Tháng Ba Gãy Súng, Cao Xuân Huy nói: "Không ai là không quay lại nhìn chỗ mình vừa ngã, và cũng không ai là không quay lại nhìn đống phân mình vừa thải. Ngã là lỗi của chính mình và phân có thối cũng là phân của mình. Vậy mà tại sao cả chục năm nay vẫn không thấy ai dám quay lại nhìn cái lỗi đã làm cho mình ngã ngay trên đống phân của mình, ngoài những lời chửi bới và đổ lỗi cho người khác".

Tất nhiên câu nói của anh còn có chỗ phải bàn thảo lại, suy nghĩ thêm, nhưng ở đây trong khung cảnh đặc biệt của Tháng Ba Gãy Súng, câu nói đó có cách lí giải riêng của nó.
Trước khi cầm bút viết lại những ngày tháng của lịch sử một trận chiến mà mình là một chứng nhân, Cao Xuân Huy đã là một sĩ quan chiến đấu thuộc một binh chủng lừng danh chiến trường mà mọi người chúng ta đều nghe tiếng: Thủy Quân Lục Chiến.

Chiến trường, sống và viết, Cao Xuân Huy có đủ những yếu tố đó để viết những trang văn xuôi nóng bỏng của mình.

Cao Xuân Huy nói: "Ðất nước ta đâu phải là một bàn cờ mà hễ đánh thua ván này thì xóa đi xếp quân làm lại bàn khác, mà tướng vẫn là tướng, quân vẫn là quân, đâu phải những con xe, con mã, con chốt đã chết đều có thể dựng đầu dậy để làm lại một trận đấu mới!"

Những suy nghĩ đó của anh không hề có ý định dừng lại ở chỗ chỉ là những điều viết ra để ngẫm nghĩ.

Khi trang cuối của Tháng Ba Gãy Súng được gấp lại, người đọc hình như vẫn cảm thấy còn một điều gì đó chưa xong chưa hết. Cái dấu chấm hết của mệnh đề sau cùng vẫn còn là một lời hứa hẹn sẽ mở ra một trang sách khác.

Dù sao những hình ảnh tàn nhẫn và khủng khiếp, những nỗi lo âu và hãi hùng vẫn còn đọng lại trong ta.

Vẫn còn đọng lại trong ta những địa danh, địa hình, địa điểm quen thuộc của một vùng đất quê hương khô cằn, cả thời tiết của đất trời mà da thịt ta vốn từng chịu đựng, và nhất là vẫn còn đọng lại trong ta hình ảnh những con người - trong đó có chúng ta - với số phận hẩm hiu cô quạnh bị bủa vây trong cơn cuồng nộ của những biến cố bạo tàn...

Tất cả những người và việc ấy chừng như mới xảy ra ngày hôm qua, vẫn còn luẩn quẩn đâu đây...

Với Tháng Ba Gãy Súng, Cao Xuân Huy đã viết được "những trang văn xuôi lương thiện và giản dị về con người", điều mà Ernest Hemingway gọi là "trên đời này thật không có gì khó khăn hơn".

Santa Ana, tháng Tư 1986
Nguyễn Xuân Hoàng


Tưạ

Tôi không phải là một nhà văn, mà tôi chỉ là một người lính, lính tác chiến đúng nghĩa của danh từ, và những điều tôi viết trong quyển sách này chỉ là một câu chuyện, câu chuyện thật một trăm phần trăm được kể lại bằng chữ. Tôi viết những điều mà những thằng lính chúng tôi đã trực tiếp tham dự nhưng không ai viết lại, trong khi nhiều người đã viết về những chuyện chiến trường thì hình như chẳng có ai dự.
Trong lứa tuổi của tôi, lứa tuổi dưới mười khi theo gia đình di cư từ Bắc vào Nam, ngoại trừ những người có thân nhân ruột thịt bị giết bởi Việt Cộng, còn hầu hết, có bao nhiêu người thực sự căm thù Việt Cộng đâu, vì rõ rệt một điều là từ lứa tuổi tôi trở xuống, có đứa nào biết Việt Cộng là cái gì đâu. Cũng y như lứa tuổi dưới mười khi theo cha mẹ qua Mỹ từ năm 1975 ở đây bây giờ. Cũng thù ghét Việt Cộng vậy, nhưng chỉ là cái thù gia truyền, cha mẹ thù ghét thì mình cũng thù ghét theo thế thôi, chứ chẳng có gì là sâu đậm cả. Cho đến khi lớn lên, đầu óc đã tạm đủ để suy xét thì khổ một nỗi, hệ thống tuyên truyền của Việt Nam Cộng Hòa lại có giá trị phản tuyên truyền nhiều hơn là tuyên truyền. Cho nên khi vào quân đội, tôi tình nguyện vào đơn vị tác chiến thứ thiệt vì căm thù kẻ địch thì ít mà vì cái máu ngông nghênh của tuổi trẻ, vì bị kích thích bởi những cảm giác mạnh của chiến trường thì nhiều.

Tuy nhiên, vì ở một đơn vị thường xuyên tác chiến, cùng gian nguy, cùng sống chết với nhau nên tôi đã gắn bó với bạn bè, đồng đội trong đơn vị như với anh em ruột thịt. Tôi yêu đơn vị tôi, tôi yêu màu mũ, màu áo tôi, tôi yêu thuộc cấp tôi và tôi kính trọng thượng cấp tôi. Tôi bình thản chấp nhận mọi thói hư tật xấu của thượng cấp và thuộc cấp, và chính tôi cũng có quá nhiều thói hư tật xấu.

Nhưng, khi hai ông xếp lớn của tôi là đại tá lữ đoàn trưởng và trung tá lữ đoàn phó bỏ lữ đoàn gồm bốn tiểu đoàn tác chiến và các đơn vị phụ thuộc tổng cộng vào khoảng trên dưới bốn ngàn người trong cơn quẫn bách để chạy lấy thân thì lòng căm hận của tôi đột nhiên bùng dậy. Tôi giết Việt Cộng không gớm tay nhưng không bởi lòng căm thù vì giữa chúng tôi và Việt Cộng đã có lằn ranh rõ rệt, hai bên chiến tuyến hẳn hòi, hễ cứ thấy mặt nhau là giết, dùng mọi mưu mọi cách để giết nhau. Còn đằng này, vừa mất niềm tin vừa tủi nhục vì những người mình vừa kính trọng vừa phải tuân lệnh một cách tuyệt đối.

Làm thuyền trưởng thì phải sống chết theo tàu, làm đơn vị trưởng thì phải sống chết theo đơn vị. Tôi muốn nói đến tinh thần trách nhiệm của người chỉ huy. Người có quyền hành mà không có trách nhiệm nào có khác gì kẻ phản bội. Chúng ta thua không phải vì kẻ địch mạnh mà vì trong hàng ngũ chúng ta có quá nhiều kẻ phản bội và hèn nhát. Chính vì lòng thù hận sự hèn nhát và vô trách nhiệm của cấp chỉ huy nên hình ảnh và diễn tiến những ngày cuối cùng trước khi cả lữ đoàn tan rã và bị bắt bởi khoảng hơn một đại đội du kích Việt Cộng vào nửa cuối tháng Ba năm 1975 đã như một cuốn phim nằm in trong trí nhớ của tôi, chỉ cần một cái ấn nút là được chiếu lại một cách rõ nét với đầy đủ những suy nghĩ và phản ứng của tôi, với từng diễn tiến nhỏ mà tôi đã phải trải qua.
Tôi ôm cái kỷ niệm đau đớn và tủi nhục này cả chục năm nay, qua những năm tù đày, qua những ngày tháng lang thang ở trại tỵ nạn, qua đến Mỹ, tôi đọc được lời tuyên bố của một ông tướng cũ nào đó trên báo đại khái "Ðể mất nước là tội chung của mọi người, làm lớn thì tội lớn, làm bé thì tội bé". Tôi nghĩ ngay đến một điều là những thằng đâm sau lưng chiến sĩ có tội, và những thằng chiến sĩ đưa lưng cho xếp của mình đâm cũng có tội luôn. Ðiều này đã là cái ấn nút để tôi kể lại câu chuyện này.

Ðiều tôi muốn nói trong quyển sách này là không ai là không quay lại nhìn chỗ mình vừa ngã, và cũng không ai là không quay lại nhìn đống phân mình vừa thải. Ngã là lỗi của chính mình, và phân có thối cũng là phân của mình, vậy mà tại sao cả chục năm nay vẫn không thấy ai dám quay nhìn lại cái lỗi đã làm cho mình ngã lên ngay trên đống phân của mình, mà chỉ có toàn những lời chửi bới và đổ lỗi cho người khác, can đảm lắm cũng chỉ dám nhận một cái lỗi chung chung "lớn lỗi lớn, bé lỗi bé" đúng theo cái kiểu "Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách". Thằng thất phu còn có lỗi thì còn ai mà không có lỗi, tôi cũng đành có lỗi vậy.

Tôi không nhớ câu này của ai: "Cái đám quân thần của triều đình cũ chẳng có gì phải ngại cả, vì khi có quân có quyền trong tay họ còn chẳng làm được trò trống gì, thì bây giờ, chỉ còn trơ lại có mỗi cái thân giá áo túi cơm, hỏi rằng họ sẽ làm được gì hơn ngoài cái giá và cái túi".

Ðâu phải đất nước ta là một bàn cờ để hễ đánh thua ván này, xóa đi xếp quân làm lại bàn khác mà tướng vẫn là tướng, quân vẫn là quân. Ðâu phải những con xe, con mã, con chốt đã chết đi đều có thể dựng đầu dậy để làm lại một trận mới.

Trí đã không mà dũng cũng không, chỉ có mỗi cái tài dở dở ương ương là sử dụng một cách bừa bãi cái dũng của người khác đến nỗi phải bỏ cả đất nước mà chạy, đánh lừa để bỏ hàng triệu thằng dám chiến đấu tới cùng vào trong những trại tù đỏ, vậy mà vẫn còn dám chường mặt ra đòi tiếp tục làm cha mẹ dân thì quả là quá lắm lắm. Cái dĩ vãng thối tha và hèn nhát thì dù cho người đương thời có thể bỏ qua, nhưng lịch sử đâu có tha thứ. Vẫn cái chính danh là chống Cộng nhưng cái ngôn của các ông trước kia làm xếp lớn đã không thuận rồi, bây giờ phải để cho lớp người mới. Với tư thế mới, họ mới là những người thuận ngôn. Danh chính ngôn thuận mới có thể thắng được Việt Cộng, khôi phục lại được đất nước. Những con chốt thấp cổ bé miệng, những thằng bị đè đầu sai khiến ngày xưa và những người mới lớn bây giờ mới có quyền nói và mới là người có tư cách làm.

Quyển sách này không hề là một tiểu thuyết mà là một hồi ký. Bởi vì tôi chưa từng là một người cầm bút và tôi cũng không biết cách sắp xếp câu chuyện như thế nào. Tháng Ba thì mọi người đã rõ, còn Gãy Súng, tôi muốn nói lên một điều đau lòng cho những thằng lính cầm súng, khẩu súng mà không có đạn thì giá trị không bằng một khúc củi mục, chính tôi đã dẫn đại đội xung phong lên chiếm mục tiêu mà chỉ bắn bằng mồm. Súng của chúng tôi có phải là đã bị bẻ gãy không khi mà vẫn có thể tiếp tế đạn cho chúng tôi để chúng tôi chiến đấu? Ai đã bẻ gãy súng của chúng tôi? Tôi đặt chữ Gãy Súng cho quyển sách này là như vậy.

Và tôi gọi Tháng Ba Gãy Súng là hồi ký vì tôi chịu hoàn toàn trách nhiệm về những điều tôi viết, tất cả những địa danh, những tên người, tên đơn vị, tất cả những diễn tiến đều là thật, thật một trăm phần trăm. Tôi không lồng vào đấy bất cứ một hư cấu nhỏ nào, chắc chắn là tôi đã quên khá nhiều chi tiết, và với cấp bậc và chức vụ thấp kém của tôi, chắc chắn là có rất nhiều dữ kiện mà tôi đã không được biết. Tôi viết lại hoàn toàn sự thật những điều mắt thấy, tai nghe, những điều tôi đã nhận lệnh và đã thi hành.

Nếu Tháng Ba Gãy Súng là tiểu thuyết thì tôi lại phải thêm một câu màu mè đại khái "những nhân vật và những sự việc đều do sự tưởng tượng của tác giả, mọi sự trùng hợp chỉ là ngẫu nhiên ngoài ý muốn...", trong khi tôi chỉ có một điều ngoài ý muốn là tôi đã không đủ khả năng để viết tất cả những điều tôi phải viết.

Cao Xuân Huy
° ° °

Tháng Ba Gãy Súng - Hồi Ký
Tôi và thằng bạn lang thang khắp các quán nhậu, quán bia ôm trong thời gian thành phố đang xôn xao về chuyện mất Ban Mê Thuột. Vừa mới xong vụ Phước Long thương khó, bây giờ lại đến Ban Mê Thuột "khó thương". Không biết lần này những nơi ăn chơi của trai thanh gái lịch Sài Gòn có bị đóng cửa ba ngày như lần trước không? Nhưng cả chuyện mất Ban Mê Thuột lẫn chuyện đóng cửa những nơi du hí chẳng ăn nhậu gì đến bọn tôi cả. Cho dù tất cả những quán bia ôm bị đóng cửa, bọn tôi vẫn có thể lê la những quán cóc lề đường. Hơn nữa, lúc này đã vào nửa cuối tháng lương mà ngày vui chắc chắn sẽ còn rất dài nên chuyện ngồi quán cóc lại là điều hợp lý và hợp tiền. Thành ra với bọn tôi, nhậu cái gì cũng là nhậu. Chúng tôi cần nhậu và sau đó xuống xóm tìm chị em ta, thật giản dị và dễ tính. Quán cóc và các xóm chị em ta bảo đảm là không bị ảnh hưởng một tí gì về chuyện thành phố phải để tang cho một địa danh nào đó vừa mất.
Tôi cũng vậy. Phước Long mất; Ban Mê Thuột mất; Pleiku, Kontum đang chuẩn bị mất tôi xem như "nơ pa", bởi vì tôi sống và lớn lên ở Sài Gòn nên tôi đã thừa hưởng trọn vẹn cái thói thản nhiên, cái tính phớt tỉnh Ăng Lê hơn người Ăng Lê của dân Sài Gòn. Thành thử một địa danh nào đó dù lớn dù nhỏ, vừa mất đi hay vừa chiếm lại được nếu không ăn nhậu gì đến chuyện làm ăn của mình, chuyện mất mát người thân của mình hay ảnh hưởng đến chuyện ăn chơi của mình thì dĩ nhiên không phải là chuyện của mình. Tiếng súng ở ngoài tầm tai của mọi người mà. "Tôi vẫn sống, tôi vẫn ăn và tôi vẫn thở...".

Tôi đã trú đóng một thời gian ở Ban Mê Thuột, cũng có một ít kỷ niệm lăng nhăng về tình cảm ở Ban Mê Thuột. Nhưng tôi không có tài sản, tôi không có thân nhân đang ở hay đang đánh đấm ở Ban Mê Thuột, và những nơi ăn chơi của tôi ở Sài Gòn không bị ảnh hưởng bởi chuyện mất Ban Mê Thuột, nên một năm mười hai tháng, chỉ có mấy ngày là được ăn nhậu thoải mái, không phải lo bất cứ chuyện gì, vậy thì tại sao tôi phải bận tâm về những chuyện không phải của mình? Mất hay không mất Ban Mê Thuột thì đã sao?

La cà ở các quán nhậu và sau đó xuống xóm đã là một chương trình bất di bất dịch trong những lần phép ở Sài Gòn. Ðã có lần tôi viết thư cho một người bạn kể về những lần phép và những ngày phép của tôi: "Ở Sài Gòn, suốt ngày tao chỉ ngồi và nằm, ngồi với rượu và nằm với gái, vì cả năm sau đó tao không còn được ngồi và nằm thoải mái nữa, và chưa chắc tao đã có thêm được một lần phép kế tiếp. Lý do thật giản dị là mỗi buổi sáng mở mắt ra mới biết là mình đã sống thêm được một ngày".

Thời gian này tôi chỉ tiếc một điều là Rex vừa chiếu một xuất đặc biệt phim Exorcist để lấy tiền giúp đồng bào chạy loạn; giá vé thật đắt nhưng đã hết nhẵn từ chiều, kể cả vé chợ đen đắt gấp ba bốn lần giá vé chính thức. Tôi đến trễ nên không mua được vé. Không hiểu cả năm nữa tôi mới được về, chắc gì đã đúng vào dịp phim này được chiếu lại. Tôi tiếc không phải vì tôi đã không được đóng góp chút đỉnh tiền theo kiểu trước mua vui sau làm việc nghĩa để cứu giúp đồng bào mình, mà vì phim này được quảng cáo hấp dẫn quá, tôi muốn được xem đã từ lâu rồi. Thôi thì lại nhậu.

Ðến ngày hết hạn trên giấy phép tôi ra trình diện hậu cứ ở Vũng Tàu để gia hạn, vì tôi đã lên máy bay rời Huế chậm hơn ngày ghi trong giấy phép. Ðường Sài Gòn - Vũng Tàu lúc này hơi mất an ninh nên những chuyến liên lạc giữa hậu cứ tiểu đoàn với Bộ tư lệnh ở Sài Gòn thưa hơn trước. Trong khi chờ đợi quyết định của tiểu đoàn trưởng ở hành quân, tôi la cà ở Bãi Trước để tránh phải nghe chuyện ngồi lê đôi mách, nói xấu nhau của những bà vợ sĩ quan ở khu gia binh của hậu cứ.

Ăn nhậu ở đây quá phí tiền nên không đợi tiểu đoàn trưởng gia hạn giấy phép - tôi biết chắc chắn là tôi sẽ không được gia hạn - và cũng không đợi để đi theo chuyến liên lạc, tôi tự động coi như mình đã hợp lệ chuyện kéo dài ngày phép, tôi lên xe đò về Sài Gòn sau một chầu nhậu say mèm với bọn đệ tử ở hậu cứ. Thủ hai quả lựu đạn trong túi quần cho chắc ăn, nhưng vừa bước chân lên xe tôi đã ngủ như chết. Về đến Sài Gòn tên lơ xe còn phải lay một hồi lâu tôi mới tỉnh.

Tôi lại liên miên sáng xỉn chiều say tối nằm quay với gái, mặc dầu đã hết cả những ngày phép tự gia hạn. Nhưng nhằm nhò gì, tôi vẫn còn những ngày phép tự ký nữa vì tôi là một thằng có biệt tài trễ phép. Tùy cơ ứng biến, tôi có trăm phương nghìn kế để trễ phép mà không bị phạt. Tôi đã từng đi hai mươi tám ngày trong khi phép chỉ có bốn ngày, ra đơn vị cũng chỉ cười trừ. Lần đi phép này, tôi đã không định trễ, nhưng vì tôi đã bị tiểu đoàn trưởng giữ lại đơn vị đến qua Tết ta trong khi giấy phép của tôi đã được gửi về hậu trạm trước Noël, nên không lý do gì mà tôi không trễ phép để bù lại sự thiệt thòi vô lý đó.

Suốt bảy năm lính tôi chỉ được ăn Tết lén ở Sài Gòn một lần vào đầu năm 70 vì tôi tình nguyện đi học khóa Rừng Núi Sình Lầy ở Dục Mỹ để câu giờ kiếm cái Tết. Ðể trả thù vì bị mất khơi khơi một cái Tết huy hoàng ở Sài Gòn tôi tính phải trễ phép một tháng tức là phải ở Sài Gòn một tháng rưỡi mới hả dạ. Tôi được phép thưởng đặc biệt mười lăm ngày, cho nên đã hết những ngày phép tự gia hạn, tôi còn đến một tháng phép tự ký nữa. Thiếu một thằng sĩ quan tại một đại đội lúc nào cũng có sẵn hai, ba thằng sĩ quan dự bị thì đâu có nhằm nhò gì, mợ đi lấy chồng thì chợ vẫn vui mà.

Nhưng chợ đã không vui.

Chiều 15 tháng Ba, tôi gặp thiếu úy Bé Quân Cảnh vừa từ Bộ tư lệnh hành quân về, cho biết tiểu đoàn tôi đang đụng lớn. Tiểu đoàn tôi nằm ở cây số 23 về phía bắc trên quốc lộ 1 tính từ Huế. Khu vực trách nhiệm của tiểu đoàn từ bờ bắc sông An Lỗ ra đến căn cứ Hòa Mỹ. Sát sông An Lỗ là hai làng Cổ Bi và Hiền Sĩ, nơi đã xảy ra những trận đánh lớn sát quốc lộ, và hiện nay vẫn đang bị đặc công và du kích quấy phá, nhưng chỉ là quấy phá chứ không có gì đáng ngại. Sát căn cứ Hòa Mỹ là làng Ðồng Lâm, một cái làng mà hầu như từ trưởng ấp trở xuống đều là Việt Cộng. Phía đông là bãi cát mênh mông, có một ít dân Quảng Trị chạy loạn về tạm cư lập thành một vài xóm nhỏ, tương đối an toàn. Còn về phía tây của vùng trách nhiệm, nơi đối diện thực sự với Việt Cộng, nơi mặt đối mặt, có chạm tuyến, có điểm đóng quân, nơi phía tây này có một trọng điểm là đồi 51. Từ đồi 51, chúng tôi có thể quan sát được những cuộc chuyển quân, kiểm soát được những hoạt động tại các vị trí của Việt Cộng, và cũng từ đồi 51, Việt Cộng có thể kiểm soát được các vị trí đóng quân của chúng tôi, kể cả một đoạn quốc lộ 1. Việt Cộng có thể dễ dàng liên lạc với bọn du kích nằm trong làng Ðồng Lâm, nằm ngay sát quốc lộ và ngay bên cạnh căn cứ Hòa Mỹ.

Nếu tiểu đoàn tôi đụng lớn, chắc chắn là đụng tại đồi 51. Tính theo vòng thay đổi điểm đóng quân trong tiểu đoàn thì đại đội tôi đang nằm ở đồi 51.

Ban Mê Thuột mất không ăn nhậu gì đến tôi. Người ta đang bỏ Pleiku, Kontum cũng chẳng nhằm nhò gì đến tôi. Nhưng đồi 51, một ngọn đồi nhỏ không có tên, chúng tôi phải lấy cao độ của nó để đặt cho nó một cái tên cho dễ gọi, nơi mà không một người Sài Gòn nào nghe nói đến, nơi mà dù có mất nó cũng không đáng để cho người ta xê dịch cái kim hay đổi màu bút chì mỡ trên bản đồ chiến sự trong những báo cáo hằng ngày, nơi mà bản tin chiến sự hằng ngày của đài phát thanh quân đội cũng không buồn đọc, nơi mà báo chí hằng ngày cũng coi như không đáng đăng bằng tin xe cán chó, thì chính nó, cái đồi trọc lóc, nhỏ xíu và lùn tịt nằm ở cực bắc Việt Nam Cộng Hòa, lại là điều rất quan trọng đối với tôi, đã làm tôi bỏ ăn bỏ nhậu, đã làm tôi đang phè phỡn phải tìm mọi cách ra đến nơi càng sớm càng tốt. Nó mạnh hơn những ngày phép trả thù của tôi, nó hạ đo ván tất cả những lý do, những cái mánh tôi đang sắp xếp để qua mặt Tiểu đoàn trưởng, vì đó là ngọn đồi mà đại đội tôi đang trấn đóng, nơi mà anh em bè bạn, thầy trò của tôi không biết thằng sống thằng chết ra sao.

Sáng 16 tháng Ba, tôi lên trình diện Bộ tư lệnh, phòng Tư cho biết ít ra phải cả tuần nữa mới có được tên trong danh sách của chuyến bay ra Ðà Nẵng - phi trường Phú Bài đã không sử dụng được vì nằm trong tầm pháo của Việt Cộng. Lúc ăn điểm tâm tại Thị Nghè sáng ngày 17 tôi đã năn nỉ thượng sĩ Tuấn, người phụ trách lập danh sách cho các chuyến bay của Sư đoàn để được có tên trong chuyến bay ngày 18.

Chiều 17 tháng Ba, tôi chào gia đình để đi. Bà ngoại ôm tôi khóc. Mẹ tôi không muốn tôi đi. Và cậu tôi - tuy là em của mẹ tôi nhưng ông mới chính là bố tôi vì ông đã nuôi tôi từ ngày còn đỏ hỏn cho đến khi tôi bước chân vào đời - khuyên tôi nên đào ngũ vì tình hình theo ông biết là Mỹ sẽ bỏ rơi Việt Nam. Ông nói:

"Tình hình lúc này không còn được như trước nữa đâu con ạ! Những người Mỹ cậu quen đã lục tục về nước gần hết, chỉ còn ít người ở lại để thu xếp công việc, cậu chắc là rồi họ cũng sẽ đi nay mai gì đó thôi. Tốt nhất là con nên ở nhà để còn lo liệu cho gia đình. Nhà mình chỉ có cậu với con là đàn ông thôi."

Tôi tin là ông nói thật. Dĩ nhiên là ông không nói hết những điều ông biết nhưng ông cho tôi một lời khuyên gói trọn tất cả những điều ông cần nói. Sự quen biết của ông đủ để bảo đảm những điều ông nói nên tôi tin là ông thực sự muốn tôi đào ngũ ở nhà để tránh phải húc đầu vào những trận đánh vô ích. Nhưng tôi không nghe lời ông. Chắc chắn là Mỹ không bỏ Việt Nam, bao nhiêu xương máu và của cải của Mỹ đã đổ xuống đây rồi. Và hiện giờ Mỹ chỉ không tăng viện trợ chứ Mỹ đâu có cắt hết viện trợ. Chúng tôi đã chẳng phải chiến đấu theo kiểu nhà nghèo từ sau ngày ngưng bắn rồi ư. Còn một điều nữa là bạn tôi, anh Phát làm ở Hạ Viện, cho biết là sẽ cắt đất hoặc ở An Lỗ hoặc ở Lăng Cô.

Hơn nữa, còn đồng đội tôi, còn đàn em tôi, còn danh dự tôi. Tôi sẽ ăn nói thế nào với họ khi mà tôi, thằng Huy Râu của tiểu đoàn 4 đào ngũ khi đơn vị đụng trận. Riêng chuyện trễ phép trong khi đại đội bị tấn công ở đồi 51 đã không đủ nhục hay sao, không lẽ bây giờ tôi lại bỏ mặc tụi nó, đào ngũ để lo cho thân mình vì chuyện khó tin chưa xảy ra. Không, cậu tôi nói thật nhưng chỉ là điều ông căn cứ vào những tin tức từ bạn bè, người quen của ông; còn tôi, tôi không thể nghe lời ông vì tôi không muốn là một thằng hèn. Tôi nói với ông: "Sống chết sướng khổ gì cũng có số hết cậu ạ. Cháu không muốn phải ngượng mỗi lần gặp lại bạn bè, đồng đội."

Tôi không phải là một người hùng, nhưng tôi cũng không phải là một người hèn. Tôi chỉ là một người lính, lính của một binh chủng chuyên môn đánh trận và chỉ nhận những người tình nguyện; tôi phải xứng đáng với màu mũ tôi đang đội, màu áo tôi đang mặc, và hơi cá nhân một chút, tôi phải xứng đáng với cặp lon tôi đang đeo... Nhưng tôi cũng không phải là một người lính gương mẫu, đúc khuôn theo những điều được huấn luyện trong quân trường, thi hành đúng 8 điều, 10 điều tâm niệm của mấy ông Chiến Tranh Chính Trị đẻ ra mà chính mấy ông ấy lại không bao giờ thi hành. Tôi là một thằng lính ba gai, cờ bạc, rượu chè, trai gái đủ cả nhưng đánh giặc cũng rất tận tình. Chưa một ai, thượng cấp cũng như thuộc cấp, phải than phiền về tôi trong những trận đánh.

Trưa 18 tháng Ba, ra đến Ðà Nẵng, tôi phải ngủ lại một đêm vì không có xe ra Huế. Bộ tư lệnh hành quân đang chuyển từ Hương Ðiền Huế vào căn cứ Non Nước Ðà Nẵng. Xe cộ đang dành ưu tiên để chuyển các tiểu đoàn của Lữ đoàn 258 và 369 vào Ðà Nẵng thay cho các tiểu đoàn Dù rút về Sài Gòn.

Ngoại trừ phi trường Ðà Nẵng rất đang chộn rộn về những đống quan tài phủ cờ được đưa về Sài Gòn và những người dân Pleiku, Kontum được di tản bằng máy bay đến, nhịp sống của những người dân trong thành phố hình như không có gì thay đổi. Tôi và mấy người lính cùng tiểu đoàn lại lang thang trong thành phố để tìm các quán nhậu và xóm chị em ta. Cà phê, xi nê, vũ trường vẫn đông đảo tấp nập. Buổi tối chúng tôi còn kéo nhau đến xem hội chợ tại một trường nữ trung học nhân dịp lễ kỷ niệm một nữ anh hùng nào đó trong lịch sử mà tôi không nhớ. Người ta vẫn ăn diện, người ta vẫn chơi bời, người ta vẫn vui vẻ thoải mái, đường xá vẫn rất nhộn nhịp. Sinh hoạt bình thường này đã làm yên lòng những người dân vừa từ Quảng Trị và Huế chạy vào.

Căn cứ chuyển vận vẫn tối tăm, hôi hám và bẩn thỉu như thuở nào, vẫn nhộn nhịp và ồn ào vì chưa bao giờ được yên tĩnh. Những ông già mệt mỏi và những người đàn bà xốc xếch đang vật vã khóc quanh những quan tài phủ cờ được mang để ở đây không biết từ lúc nào, và cũng không biết đến bao giờ mới được mang đi. Máy bay đã không còn chỗ cho những chiếc quan tài này, và đường thủy cũng chỉ nhận mỗi ngày một số rất hạn chế.

Có cả xác của những người lính của tiểu đoàn tôi đã nằm đợi ở đây bốn, năm ngày. Và thân nhân của họ ở đâu miệt lục tỉnh cũng đã ra đến, xác của họ phải được mang đi gấp vì họ chết ít ra cũng đã hơn một tuần, không hiểu thứ tự ưu tiên của căn cứ được sắp xếp thế nào mà xác họ vẫn còn để đây. Và điều này cũng làm tôi thắc mắc là từ ngày Sư đoàn tôi ra Quảng Trị, chúng tôi vẫn có những chuyến bay riêng để tiếp tế, tải thương, tải xác... tại sao bây giờ chúng tôi lại phải tải xác qua hệ thống chuyển vận của căn cứ này? Tôi được yêu cầu đứng ra can thiệp nhưng chẳng đi đến đâu cả, chỉ nhận được những lời hứa, mà lời hứa thì giá trị khỉ gì trong lúc này!

Chúng tôi lại kéo nhau ra cái quán nằm xế cổng căn cứ nhậu tiếp. Lại nhậu, mặc dầu mấy thằng chỉ còn một cây thuốc Capstan đem theo để đổi rượu. Tại quán nhậu, tôi gặp mấy người lính Lôi Hổ đóng tại Ðà Nẵng, họ cho biết nửa khuya này họ phải nhảy vào Ban Mê Thuột. Tôi nghĩ bụng quả là chó má khi cố tình giết thêm một ít người nếu đúng như họ phải nhảy vào Ban Mê Thuột. Hy vọng điều này không đúng với sự thật. Quyết định thí quân hay quyết định sai lầm của một cấp chỉ huy có thể giết chết hàng đơn vị lớn cũng không đáng trách, nhưng quyết định thảy một toán lính vào một nơi mà hàng sư đoàn không chống giữ nổi, kéo theo cả một quân đoàn phải rút chạy thì cái chết của họ phí quá. Ai là người chịu trách nhiệm về những cái chết kỳ cục vô ích này? Lính cũng là người chứ đâu phải đồ chơi cho những ông xếp lớn!

Trưa 19 tháng Ba, tôi ra đến Huế. Sinh hoạt ở đây rất vội vã, vội vã chứ không ồn ào. Hình như người dân ở đây đã quá quen với những lần phải bỏ nhà bỏ cửa chạy lấy người, và hình như những người chuyên gây ra chuyện ồn ào đã bỏ chạy từ trước rồi. Những người nhà giàu đã vào Ðà Nẵng hoặc Sài Gòn, những người trung lưu cũng đã vào Ðà Nẵng trú thân, cái vội vã chỉ xảy ra ở những người buôn bán nhỏ, hoặc ở những người còn cố nán lại ở thành phố để kiếm thêm chút "cháo".

Tôi cũng vội vã không kém. Tôi phải mua ít đồ lặt vặt để đi gấp ra tiểu đoàn trong buổi chiều để còn kịp về đến đại đội trước khi trời tối. Tôi không thể đợi đến ngày hôm sau đi theo chuyến tiếp tế vì tiểu đoàn trưởng ra lệnh tôi phải ra hành quân ngay trong ngày bằng mọi giá. Vả lại, tôi cũng không thích nhìn thành phố Huế đang trên đà giãy chết này nên ra hành quân cho êm chuyện.

Xuống xe tại sân tiểu đoàn, tôi gặp một thiếu tá rất lạ mặt đang đứng với tiểu đoàn trưởng ở cửa lều ban Ba. Tôi trình diện. Ông thiếu tá lạ hoắc đó tên là Thành cũng mang bảng tên màu đỏ của tiểu đoàn. Ông bắt tay tôi và hỏi tiểu đoàn trưởng:

"Ông sĩ quan này đây hả?"

Nghe câu này, tôi biết chắc là hai người đã nói chuyện về tôi, và dĩ nhiên không phải là nói tốt. Nhằm nhò gì! Tiểu đoàn trưởng không trả lời, quay sang nói với tôi:

"Ðụ mẹ, ông về đại đội liền bây giờ."

"Ðại đội tôi nằm đâu, thiếu tá?"

"Ðụ mẹ, không biết, ông đi cho khuất mắt tôi đi!"

Tiếng chửi thề của ông rất nhỏ nhưng tôi biết ông chửi thề vì thấy môi ông mấp máy trước khi nói. Tôi chào và quay đi với một chút thích thú, đâu phải thằng nào cũng làm cho "Hitler" chửi thề được, dù chỉ chửi lẩm bẩm trong miệng. Ông đuổi tôi đi ngay lập tức, tức là tôi không phải trả lời ông về lý do trễ phép, dĩ nhiên như vậy tôi đâu có bị phạt. Ra đến Huế, hậu trạm đã cho tôi biết đại đội bị "banh ta lông" ở đồi 51 không phải là đại đội tôi, như vậy, cái gánh nặng trong người tôi đã được trút bỏ, chỉ còn mỗi cái gánh nhè nhẹ là bị phạt này bây giờ cũng được tháo bỏ nốt.

Trung úy Xuân đại đội trưởng đại đội chỉ huy cho tôi biết là thiếu tá Thành sẽ thay thế thiếu tá Toàn làm tiểu đoàn trưởng, hẳn là hai ông đã bàn giao cả cái ba gai của tôi. Ðại úy Phó đang tập sự làm trưởng ban Ba để đi với thiếu tá Toàn qua tiểu đoàn 18, đại đội 3 của đại úy Hiếu đã qua tiểu đoàn 14 trước, còn đại đội mới thành lập của đại úy Chiêu nay trở thành đại đội 3 đã "banh" mất nửa đại đội tại đồi 51, thiếu úy Sáng đại đội phó chết cùng với lính, trong số chết có thằng Hiếu, tên cao bồi ruột của tôi.

Khi thành lập đại đội mới, tôi chắc mẩm là qua làm đại đội trưởng nên đã đưa Hiếu qua trước để khi tôi qua khỏi bị rắc rối giấy tờ, nhưng cuối cùng đại úy Chiêu làm đại đội trưởng và thiếu úy Sáng làm đại đội phó, tôi gửi Sáng thằng Hiếu, đâu ngờ tôi đã gửi thằng Hiếu cho cái chết.

Tôi cũng được biết đáng lẽ đại đội 4 tôi lên nằm đồi 51 theo đúng vòng luân phiên nhưng vì thiếu đại đội phó -là tôi- nên đại đội 3 đã lên thay. Như vậy, chuyến đi phép của tôi đã cứu tôi và cứu nửa đại đội của tôi, nhưng chuyến đi phép của tôi đã làm chết oan Sáng và nửa đại đội của Sáng. Ðồi 51 đã được đại đội 2 lấy lại sau đó một ngày, giải thoát được một tiểu đội còn bám lại và lấy lại toàn bộ vũ khí bị mất, chỉ thiếu có bộ phận máy nhắm của một khẩu súng cộng đồng, đồng thời tịch thu được khá nhiều vũ khí. Xác lính thiếu mấy cái được kể như mất tích. Xác thiếu úy Sáng cởi trần và không có thẻ bài, được nhận diện bằng cái ống quần chật cố hữu và cái khóa thắt lưng đặc biệt, loại chỉ có khung mà không có mặt.

Sáng và tôi ở hai đơn vị khác nhau, học cùng một khóa ở Rừng Cấm, trung tâm huấn luyện của sư đoàn, cùng về đại đội một ngày, tuy mỗi thằng chỉ huy một trung đội nhưng thường đi cặp với nhau trong những trận ủi bãi. Hai thằng tôi còn là một cặp tri kỷ về nhậu. Sáng, tôi và Thiện - đã đi đơn vị khác - được mệnh danh là ba cái nắp nhạo. Sáng đeo lon chuẩn úy hơi lâu trên cổ - bốn năm - mà không vì một lý do nào hết, là một trung đội trưởng kỳ cựu nhất tiểu đoàn - hơn ba năm - nên vừa lên thiếu úy vài tháng đã được làm đại đội phó. Cuộc đời binh nghiệp của Sáng khá lận đận mặc dầu là một người rất tôn trọng kỷ luật chứ không thuộc loại mất dạy như tôi. Bây giờ lên lon, lên chức liên tục dù rằng đã trễ, tưởng rằng sự nghiệp kaki sẽ khá hơn chút đỉnh, nào ngờ lương thiếu úy chưa được lãnh, hồ sơ chức vụ đại đội phó chưa điều chỉnh xong thì đời Sáng đã xong.

Khi địch tràn ngập vị trí phòng thủ ở đỉnh đồi, Sáng đã xin pháo binh bắn thẳng vào đầu mình, không khóa, không mã, không ngụy, không ám danh đàm thoại gì hết trên hệ thống truyền tin, tiếng Sáng ngắn gọn sau một tiếng chửi thề: "Ðụ mẹ, nó đông quá, chụp lên đầu tao!" Pháo đã chụp lên đỉnh đồi và hai chiếc máy bay cũng nhắm thẳng đỉnh đồi mà dội.

Cái chết thật anh hùng nhưng cái chết thật vô danh - đã đành -. Cái sống anh hùng của cả một tiểu đội vẫn bám chặt, vẫn chiến đấu trên ngọn đồi đã bị địch tràn ngập cho đến khi được giải cứu, đã chỉ được nhắc nhở đến như một tin tức bình thường. Có vô tình quá không, mặc dù ai cũng hiểu một vài điều khích lệ lúc này, một chút cử chỉ quan tâm lúc này còn giá trị hơn một triệu hành động tuyên truyền chiến tranh chính trị. Tôi thắc mắc không hiểu tiểu đội anh hùng này là người hùng riêng của tiểu đoàn 4 hay họ cũng là anh hùng của cả binh chủng, của cả quân đội. Chắc chỉ có những ông xếp lớn chết hoặc sống hơi "ngon" một chút mới đáng là anh hùng, còn những thằng cỡ thiếu úy Sáng, cỡ tiểu đội cố thủ trên đồi 51 này thì là "cái mẹ gì". Quân đội không thiếu những anh hùng cỡ là "cái mẹ gì" mà thành ra thiếu anh hùng một cách trầm trọng. Tôi sực nhớ lại một trong những người là chiến sĩ xuất sắc thuộc tiểu đoàn tôi về dự đại hội chiến sĩ xuất sắc ở Sài Gòn năm 73 là người quanh năm suốt tháng ở hậu cứ, hầu như suốt cuộc đời nhà binh chưa hề nghe một tiếng súng bắn ngược. Hoan hô những người hùng.

Tôi hỏi trung úy Xuân:

"Ðại đội tôi nằm ở đâu ông?"

"Chỗ cũ, đến đường rầy quẹo trái."

Tôi ra khỏi chỗ đóng quân của Ban chỉ huy tiểu đoàn, băng ngang quốc lộ đi dọc lên phía bắc, qua chợ Ðông Hòa cũ, mặc dù hôm đi phép tôi còn ngồi ở góc chợ uống bia chờ xe đò, nhưng bây giờ chưa đầy một tháng vắng mặt, tôi đã phải gọi là cũ vì nó chỉ còn trơ ra những cái xạp cháy dở và những tấm vách nằm ngổn ngang đầy những dấu đạn đại bác. Tôi quẹo trái vào con đường đất đỏ dẫn vào phía núi.

Con đường nhỏ dẫn vào chân núi này rất quen thuộc với tôi nhưng bây giờ lạ hẳn. Ngay từ căn nhà đầu tiên, quán nhậu của mẹ con cô giáo Hương đã không còn nguyên vẹn, mái tôn đổ ụp xuống làm văng tung tóe những tấm ván thùng đạn pháo binh được đóng làm vách, căn nhà bên cạnh, tiệm hớt tóc miền quê cũng không còn cái cọc nào đứng nguyên. Suốt một dọc, những căn nhà ven chợ này đều có chung hình dạng tan nát của cái chợ. Càng vào sâu, nhà cửa càng tan hoang, dấu vết của những đợt pháo kích khủng khiếp.

Qua hết khu "thị tứ" ven chợ, băng qua một vũng sình lớn, tôi đến khu trong. Gọi là khu trong vì có đám sình ngăn cách với khu buôn bán bên ngoài chứ thực ra chỉ có lèo tèo vài căn nhà lụp xụp để ở. Khu trong còn nguyên vẹn. Tôi đến gần, một bà sư từ trong nhà đi ra, gọi tôi hỏi: "Răng eng đi giờ ni mà đi có một miềng?"

Câu hỏi làm tôi sững người. Mặt trời đã lặn, tuy còn thấy rõ mặt người nhưng chỉ là ánh sáng phản chiếu mà đường vào đến đại đội tôi còn xa. Bây giờ tôi mới chợt để ý là khu này không còn người dân nào, vì nhà cửa họ cháy hết đã đành, mà tình hình lúc này không còn phải là tình hình của những ngày tôi chưa đi phép. Nhìn xuống khẩu súng, tôi nổi gai ốc khắp người, súng tôi không có đạn.

Bằng động tác rất tự nhiên, tôi kê khẩu súng lên túi đạn bên hông - dĩ nhiên túi đạn cũng rỗng - đứng nghiêng người để bà sư không thể nhìn thấy chỗ lắp băng đạn của khẩu M-16 tôi cầm trên tay đang rỗng tuếch. Tôi trấn tĩnh rất nhanh.

"Có lính ra đón tôi. Tại sao bà lại ở đây có một mình?"

"Tui tu hành mà eng. Eng đi cho cẩn thận chứ mấy hắn thường ra giờ ni nớ."

Tôi bước đi, trong đầu không còn nghĩ đến Sáng, không còn nghĩ đến Hiếu, không còn nghĩ đến hùng đến hèn gì nữa mà chỉ còn nghĩ đến mình. Tôi đã quá cẩu thả để không hỏi rõ tình hình, để không lấy vài băng đạn đem theo, để không gọi máy về đại đội gọi lính đi đón. Sự cẩu thả này không thể chấp nhận được. Cái lỗi này chỉ cần một chút "xui" là không bao giờ còn vấp phải lần thứ hai vì chắc chắn không còn lần thứ hai nào nữa để mà vấp phải. Tôi bước đi, hấp tấp nhưng phải cố làm ra vẻ như mình không hấp tấp, mắt đảo thật nhanh, láo liên như một thằng ăn cắp, nhưng lại phải rất kín đáo nhìn lại phía sau, súng không có đạn mà lúc nào cũng phải nắm lấy tay cầm của khẩu súng trong tư thế sẵn sàng bắn, nhưng dĩ nhiên phải giấu phía gắn băng đạn quay vào người. Cứ trong tư thế mâu thuẫn như vậy tôi đi. Trời không lạnh mà tôi run, trời không nóng mà tôi toát mồ hôi. Bàn tay phải đã ướt nhẹp mà tôi không dám rời tay cầm của khẩu súng để lau. Tôi phải giữ đúng tư thế sẵn sàng tác chiến với hy vọng may ra đánh lừa được tên du kích nào lấp ló ở đâu đó chăng. Tôi cố gạt phắt ý nghĩ là nếu thằng du kích nào đó có súng thì cho dù tôi có ở tư thế "hiên ngang" như thế nào đi nữa thì nó vẫn có thể "tỉa" tôi một cách dễ dàng. Nhưng với tư thế này của tôi, biết đâu nó có thể nghi rằng đàng sau tôi đang còn một tốp lính nữa mà tôi chỉ là thằng xích hầu, nếu chỉ có một mình chắc chắn nó sẽ không dám bắn. Một cú tháu cáy cạn láng mà tôi chỉ có đôi bạt mặt.

Sự bình tĩnh gần như chỉ còn là phản ứng không phải của tôi, được tăng lên theo sự rút ngắn của đoạn đường, nhưng lại giảm xuống theo sự mất dần của ánh sáng. Lời nói dối bà sư khi nãy trở thành niềm hy vọng to lớn tôi mong chờ: tôi chờ được gặp tốp lính đang trên đường đi đón.

Ðến đường rầy là ngã ba đường thì cũng lại là ngã ba đường của tôi, "chỗ cũ" của đại đội tôi và "tới đường rầy quẹo trái" là hai địa điểm ngược đường với nhau, quẹo trái thì không thể nào đến chỗ cũ, mà đi băng qua đường rầy thì lại sai với lời chỉ đường. Tôi chửi thầm trung úy Xuân đã chỉ đường cho tôi một cách bá láp, tôi chửi thầm tôi đã không kịp nhận định cho rõ trước khi rời tiểu đoàn, tôi cũng chửi thầm luôn đại đội trưởng đã biết tôi về đến mà không cho lính đi đón.

Tôi phân vân nhưng không được phép chần chừ, quyết định chậm phút nào là kéo dài sự nguy hiểm thêm phút nấy. Tôi không dám lên chỗ cao để nhìn cho xa, vì ánh sáng lúc này không đủ cho tôi nhìn xa và bóng tối lại quá đủ cho thân hình tôi in rõ nét trên nền trời. Chỉ còn chừng ba mươi thước là đến đúng chỗ rẽ, suy tính của tôi không được phép lâu hơn ba mươi bước đôi của một người bước vội. Tôi không còn lựa chọn giữa hai nơi "chỗ cũ" và "đến đường rầy quẹo trái" nữa, mà tôi chỉ còn được phép chọn lựa lối đi theo địa thế. Nếu đi băng qua đường rầy tôi sẽ phải đi băng qua mấy cái đồi trọc nằm thoai thoải, dễ chết quá, tôi sẽ là một mục tiêu rất rõ cho những tay súng nhắm bắn từ sát mặt đất. Còn nếu quẹo trái, tôi sẽ phải đi vào con đường mòn thật nhỏ, quanh co và nhiều bụi rậm, cũng dễ chết lắm vì khu này đã không được "ổn" từ những ngày tôi chưa đi phép, huống hồ bây giờ.

Tôi quyết định quẹo trái vì chưa chắc hiện giờ lối nào "ổn" hơn lối nào. Nếu đi trên đồi, hai bên gặp nhau thì thằng chết chỉ là tôi, nghĩa là kể cả trường hợp tôi thấy địch trước, vì tôi không có lấy một viên đạn... làm thuốc. Còn nếu quẹo trái, ngộ nhỡ có đụng đầu nhau, kể cả trường hợp tôi thấy địch sau, tôi vẫn còn có thể lủi vào bụi rậm hai bên đường để mà "chẩu".

Tôi đi rất cẩn thận, nghe ngóng và dọ dẫm ở những khúc quanh và chạy thật nhanh ở những khúc thẳng. Ðến bụi rậm cuối cùng, tôi dừng lại quan sát ngọn đồi trước mặt. Con đường lượn lên dốc thoai thoải vòng quanh chân đồi, bên phải trống trơn, một vài bụi rậm nhỏ không đủ che giấu cho tôi đi qua được chân đồi vì bên trái con đường, lên cao một chút trên sườn đồi đang có lố nhố mấy người đứng ngồi nhấp nha nhấp nhô. Bằng mắt với ánh sáng và khoảng cách lúc này tôi không thể phân biệt được họ là ai, mình hay địch. Không phân biệt được bằng mắt thì phân biệt bằng tai vậy: tôi cố gắng lắng nghe họ nói chuyện. Dĩ nhiên với khoảng cách này thì chỉ tiếng được tiếng mất, nhưng tôi đâu cần nghe câu chuyện của họ, mà tôi chỉ cần phân biệt cái giọng của họ, nếu giọng Nam thì thật "đã đíu", mọi chuyện sẽ êm xuôi tại đây, còn nếu giọng Bắc nhà quê hoặc giọng trọ trẹ miền Trung thì... đằng sau quay, và chắc chắn là tôi sẽ có một đêm ngủ vật vờ trong bụi để làm mồi cho lũ muỗi rừng và... đợi sáng tính sau.

Tôi vận dụng tất cả mọi khả năng, dồn hết sức sống của tôi vào đôi tai để chờ đợi, nhưng ngoài tiếng côn trùng và tiếng gió, tôi không nghe được một tiếng nói nào của mấy người trên sườn đồi kia. Tuy nhiên, tôi bình tĩnh thật lạ lùng, cái bình tĩnh của thằng lính khi ra trận đã biết rõ mục tiêu, biết rõ từng vị trí của địch, đã nghe tiếng súng nổ, không còn sự hồi hộp lo sợ của sự chờ đợi những viên đạn đầu tiên của địch thay cho lệnh khai hỏa ghim vào thân thể mình trước khi kịp nghe tiếng súng, không còn là chuyện may rủi trời kêu ai nấy dạ của những viên đạn bắn sẻ nữa, mà là cái bình tĩnh của một sự việc đã được tính toán, đúng thì sống mà sai thì... húp cháo rùa.

"Ðù má, lâu dzậy mảy?"

Tiếng nói đột ngột, không đủ lớn nhưng đủ lọt vào tai tôi. Xong rồi! Tiếng chửi thề nghe sao dễ thương lạ. Tiếng chửi thề đã chấm dứt sự nguy hiểm bao quanh tôi. Bọn này hẳn phải là lính đại đội tôi, đang gài mìn tại tiền đồn cấp tiểu đội.

Tôi ung dung trở ra đường mòn, bằng điệu bộ rất thoải mái, súng vác vai vừa đi vừa huýt gió "cờ bay cờ bay oai hùng..." để tránh sự bất ngờ có thể gây ra ngộ nhận. Mấy người lính dừng tay nhìn tôi, và khi đi vòng theo chân đồi không thấy ai lên tiếng hỏi thăm, chắc là tối quá tụi nó không nhận ra mình, tôi lên tiếng:

"Ðứa nào đó bay?"

Không nghe tiếng trả lời, tôi hỏi tiếp:

"Ðại đội 4 phải không?"
"Ðụ mẹ, đi đâu về trễ vậy cha nội?"

Tôi bực mình, lính tráng thế này thì hỏng rồi, tôi xẵng giọng:

"Ðại đội nằm đâu?"

"Ủa, phép ra há mảy, đi tới là gặp liền. Mà đi lẹ lẹ nghe cha nội, coi chừng tụi nó gài "đồ chơi" rồi đó."

"Có máy không, báo là tao về tới, khoan gài."

"Không."

Tiếng không cụt ngủn và có vẻ hơi xẵng. Tôi vừa bực mình vừa buồn cười liên tưởng đến một chuyện cũ. Năm 72, tôi bị thương, trong khi nằm ở tiểu đoàn đợi trực thăng tải thương, có một tay cũng bị thương và đợi trực thăng như tôi xin tôi điếu thuốc và hỏi một câu làm quà:

"Ðụ mẹ, mày cũng bị thương hả?"

Tay lính này chắc chắn chưa tới hai mươi, mặt mũi còn non choẹt và điệu bộ đầy vẻ dê cỏn buồn sừng. Tôi trả lời ậm ừ. Nó hỏi tiếp:

"Mày trung đội mấy?"

"Trung đội 2."

"Tao cũng trung đội 2, mày tiểu đội mấy?"

"Tao ở PC trung đội."

"Ðụ mẹ, mày tà lọt mà cũng bị thương hả?"

"Ờ, tao trung đội trưởng."

Thằng bé bẽn lẽn:

"Ủa, ông thầy, em đâu có biết."

Dĩ nhiên là nó không biết tôi, và cả tôi cũng không biết nó. Nó là một thằng lính mới tò te, rất tò te vừa được đưa từ trung tâm huấn luyện Rừng Cấm ra tiểu đoàn, ban Một tiểu đoàn phân phối cho đại đội, thường vụ đại đội chia cho trung đội, trung đội phó nhận rồi đưa ra tiểu đội. Trung đội đang "ủi bãi", nó về đến trung đội buổi chiều, buổi tối tôi bị thương, nó đâu thể biết trung đội trưởng là ai được.

Còn một chuyện nữa, cũng năm 72. Tiểu đoàn trưởng lúc đó là trung tá Quang. Trên hệ thống truyền tin ông là Quang Trung, nhưng trên cửa miệng của những thằng lính chúng tôi thì ông là Quang Bóp Cổ. Nghe tên Quang Bóp Cổ phải hiểu ngay ông là nhân vật như thế nào trong đơn vị. Tiểu đoàn nằm ở thôn Bích La bên cạnh bờ sông Vĩnh Ðịnh, đại đội tôi nằm ôm tiểu đoàn. Một hôm Việt Cộng chen vào giữa đại đội 2 và tiểu đoàn. Sáng hôm sau chúng tôi đánh bật Việt Cộng ra ngoài đồng trống, thôi thì lính tráng tha hồ bắn những cái bia di động. Quang Bóp Cổ cũng lấy M-79 ra bắn loạn xà ngầu. Tụi tôi thấy Quang Bóp Cổ thằng nào cũng né, dạt ra một nơi. Chuẩn úy Chiếm lúc đó đang đi OJT trong đại đội, thấy một thằng mặc áo thun ba lỗ bắn M-79 dở ẹc, anh chàng đi tới vừa giựt khẩu súng vừa chửi thề: "Ðụ mẹ, bắn như cái con cặc mà cũng đòi bắn, đưa đây tao!"

Ðó là những mẩu chuyện ngộ nhận, nhưng trường hợp tôi bây giờ lại khác. Trong toán lính này ít nhất cũng phải có một thằng biết tôi; không kể thời gian làm trung đội trưởng, tôi đã làm đại đội phó đại đội 4 này ít ra cũng đã hơn hai năm rồi. Tại sao ngay cả tên chỉ huy cũng không nhận ra tôi? Hay là...

Tôi chạy thật nhanh, lần này thì chạy thật chứ không còn giả vờ gì nữa, để kịp về đến đại đội trước khi mìn và lựu đạn gài chặn lối đi. Tôi chạy một mạch gần hai trăm thước tới chân đồi đại đội, thấy mấy người lính đang từ trên đồi đi xuống, tôi đi ngược lên. Khi tới ngang họ, tất cả dừng lại tránh lối cho tôi đi lên, họ nhìn tôi có vẻ ngạc nhiên, tôi nhìn họ cũng rất ngạc nhiên, tất cả những khuôn mặt đều lạ. Tôi hỏi:

"Ðại 4 phải không?"

"Ừa, đại 4."

Một người lính từ trong lều trên đồi bước ra hỏi vọng xuống:

"Gì đó bay?"

Tôi bỏ toán lính, đi tiếp lên đồi. Toán lính nhìn nhau rồi nhìn tôi, rồi lại nhìn nhau. Khi tôi đi qua người lính gác, đi tới người lính đứng trên đồi, họ mới tiếp tục đi xuống. Người lính đứng trên đồi hỏi vọng xuống là ông thượng sĩ già. Tôi nhìn kỹ bảng tên, bảng tên màu hồng. Té ra đây là đại đội 4 của tiểu đoàn 7. Rõ chán!

"Thượng sĩ cho tôi gặp đại đội trưởng."

Người lính già trố mắt nhìn tôi, chắc chắn là không hiểu gì cả, bảo tôi đứng đợi rồi chui vào cái lều lớn ở giữa sân. Ông ta không hiểu nhưng tôi hiểu là mình đã đến lầm đơn vị, và việc của tôi ngay lúc này là phải gặp đại đội trưởng ở đây để nhờ liên lạc với đại đội tôi cho người đến đón. Nguy hiểm có thể đã hết, nhưng mệt thì còn nhiều. Ông thượng sĩ trở ra, tay cầm đèn được thắp bằng pin của máy PRC-25; một người nữa ra theo, tôi nhận ra người đi sau là Minh, bạn tôi.

"Ê Minh, cho tao gặp đại đội trưởng mày."

Ông thượng sĩ lại trố mắt nhìn tôi thêm một lần nữa, ông ta không thể hiểu tôi là cái giống gì Tôi không đeo lon. Tuy nhiên ông ta không nói tiếng nào, lặng lẽ bỏ đi khi nghe Minh nói với tôi:

"Ðụ mẹ, mày làm cái con cặc gì mà tới đây giờ này, vô đây phê pháo cái đã, mọi chuyện tính sau."

Tôi theo Minh vào lều nhưng sốt ruột, lại hỏi:

"Tao gặp đại đội trưởng mày đã, phê pháo mẹ gì."

"Phê pháo đã mà, ổng đang bận."

"Ủa, bộ mọi chuyện đại đội trưởng mày làm hết hả?"

"Ðâu có, đại đội phó làm chứ."

"Vậy ổng bận cái gì?"

"Bận tiếp khách."

"Mẹ kiếp, té ra mày là đại đội trưởng à?"

"Chứ còn thằng con cặc nào vô đây!"

Vừa uống cà phê tôi vừa kể cho Minh nghe chuyện vừa qua, Minh nhìn tôi cười:

"Ðụ mẹ, mật mày lớn mà mạng mày cũng lớn, lóng rày tụi nó ra hà rầm."

"Lớn cái con củ cải, tao biết chó đâu đó, đến lúc biết đã ngồi cha nó trên lưng cọp rồi."

Tôi nhờ Minh liên lạc với đại đội tôi, nhưng vì khác tiểu đoàn nên không có tần số để liên lạc, tôi đành phải xin ít đạn và mấy quả lựu đạn để tiếp tục... du lịch. Minh cho mấy người lính đi theo tôi. Về đến chỗ cũ của đại đội, đại đội tôi không còn đóng ở đấy, thay vào đó là một toán tiền đồn thuộc đại đội Trinh Sát của sư đoàn - Viễn Thám cũ. Tôi cho lính của Minh về và nhờ một người lính Trinh Sát đưa tôi về gặp trung đội trưởng của họ. Người trung đội trưởng này là một sĩ quan còn rất trẻ mà tôi không quen nên anh ta nói chuyện với tôi một cách dè dặt. Tôi phải moi tất cả giấy tờ có trong người như thẻ căn cước quân nhân, chứng chỉ tại ngũ và cả tờ giấy phép có chữ ký của trung tướng Ngô Quang Trưởng cho anh ta xem. Tôi chỉ nhờ anh ta mỗi một điều là báo cáo và cho người dẫn tôi về gặp đại đội trưởng của anh ta. Lại muốn gặp đại đội trưởng!

Tôi nghe rất rõ tiếng ông đại đội trưởng -tôi biết là đại úy Lực- phát ra từ ống liên hợp của máy truyền tin.

"Ðụ mẹ, không tin thằng nào hết, giấy tờ giả thiếu chó gì. Ông cho tôi biết nó người Bắc hay người Nam."

Tức cười, lúc nãy tôi đã dùng cách phân biệt Bắc Nam để phán đoán ta hay địch, bây giờ tôi lại bị người khác dùng cùng một cách để đánh giá tôi là ai. Hỏng bét rồi, tôi là một thằng Bắc Kì trăm phần trăm, không sai một ly ông cụ nào, từ giọng nói đến những tiếng tôi đang dùng đều là Bắc Kì đặc.

"Ông này Bắc Kì nhưng trông cũng có vẻ lính mình."

"Ông cho người mang thằng đó về đây cho tôi."

Mang tôi đi tức là tôi bị tước súng và áp giải như một thằng tù binh. Mẹ kiếp, thằng này chứ có phải thằng nào khác đâu, đâu có chuyện tước súng tôi một cách dễ dàng như vậy được.

Bỗng nhiên tôi nổi giận:

"Này, đừng có làm cái trò sỉ nhục nhau như vậy chứ thiếu úy!"

Anh ta cho một người lính dẫn tôi về đại đội Trinh Sát.

Ðại úy Lực không tiếp tôi. Ông ta để tôi đứng ngoài sân với người thượng sĩ thường vụ, tiếng ông ta hỏi vọng ra từ trong lều:

"Anh ở đơn vị nào?"

"Ðại đội 4 tiểu đoàn 4."

"Chức vụ gì?"

"Ðại đội phó."

Tiếng ông ta dịu lại:

"Ðại đội trưởng anh là ai?"

"Tôi không phải là tù binh để phải đứng ngoài trời này khai lý lịch vọng vào lều cho đại úy. Tôi chỉ nhờ đại úy liên lạc với đại đội tôi cho lính đến đón tôi về."

"Ðụ mẹ, liên lạc đâu có khó, nhưng tôi phải biết anh là ai chớ!"

"Ðại đội trưởng tôi là 369. Ðại úy chỉ cần nói là 520 đang ở chỗ đại úy."

Chừng hai phút sau, ông ta nói vọng ra không phải với tôi mà với ông thượng sĩ.

"Ông cho dẫn người này ra chỗ toán của thằng..." (tên người này tôi không nhớ).

Thượng sĩ thường vụ đi gọi người. Lúc này đại úy Lực mới từ trong lều chui ra, ông ta tới bắt tay tôi:

"Thằng Gắt" - đại đội trưởng tôi - "cho người đi đón ông lâu rồi, tôi cho người dẫn ông tới đó."

Tôi cám ơn rồi đi theo người lính dẫn đường. Toán lính đi đón đang ngồi đợi tôi ở ngay chỗ đại đội tôi đóng cũ, vị trí của toán tiền đồn Trinh Sát, nơi mà tôi và mấy người lính của Minh đã đến. Phải chi tụi nó đến sớm hơn một chút hoặc phải chi tôi ngồi chơi với Minh lâu hơn một chút thì đâu đến nỗi phải đi lòng vòng và phải khai lý lịch với bọn "vịt tiềm" này.

Trung sĩ Khang cho tôi biết là họ phải băng ngang làng Ðồng Lâm ra đón tôi ngoài quốc lộ, sợ tôi đi qua làng một mình chắc chắn sẽ bị "xé phay" liền. Ðợi hoài không thấy, họ phải đi dọc quốc lộ về tiểu đoàn tìm tôi, gặp trung úy Xuân nói tôi đi về chỗ đại đội đóng cũ, sau đó đại đội trưởng cũng gọi máy bảo họ về chỗ này đợi tôi.

"Ðại đội nằm đâu, mày?"

"Sau làng Ðồng Lâm. Mấy hôm nay mình ăn pháo lia chia!"

"Có thằng nào bị gì không?"

"Có mỗi một trái lọt vô vị trí, banh một cái lều còn thì rớt cách mình cả trăm thước. Có điều ban ngày mình không dám căng lều, sợ tụi nó thấy."

Bọn tôi đi tắt đường ruộng về đến đại đội, lính đổi gác cũng đã đến ca áp chót.

TIẾC THƯƠNG LUCIEN STRYK

                                     

   Trong dòng thơ Thiền Âu-Mỹ , Lucien Stryk là một gương mặt hàng đầu. Trong gần sáu mươi năm  sáng tác, dịch thuật, và giảng dạy về Văn học Á Đông ở Mỹ, ông có thể sánh vai với các đỉnh cao như Kerouac, Ginsberg, Snyder… trong sự nghiệp tập thể của các ngòi bút đã xây nên nhịp cầu văn hóa Đông Tây về thi ca và tư tưởng. Ông đã biên soạn và dịch nhiều tuyển tập thơ văn và kinh tạng Thiền Tông; quen thuộc nhất với độc giả có lẽ là thi tập The Penguin Book of Zen Poetry (1981) do ông tuyển dịch chung với giáo sư Takashi Ikemoto. Những suy nghiệm về thơ và Thiền tông được ông tập hợp trong quyển Encounter with Zen;Writing on Poetry and Zen (1982). Các bài thơ đặc sắc của ông nằm trong thi tuyển Selected Poems in năm 1976.

   Sinh năm 1924 ở Ba Lan, Lucien Stryk theo cha mẹ làm di dân qua Mỹ vào thời niên thiếu. Từng đi lính trong Thế Chiến Hai với tập thơ Whitman trong ba lô, ông chiến đấu trên trận tuyến phía Nam Thái Bình Dương. Kinh nghiệm chạm trán với cái chết vô nghĩa và bạo lực kinh hoàng của bom đạn đã để lại chấn thương sâu mà nhà thơ chúng ta phải mất nhiều năm tháng để vượt qua. Cuộc đụng độ đầy máu lửa với quân đội Thiên Hoàng đã khơi  lên óc hiếu kỳ khiến ông chịu khó tìm hiểu về văn hóa Nhật và thi ca- tư tưởng Á Đông, đặc biệt các dòng văn học Thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản. Thời gian quán định và suy nghiệm sau chiến tranh đã giúp ông đối mặt được hố vực trong tâm hồn mình để bắt đầu viết những bài thơ về  quá khứ chết chóc. Mặt khác, quá trình học hỏi và dịch thuật văn thơ Thiền đã ảnh hưởng đậm nét trong thi pháp của Lucien Stryk, tiêu biểu là tập thơ ZEN Poems (1980) và những bài thơ ông viết về những sự vật hay nơi chốn bình dị vào giai đoạn cuối đời.  Ông đã bỏ công thu thập để giới thiệu nền thơ MidWest (vùng bình nguyên nằm giữa nước Mỹ) trong hai thi tuyển Heartland I, II. Ngoài ra ông cũng có cảm tình nhiều với Paris và văn thơ Pháp, qua sự giảng dạy của triết gia Bachelard lúc ông du học ở Sorbonne.

   Để tôn vinh nhà thơ - dịch giả, năm 2009 Hội Dịch Giả Hoa Kỳ đã thành lập giải thưởng dịch thuật dành riêng cho văn học Á châu mang tên  Lucien Stryk Prize.  Ông vừa qua đời ngày 24 tháng Giêng ở Luân Đôn, hưởng dương 88 tuổi. Mấy dòng ngắn gọn với các bài thơ dịch theo sau là bó hoa của một độc giả Á Đông  đưa tiễn một hồn thơ cao quý vào dịp giỗ ông 100 ngày sắp đến.

                                                                                                  CHÂN PHƯƠNG


  CÁI  HỐ


Đã hai mươi năm, tôi vẫn nhớ
Mùi xú uế bốc hơi dưới nắng,
Cái hố ấy cách xa ít nhất cả trăm thước
Khoảng vũng vịnh nơi bọn này gài đặt súng ống.
Núi với non bị bắn phá nát tan.
Hiển nhiên bãi biển chúng tôi đã chiếm.

Xú khí vẫn dội ngược về.
Tôi nghĩ đến mớ thùng rác
Đằng sau các tiệm cơm tàu
Gần nhà, khêu gợi lạ lùng trong
Một đêm hè, gợi ý nghĩa cho
Một cuộc sống khác. Dị biệt là ở đó.

Khi ba đứa bọn này, trẻ nhất trong
Nhóm lính, được phát mấy cây sào
Kèm mệnh lệnh phải moi mấy xác lên
Không thì đi theo tử thi luôn, chúng tôi
Cảm thấy chọc cười kiểu đó thật là thảm não.
Và được mấy tay thiện xạ cột mình trên cây
Dạy cho điệu múa vừa chạy vừa nhảy.




  THƯ GỬI JEAN-PAUL BAUDOT, MÙA GIÁNG SINH


Bạn ơi, hôm nay ngày nắng đẹp,
tuyết lấp lánh khắp nơi, tôi lại nhớ bạn,
bao nhiêu năm rồi, thời niên thiếu

tham gia Kháng Chiến bị quân Nazi vây hãm
trong hang sâu với mười lăm mạng khác
để sống sót bạn trở thành kẻ ăn thịt người.

Được lính Mỹ giải cứu, mùi thịt của đồng chí chết
còn hôi tanh trong miệng, bạn đã nhào vô đống tuyết
trên vùng Haute Savoie và nuốt tối đa để nôn tháo hết ra,

cách nào đó cố làm lại cuộc đời. Từ ấy mỗi bận đông về,
khi nhớ lại bạn vẫn liên tiếp ói mửa nhiều ngày.
Từ khi nghe bạn thuật câu chuyện ở Mabillon,

mỗi lần đông đến tôi lại thấy bạn nằm sải tay chân
trên vũng tuyết đầu mùa ,mặt úp vào mùi xú uế.
Jean-Paul ơi, một lần nữa tôi viết lá thư cho dù

bạn chẳng trả lời, bởi vì tôi phải viết:
ngày nay người ta còn làm những việc ghê tởm hơn.
Cầu mong bạn, và tất cả chúng ta, được bình yên,
trước khi mùa tuyết quay về.




  ỚN  LẠNH



Cây cối bùng trận pháo hoa,
sắc nóng mùa thu nhạt mất.
Chuyển động của chiếc lá cuối

đáp xuống bờ ao cạnh mảnh lông chim
đứa nhóc lượm đá ném con thiên nga

cặp cánh đập tóe nước
trong cuộc chơi nghịch đuổi.
Chú sóc xin chực mấy miếng ngon, mang chôn

các mẩu thức ăn vào thửa đất riêng
trước khi tiếng gió róc rách như suối
của một đêm rét căm mò đến.

Tôi quay về, buồn ngủ khật khờ,
bày chuyện với chiếc lá và đóa hoa héo,
qua khỏi bông hồng hấp hối, tôi nhìn thẳng

vào tròng mắt lạnh của mặt trời mùa đông
dẫm lên cỏ gai, bồ công anh,
và gương mặt cuối cùng trên quả đất.

Thức giấc vừa run ớn lạnh, nghe
qua âm thanh rè rè bản tin buổi sáng
rỉ máu con số tử vong.



 SUY  TƯỞNG


Phải mất ba phần tư thế kỷ
tôi mới hiểu ra
đôi mắt nhà thơ 

chng cần chớp nháy
như phản chiếu từ những
bức tường thủy tinh và thép,

không chừng tôi bà con 
với se sẻ nhiều hơn
là với một chú chim sặc sỡ,

hòa nhập với đá với trời,
nghe sấm động lan vòng
từ cái lưỡi trái chuông tròn chín,

và bình an hiển hiện rõ nhất
vào một ngày thiếu nắng. 
Tôi biết rằng trần gian này

cần tên hề của vua già
để chỉ ra thực chất của nó,
trò nghịch của tay kim thuật đơn độc,  

vầng thái dương kia.



 PHƯƠNG  NAM

Rảo bộ đêm đêm, tôi luôn luôn quay về địa điểm
xa hơn xưởng đồ hộp và mấy ruộng bắp

nơi ngôi nhà nông trại nhìn về phương Nam giữa đám cây cao
tôi mơ tưởng sống đời mình ở đó, mọi sự diễn ra

trong gian phòng tầng trên: đọc sách dưới nắng trời, chuyện trò
với người bạn bên cốc rượu, các bài thơ dài viết nửa đêm

chan hòa ánh trăng sao. Và chẳng có gì được cứu vớt
dù ở đâu bất kể. Khi đã mãn nguyện với cuộc đời ấy,

tôi hình dung một con đường xuống phương Nam
xuyên qua ruộng bắp với lúa mì đến tận vịnh Mễ Tây Cơ!

Mỗi đêm tôi rảo bước để thực tập cho cuộc lữ hành đó.
                                                                                                                                                                                               CHÂN PHƯƠNG  tuyển dịch.