Thursday, February 28, 2013

Khoa Học, Tâm Linh, và Nhân Loại





Nhìn lại quãng đời 70 năm của cuộc sống, tôi thấy rằng sự gặp gỡ cá nhân mình với khoa học đã bắt đầu khi mình còn trong một thế giới hầu như hoàn chưa có khoa học, nơi mà công nghệ dường như đã là sự kỳ diệu. Tôi cho rằng niềm đam mê của mình trong khoa học vẩn còn dừng nghỉ trên sự ngạc nhiên với những kỳ diệu về điều mà nó có thể thành tựu. Từ những điểm ban đầu này, cuộc hành trình vào khoa học đã dẫn dắt tôi đến với các vấn đề thật phức tạp, như là tác động của khoa học lên sự hiểu biết của chúng ta về thế giới, năng lực của nó để chuyển hóa cuộc sống con người và chính trái đất và chúng ta đang sống, và tình trạng đạo đức tiến thoái lưỡng nan đáng kinh khiếp mà những khám phá mới của nó đặt ra. Nhưng người ta không thể và không nên quên sự kỳ diệu và đẹp đẽ của những gì đã được làm cho có thể thành hiện thực. 

Sự thấu suốt của khoa học đã phong phú hóa nhiều khía cạnh của thế giới quan Phật giáo của tôi. Lý thuyết tương đối của Einstein với các thí nghiệm suy tưởng sống động của nó, đã cung cấp một kết cấu kiểm tra một cách thực nghiệm lên sự nắm bắt giáo thuyết Long Thọ về tính tương đối của thời gian. Bức tranh chi tiết lạ thường về động thái của các hạt hạ nguyên tử ở các mức khoảnh khắc đã làm rõ thêm giáo pháp của đức Phật về bản chất vô thường chóng vánh của vạn vật. Sự phát hiện về gen di truyền nêu bật thêm cho quan điểm Phật giáo về tính bình đẳng nền tảng của tất cả chúng sinh về tất cả chúng sinh. 

Đâu là vị trí của khoa học trong nổ lực của toàn thể nhân loại?

 Nó đã khảo sát mọi thứ từ con amoeba nhỏ nhất cho đến hệ thống thần kinh sinh học phức tạp của con người, từ sự hình thành của vũ trụ và sự xuất hiện của sự sống trên trái đất cho đến chính bản chất của vật chất và năng lượng. Khoa học thật là ngoạn mục trong việc thám hiểm thực tại. Nó không chỉ cách mạng hóa kiến thức của chúng ta mà còn mở ra những con đường lớn cho việc hiểu biết. Nó đã bắt đầu thâm nhập vào trong vấn đề phức tạp của ý thức – tức là tính năng chủ chốt khiến chúng ta là loài hữu tình. Câu hỏi là liệu rằng khoa học có thể cung cấp một hiểu biết đầy đủ về toàn thể phổ hàm của thực tại và sự hiện diện của con người hay không. 

Từ quan điểm Phật giáo, một hiểu biết đầy đủ về con người không chỉ cống hiến một lời giải thích mạch lạc về thực tại, các giá trị của chúng ta về việc nắm bắt nó, và vị trí của ý thức mà còn bao hàm một sự thấy biết rõ ràng về cách mà chúng ta nên hành động. Trong mẫu hình hiện tại của khoa học, chỉ có kiến thức nào được dẫn xuất từ phương pháp thực nghiệm chặt chẽ được chống đỡ bởi quan trắc, suy luận, và kiểm nghiệm mới có thể được xem là có hiệu lực. Phương pháp này bao gồm việc sử dụng định lượng và đo lường, khả năng lập lại [của thí nghiệm], và chứng thực bởi những người khác. Nhiều khía cạnh của thực tại cũng như là một số yếu tố then chốt về nhân cách của con người, như là khả năng phân biệt tốt xấu, tâm linh, sáng tạo nghệ thuật – một số trong những điều này chúng ta hầu như để đánh giá về nhân cách – thì lại không thể tránh khỏi bị loại ra ngoài nội hàm của phương pháp [khoa học] này. Tri thức khoa học, như vị trí của nó hiện nay, là không toàn mãn. Tôi tin rằng việc công nhận sự thật này và chấp nhận rõ ràng các giới hạn của tri kiến khoa học là một điều thiết yếu. Chỉ bởi sự công nhận như thế thì ta mới có thể nhận thức một cách chân chính nhu cầu hợp nhất khoa học với toàn bộ tri kiến của nhân loại. Nếu không, khái niệm của chúng ta về thế giới bao gồm cả sự tồn tại của chính chúng ta, sẽ bị giới hạn trong các sự kiện nào được viện dẫn bởi khoa học, dẫn đến một thế giới quan sâu nặng về chủ trương quy giảm, chủ nghĩa vật chất, và ngay cả chủ nghĩa hư vô. 

Tôi không có vấn đề gì với chủ nghĩa quy giảm như thế. Có nhiều phát triển to tát của chúng ta quả đã được tạo ra bởi việc áp dụng cách tiếp cận quy giảm vốn được đặc tả nhiều trong thí nghiệm và phân tích khoa học. Vấn đề nảy sinh là khi chủ trương quy giảm trở thành một phương pháp cốt lõi, thì nó sẽ chuyển biến thành lập trường siêu hình học. Có thể hiểu được rằng điều này phản ánh một xu hướng thông thường để quy các giá trị về một chung cuộc, nhất là khi một phương pháp đặc biệt có hiệu quả cao. Trong một ẩn dụ mạnh mẽ, kinh Phật nhắc nhở chúng ta rằng khi một người nào đó chỉ ngón tay mình đến mặt trăng, thì chúng ta không nên ngó vào đầu ngón tay mà hãy ngó đến mặt trăng vốn đang được chỉ ra.
Xuyên suốt sách này, tôi hy vọng đã tạo ra được một tình huống mà người ta có thể nhìn nhận khoa học một cách nghiêm túc và chấp nhận giá trị về các khám phá thực nghiệm của nó mà không tán thành chủ nghĩa vật chất khoa học. Tôi đã tranh luận về nhu cầu và trách nhiệm về một thế giới quan đặt nền tảng trên khoa học, nhưng phải là nền khoa học không phủ nhận sự phong phú của bản chất nhân loại cũng như là giá trị của các cơ chế về hiểu biết vốn khác với khoa học. Tôi nói điều này là vì tín tâm mạnh mẽ rằng có một sự nối kết bản năng giữa việc hiểu biết có tính khái niệm về thế giới, khả năng quan sát về sự hiện hữu của con người và năng lực của khả năng đó, cùng với các giá trị đạo đức vốn hướng dẫn cho sự ứng xử. Cách chúng ta quan niệm về mình và thế giới xung quanh như thế nào thì có thể không giúp ích gì nhưng lại có ảnh hưởng đến thái độ và các quan hệ của chúng ta với các chúng sinh thành viên khác và với thế giới mà chúng ta đang sống. Đây là điều cốt yếu của vấn đề đạo đức. 

Các khoa học gia có một trách nhiệm đặc biệt, một trách nhiệm về đạo đức trong việc đảm bảo rằng khoa học sẽ phụng sự cho các quyền lợi của nhân loại trong cách tốt nhất khả dĩ. Điều mà họ thực hiện trong các phân môn đặc biệt của họ có năng lực gây ảnh hưởng đến cuộc sống của tất cả chúng ta. Vì các lý do lịch sử nào đó, mà các nhà khoa học hưởng một tầm mức cao về sự tín nhiệm công chúng hơn là các chuyên nghiệp khác. Đó là sự thật, dẫu sao, thì sự tín nhiệm này không còn là lòng tin tuyệt đối. Đã có quá nhiều thảm kịch liên hệ hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp đến khoa học và công nghệ vì sự tin cậy vào khoa học được duy trì vô điều kiện. Trong đời của tôi, chúng ta chỉ cần nghĩ đến Hiroshima, Chernobyl, đảo Three Mile, hay Bhopal trong nội dung về các thảm họa hạt nhân và hóa học, và sự thoái hóa của môi trường – bao gồm sự suy kiệt của tầng ozone – trong số các khủng hoảng sinh thái. 

Lời kêu gọi của tôi là hãy hòa nhập tâm linh của chúng ta, cùng với sự phong phú tràn đầy và thiện tính đơn thuần của các giá trị nhân bản, vào dòng diễn tiến của khoa học và sự định hướng của công nghệ trong xã hội con người. Một cách cốt lõi, khoa học và tâm linh, dù khác biệt trong các cách thức tiếp cận, vẩn chia sẻ cùng một chung cuộc, đó là sự hoàn thiện hơn của nhân loại. Ở mức độ cao đẹp nhất, thì khoa học được thúc đẩy bởi một sự truy tầm cho việc hiểu biết nhằm giúp dẫn dắt chúng ta đến với hưng thịnh và hạnh phúc to tát hơn. Trong ngôn ngữ nhà Phật, loại khoa học này có thể được mô tả như là trí huệ có nền tảng và được hòa nhập với từ bi. Tương tự, tâm linh là cuộc hành trình đi vào các nguồn tài nguyên nội tâm, với mục tiêu tìm hiểu chúng ta là ai, ý nghĩa sâu xa nhất cũng như là phát hiện ra cách sống thuận với mẫu mực lý tưởng cao đẹp nhất khả dĩ. Điều này cũng chính là sự hợp nhất giữa trí huệ và từ bi

Từ việc xuất hiện của khoa học hiện đại, nhân loại vẩn sống còn qua một giao ước giữa tâm linh và khoa học như là hai nguồn quan trọng về tri thức và phúc lạc. Đôi khi mối quan hệ này đã khá gần gũi – một loại tình bằng hữu – trong những lúc khác nó lại lãnh đạm, với nhiều phát hiện về bất khả tương hợp của hai bên. Ngày nay, trong thập niên đầu của thế kỷ thứ 21, khoa học và tâm linh lại có tiềm năng để được gần gũi nhau hơn bao giờ hết, và để bắt tay nổ lực cộng tác với tiềm năng xa rộng nhằm hỗ trợ nhân loại chạm mặt với các thử thách ở phía trước. Chúng ta tất cả hãy cùng chung nhau trong việc này. Xin cho mỗi người trong chúng ta, như là thành viện của gia đình nhân loại, nhận lấy trách nhiệm về nghĩa vụ đạo đức để biến sự cộng tác này thành khả thi. Đây là lơi kêu gọi thành khẩn của tôi.




Monday, February 25, 2013

Người đàn ông không cười



LX : Nhà văn Kawabata Yasunari sinh năm 1899 tại Osaka. Năm 1968, ông là người Nhật đầu tiên và là người châu Á thứ ba được trao tặng giải thưởng Nobel Văn học. Nối tiếng với những tác phẩm như « Xứ Tuyết – Yukiguni »; « Tiếng rền của Núi - Yama no Oto » hay « Người đẹp say ngủ - Nemueru bijo ». Năm 1972 Kawabata tự sát, kết liễu cuộc đời và sự nghiệp.

                                                       Kawabata Yasunari - 
 
Bầu trời hiện ra xanh thẳm, gợi nhớ thứ đồ sứ tuyệt đẹp. Tôi nằm trên giường, đầu óc chỉ mãi theo dõi sắc nước trong dòng sông buổi sớm thay đổi ra sao.
Người diễn viên, đóng vai chính trong bộ phim của chúng tôi đúng mười ngày nữa phải trở về với công việc ở một nhà hát, do đó tuần tới phải quay thông tầm cả ngày lẫn đêm. Với tư cách tác giả kịch bản, trong khâu quay phim, tôi không có việc gì đáng kể. Nhưng sau những đêm không ngủ, môi tôi se lại, nứt nẻ và con mắt thì đau nhức bởi ánh sáng chói chang trên trường quay. Đêm qua, tôi lại trở về khách sạn khi mọi vì sao đã tắt hết trên nền trời; cố nhiên là người mệt mỏi vô hạn.
Nhưng sắc trời gợi nhớ tới chất đồ sứ tuyệt vời kia lập tức khiến lòng tôi dịu lại. Trong tâm trí tôi hiện lên những hình ảnh đẹp và rất nhiều bóng dáng yêu kiều. Trước tiên, tôi hình dung lại cái phố Xitdô đầy sức quyến rũ. ở đó tôi từng ngồi ăn ở khách sạn "Cơridăngtêma", gần chiếc cầu lớn. Qua khung cửa sổ tầng ba, tôi mãi ngắm màu xanh rực rỡ của cây cối trên đỉnh núi Higaxi. Cả ngọn núi như nằm trong lòng bàn tay. Cảnh tượng bình thường, nhưng do chỗ vừa từ Tokyô tới, tôi không khỏi kinh ngạc trước vẻ tươi tắn của đám lá non mới nhú. Rồi tôi nhớ tới những mặt nạ sân khấu treo ở một cửa hàng đồ cổ. Những mặt nạ cười, loại đã lâu đời lắm.
- Chết thật ! ý nghĩ hay đấy chứ !
Quá vui bởi một ý đồ sáng tạo nảy ra bất thần, tôi vớ ngay giấy bút và lia thật nhanh. Tóm lại là tôi muốn chữa lại cảnh cuối cùng trong kịch bản. Đánh dấu chấm hết vào cuối bản thảo xong, tôi thấy chưa yên, còn chua thêm một ít dòng để dặn riêng đạo diễn.
Cảnh cuối cùng trong bộ phim tôi viết theo lối ước lệ. Trong các khuôn hình ở phần kết này, các vai chính sẽ hiện ra trong những mặt nạ cười.
Viết về một thực tại hắc ám tôi đã cố nhiên, nhưng không sao điểm thêm vào trong phim được một ít nụ cười tươi tắn. May quá, bây giờ, ít ra là ở đoạn kết, hiện thực sẽ bớt nặng nề đi, các mặt nạ với nụ cười nhân hậu.
Cuộn bản thảo lại, tôi tính chuyện gửi nó tới xưởng. Trong phòng làm việc chẳng còn gì ngoài chồng báo xếp trên bàn.
Trước mắt tôi chỉ có người phụ nữ bán căng tin đang nhặt vỏ báo trước xưởng làm đạo cụ trang trí.
- Phiền bà chuyển hộ cái này tới tận tay đạo diễn ngay khi ông ta tỉnh dậy, - tôi nói thêm khi chuyển cho người đàn bà phong bì bản thảo.
Trong kịch bản này của tôi, hành động chính xảy ra tại một bệnh viện tâm thần. Nhưng sau nhiều ngày quan sát những cảnh quay cuộc sống của đám người mất trí, tôi đâm hoảng: nếu không tìm ra bằng được một ít tia sáng tươi vui nào đó để rọi vào câu chuyện tâm tối khủng khiếp này, bộ phim chắc chắn bị đổ. Nhưng một cái happy ending cần thiết không sao tìm nổi - đấy vốn là một đặc điểm trong cách viết của tôi, dấu vết của một lối nhìn u ám. Do đó, tôi mừng đến mức khó nói nên lời, khi nghĩ ra cảnh mặt nạ. Tôi vui vẻ hẳn lên khi hình dung ra đoạn cuối phim mọi bệnh nhân trong viện, không trừ một ai, hiện ra trong những mặt nạ đang cười. Thật là một cảnh comic chói sáng.
Những tấm kính dầy dùng làm mái che xưởng phim dường như đã thu vào mình tất cả sắc xanh. ánh sáng ban ngày nuốt dần cái màu xanh thẳm từng gợi nhớ tới màu sứ xơtô tuyệt diệu trên trời. Tâm hồn hoàn toàn tưh thái, tôi quay về khách sạn, và thiếp đi một lúc hết sức khoan khoái.
Người được cử đi mua mặt nạ quay về xưởng vào lúc mười một giờ đêm.
- Từ sáng đến giờ, tôi phóng ô tô đến tất cả các cửa hàng đồ chơi ở Kiôtô - Ông ta kể, - nhưng không tìm đâu được một mặt nạ ra hồn. Chỉ có loại này...
- Để tôi xem nào - tôi bảo, và khi ông ta mở túi ra, tôi chỉ còn cách quay đi thất vọng - ồ... à... Cái này thì chưa được.
- Tôi cũng đã đoán thế, - người nhân viên phụ trách đạo cụ buồn bã gật đầu. - Tôi còn nhớ mang máng rằng ở một cửa hàng nào đó, tôi đã nhìn thấy một mặt nạ rất hợp, nên cả ngày đi sục khắp mọi cửa hàng, vậy mà vẫn công cốc...
Tôi nói gần như phát khóc, khi mâm mê trên tay chiếc mặt nạ kỳ cục, chỗ lồi chỗ lõm.
- Tôi tính mặt nạ là muốn dùng thứ mặt nạ sử dụng trên sân khấu. Nó kia. Bản thân mặt nạ phải là một tác phẩm nghệ thuật thực thụ. Còn thứ đồ giả này đưa ra chỉ tổ mua cười.
Nhìn vào chiếc mặt nạ màu nâu với cái lưỡi thò ra đỏ chói trông rất rợ, tôi nói thêm:
- Tôi cần thứ mặt nạ trắng, nhẵn, lôi cuốn người ta bằng nụ cười hiền dịu. Mang thứ mặt nạ này lên phim trước hết trông cứ tối sầm.
- Chuyện khó gỡ đây, - đạo diễn cười khi cho trường quay tạm ngừng công việc và nhìn vào chiếc mặt nạ - Hay ta cứ lấy mấy cái này, quét màu vào dùng tạm vậy.
Sáng mai đã bắt đầu quayđoạn cuối: các thứ mua ở cửa hàng đồ chơi không dùng được, nhưng muốn tìm cho ra thứ mặt nạ cổ như tôi muốn thì không còn thời gian, rút cuộc đạo diễn đề nghị: hay cùng lắm, ta tự làm lấy một ít mặt nạ bằng các loại xen-luy-lô có ở xưởng.
- Không, - tôi phản đối, - giữa hai con đường chỉ được chọn một: hoặc tìm cho ra những mặt nạ có giá trị nghệ thuật thực thụ; hoặc ý định của tôi phải tạm gác lại.
- Biết thế, hãy để tìm thêm chuyến nữa. Bầy giờ mười một giờ. ở khu Tân Kiôtô có lẽ phố xá chưa đóng cửa hết đâu.
- Anh đi với tôi ? - Tôi tỏ ý hoan hỉ.
Chúng tôi lên xe, phóng thẳng trên con đập qua sông. Trên bờ sông đối diện, ở khu bệnnh viện đa khoa, các cửa sổ còn để đèn, ánh sáng lấp lánh trên mặt nước. Thật khó hình dung là sau những cửa sổ đó, các bệnh nhân đang quằn quại trong bệnh tật. "Nếu như không tìm thấy những mặt nạ thích hợp - tôi tự nhủ - không khéo trong đoạn kết phim, mình phải đưa ra hình ảnh những khuôn mặt cửa sổ bệnh viện chói sáng trong đêm và đổ bóng trên mặt sông ?"
Cùng với người phụ trách khâu kịch bản, tôi la cà khắp cửa hàng đồ chơi ngay trước khi các cửa hàng này kịp đóng cửa. Cũng mua được khoảng hai chục mặt nạ phụ nữ, loại mặt tròn, bồi bằng giấy. Nhưng vẫn chưa phải thứ mặt nạ tôi cần. Trông chúng có đẹp thật, nhưng còn xa mới đáng gọi là những chế phẩm có ý nghĩa nghệ thuật thực thụ. Còn phố Xitdô thì các nhà đã đóng cửa đi ngủ cả.
- Ráng chờ chút xíu, - người phụ trách khâu kịch bản rẽ vào một phố nhỏ. - Ngõ này có nhiều cửa hàng đồ cổ chuyên bán các đồ cúng Phật ngày xưa. Tôi ngờ may ra có thể có các thứ đạo cụ dùng trong sân khấu Nô.
Nhưng tất cả các cửa hàng trong ngõ đều đã đóng cửa. Tôi ghé mắt qua lỗ khóa gần như hết tất cả các cửa hàng đó.
- Được, bảy giờ sáng mai tôi sẽ có mặt ở đây, - người đồng hành của tôi quả quyết. - Bây giờ đang đêm, chắc cũng chưa cần làm gì vội.
- Mai tôi sẽ đi với anh. Xin nhớ đánh thức tôi dậy.
Nhưng anh ta không đánh thức tôi, mà đi một mình, và khi tôi đến xưởng mọi người đang bắt tay vào quay đoạn cuối. Rút cuộc, người ta cũng tìm được năm mặt nạ cổ đẹp không chê vào đâu được. Theo đúng ý đồ của tôi, lẽ ra cần đến hai mươi hoặc hơn nữa, ba mươi chiếc. Nhưng chỉ cần năm cái loại này, những nụ cười kì diệu chắc đã đủ sức thức dậy trong lòng người xem những cảm giác cao thượng tốt đẹp. Lòng tôi dịu lại, tôi cảm thấy mình đã hoàn thành nghĩa vụ với những con người bị bệnh tâm thần mà cuộc sống của họ được sử dụng làm cơ sở cho kịch bản.
- Mặt nạ rất quý, tôi không mua nổi nên đành thuê tạm, - người phụ trách kịch bản nói. - Chỉ bôi bẩn một chút thôi, người ta sẽ không nhận trả lại.
Sau khi đã dặn dò đủ điều những người sử dụng mặt nạ, chúng tôi yêu cầu họ rửa tay cẩn thận trước khi cầm vào chúng. Ai nấy nâng niu, như những của quý.
Nhưng khi quay xong vẫn không trách khỏi có chuyện: một trong năm mặt nạ bị ố một vệt vàng trên má.
- Tai họa ! - Người phụ trách kịch bản kêu lên buồn bã. - Hay ta thử cố tẩy đi...
- Thôi được, - tôi an ủi anh ta. -Tôi xin trả tiền và lấy cái mặt nạ ấy vậy.
Thật ra lâu nay, tôi vẫn có ý tìm một mặt nạ loại đó. Tôi thường ước ao con người ta trong tương lai, phải có khuôn mặt đầy ánh sáng và lương thiện, với những nụ cười rạng rỡ như vậy.
Trở lại Tokyo, tôi lập tức rẽ về nhà và từ đó, đến thăm vợ tôi đang nằm bệnh viện. Bọn trẻ trong nhà cũng đang ở đấy thăm mẹ. Chúng truyền tay nhau chiếc mặt nạ, tỏ ý thích lắm. Tôi càng lấy làm hài lòng.
- Bố, bố thử đeo xem sao ! - Một đứa đưa mặt nạ cho tôi.
- Bố không thích.
- Bố cứ thử đeo xem.
- Không !
- Bố đeo cơ... - Thằng con trai nhỏ nhất nói giọng nũng nịu và nhón chân lên, toan ấn vào mặt tôi. Tôi bắt đầu cáu, nhưng may, vợ tôi đã lên tiếng cứu vãn.
- Thôi con. - Vợ tôi khẽ quát thằng nhỏ.
- Hay ta đeo cho mẹ vậy ! - Lũ trẻ cùng cười rúc rích và quay cả về phía mẹ.
- Không được làm thế các con, mẹ đang ốm !
Tôi định ngăn chúng lại, nhưng đã muộn.
Một điều khủng khiếp nào đó đã xảy ra khi chiếc mặt nạ được đeo vào mặt người vợ ốm đang nằm trên giường.
Tôi vội giỡ chiếc mặt nạ khỏi mặt nàng. Vợ tôi thở hổn hển. Nhưng tôi ngạc nhiên bởi một điều khác. Khi tôi vừa gỡ mặt nạ ra, khuôn mặt nàng hiện ra xấu xí một cách thậm tệ gần như trở thành kì quái. Tôi rợn cả tóc gáy khi nhìn vào khuôn mặt phờ phạc đó. Người tôi thảng thốt như lần đầu tiên trong đời nhìn thấy nó. Chỉ cần chiếc mặt nạ tuyệt vời đặt trên khuôn mặt vợ tôi chốc lát, lập tức tôi cảm thấy tất cả vẻ xấu xí của nó. Hơn nữa, không phải chỉ xấu xí, khó coi, khuôn mặt đó giờ đây còn hiện ra héo hon, trầm uất đến cực độ. Ngay khi đã gỡ khỏi chiếc mặt nạ xinh đẹp kia một lúc, khuôn mặt đó vẫn hiện ra đặc biệt thảm hại, nhạt nhẽo.
- Bây giờ bố đeo thử xem, bố ! - Lũ trẻ bắt đầu xoay sang tôi. - Bây giờ đến lượt bố.
- Đủ rồi, buông ra ! - Tôi nói xẳng và kịp đứng lên.
Nếu tôi đeo mặt nạ vào và sau đó gỡ nó ra, biết đâu, trong mắt vợ tôi, tôi chả hiện ra kỳ cục đến quá quỷ sứ !
Cái mặt nạ xinh đẹp thật xảo quyệt. Nó làm nảy sinh trong tâm trí tôi một mối nghi ngờ khủng khiếp: hay khuôn mặt vợ tôi - mà bấy lâu tôi quen thấy, với nụ cười dịu dàng nhân hậu - chẳng qua cũng chỉ là một thứ mặt nạ ? Phải chăng nụ cười trên khuôn mặt người phụ nữ cũng là được tạo ra như chiếc mặt nạ đã được tạo ra như thế này ?
Quỷ tha ma bắt những cái mặt nạ này ! Quỷ tha ma bắt những thứ được bày vẽ này đi !
Tôi quyết định phải lập tức gửi tới xưởng phim ở Kyoto một bức điện trong đó viết "Bỏ ngay các đoạn phim sử dụng mặt nạ". Nhưng rồi tôi xé bức điện thành từng mảnh nhỏ.

NB

Sunday, February 24, 2013

Định nghĩa hay mô tả nghệ thuật đương đại?


Honoré Daumier
Thăm các xưởng hoạ: Cực kỳ! Tuyệt! Trời đất!
  

                                                               Nguyễn Đình Đăng
 
Trong phần đầu bình luận mới đây cho cuốn “Vietnamese Contemporary Art 1990 – 2010” (Nghệ thuật đương đại Việt Nam 1990 – 2010) của hai tác giả Bùi Như Hương và Phạm Trung, Ilza Burchett đã trách các tác giả rằng họ nhầm lẫn định nghĩa với mô tả nghệ thuật đương đại, nhưng bản thân Ilza Burchett cũng không thể đưa ra một định nghĩa thích hợp.

  Sự thực là đoạn trích dẫn từ Kathrin Busch cũng chẳng phải là một định nghĩa nghệ thuật đương đại, mà chỉ đơn thuần nêu ra một số khía cạnh (không phải là bản chất) của nghệ thuật đương đại, như sự bão hòa cao độ của kiến thức lý thuyết, rằng nghệ thuật đương đại trở thành một nghiên cứu hoặc một hình thức kiến thức độc lập tự thân, v.v. Tuy nhiên, những khía cạnh này rất chung chung vì chúng cũng có thể được áp dụng cho cả nghệ thuật thời Phục Hưng, Baroque, Cổ điển, ấn tượng, v.v.

Chúng ta đều biết rằng luật viễn cận tuyến tính đã được xây dựng bằng luận thuyết của Piero Della Francesca, những bức tranh và bản vẽ của Leonardo da Vinci được dựa trên kiến thức tiên phong và xuất sắc của ông về giải phẫu cơ thể người v.v. Theo nghĩa như vậy, “định nghĩa” của Kathrin Busch có chất lượng cũng tương tự như của các tác giả “Vietnamese Contemporary Art 1990 – 2010″. Các tác giả này đã chỉ ra những khó khăn phải đối mặt khi cố gắng đưa ra một “định nghĩa” cho nghệ thuật đương đại. Sự thực là không tồn tại một định nghĩa như vậy. Những gì ta có chỉ là các khái niệm đa dạng.

Tiếp theo, khi khẳng định rằng “(ngay cảnhững nghệ sĩ đương đại nào không hoặc tự cho rằng mình không quan tâm, không được truy cập hoặc tiếp xúc, hoặc không muốn dây với bất kỳ tư tưởng triết học nào bằng bất cứ cách nào vì bất cứ lý do gì, thì họ vẫn cứ thuộc về thế giới ‘đương đại’ của chúng ta, một thế giới tràn ngập mọi loại thông tin, không thể tránh khỏi ảnh hưởng lên các tác phẩm của họ,” Ilza Burchett đã mâu thuẫn với chính mình. Tuyên bố của bà thực chất có nghĩa là các nghệ sĩ đương đại thực ra có thể không cần bất kỳ nền tảng lý thuyết hay tư tưởng triết học nào, nhưng vẫn cứ là “đương đại”, đơn giản chỉ vì họ sống và sáng tạo trong thời đại của chúng ta.

Nghệ thuật đương đại không phải là chủ nghĩa hậu hiện đại như một quan niệm triết học. Việc các sinh viên có thể phải học lý thuyết của Plato và Aristotle về sự bắt chước trong nghệ thuật hoặc lý thuyết hậu hiện đại tại các trường nghệ thuật không có nghĩa là lý thuyết về sự bắt chước hoặc lý thuyết hậu hiện đại là định nghĩa của nghệ thuật đương đại [1]. Theo J.F. Lyotard, “Văn bản mà nghệ sĩ hậu hiện đại viết, tác phẩm anh ta sáng tác, về nguyên tắc mà nói, không theo các quy tắc định trước, và không thể đánh giá chúng theo một phán quyết mang tính định đoạt, bằng cách áp dụng các phân loại quen thuộc cho văn bản hoặc tác phẩm. Những quy tắc và phân loại như vậy chính là những gì mà tác phẩm nghệ thuật đang tìm kiếm. Nghệ sĩ và nhà văn sáng tạo không theo quy tắc để xây dựng các quy tắc cho những gì sẽ được làm ra.”[2] Nói cách khác, nghệ thuật hậu hiện đại cũng tựa như giao thông tại Hà Nội, nơi mà quy tắc duy nhất là không-có-quy-tắc.

Hơn nữa, nghệ thuật đương đại, được hiểu như nghệ thuật của thời đại chúng ta đang sống, không còn là hậu hiện đại nữa. Thời hậu hiện đại đã cáo chung khi Chiến tranh Lạnh kết thúc (khoảng những năm 1989 – 1990). Việc phát minh ra internet và mạng nhện toàn cầu trong những năm 1992 – 1994, thời đại kỹ thuật số, và các tình huống mới trên thế giới bao gồm cả sự sụp đổ của khối cộng sản (1991), sự suy tàn của các thể chế độc tài toàn trị, sự nở rộ khắp nơi của nền dân chủ, chiến tranh chống chủ nghĩa khủng bố, sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc bành trướng ở Đông Á, việc trái đất bị nóng lên, và sự thoái trào của các nhà máy điện hạt nhân sau thảm họa Fukushima, v.v. chỉ là một số diễn biến đã thực sự lật một trang mới trong lịch sử nhân loại. Hoàn cảnh thế giới hiện nay buộc chúng ta phải tự vấn sâu sắc thái độ mà chúng ta có từ thời kỳ hậu hiện đại – thời mà chân lý và công lý đã được thay thế bằng đồng thuận nhóm, sự trình diễn tốt, tiện nghi, và lợi nhuận. Nghệ sĩ không đứng ngoài xu thế chung đó bởi lẽ, trước khi là một nghệ sĩ, y là một con người, một công dân, cho dù có là một công dân thế giới đi chăng nữa. Một lần nữa, chúng ta thấy các giá trị nghệ thuật mà nghệ sĩ đưa vào tác phẩm đang trở nên quan trọng bên cạnh giá trị thương mại. Niềm kính trọng đối với kỹ năng của nghệ sĩ đang dâng lên. Sự đánh giá đối với các họa sĩ thực sự biết vẽ, các điêu khắc gia thực sự biết tạc tượng, các nhà văn thực sự biết viết, đang ngày một gia tăng.



10/1/2013


_____________

[1] Cũng nên đặc biệt thận trọng trong việc đọc có chọn lọc để khỏi sa vào thứ khoa học giả hiệu vô nghĩa được viết trong các tác phẩm của các “trí tuệ thiên tài” như Jean Baudrillard, Gilles Deleuze hay Felix Guatarri.

[2] J.F. Lyotard, The postmodern condition: A report on knowledge (Manchester University Press, 1984).




Nguồn blog Nguyễn Đình Đăng 




Nghệ thuật đương đại



                                        
                


Nghệ đương đại  là gì ?

Đó là những cái chết của ý niệm về chân lý, ý niệm về hiện thực, ý niệm về chủ thể, v.v...[1]
Nhưng nó không phải là một cuộc tận thế của tư tưởng hay của nghệ thuật.
Nó còn là một sự phục sinh của những cái mới bởi vì nó đã làm thay đổi cách nhìn, cách nghĩ, cách sáng tác và cả cách đọc, cách diễn dịch và cách cảm thụ của hai hay ba thế hệ.
Nó đã làm thay đổi diện mạo của triết học và văn học nghệ thuật thế giới trong hơn nửa thế kỷ vừa qua. 

Tất cả những khái niệm vừa trình bày dều gây dị ứng

Jean-François Lyotard, lý thuyết gia hàng đầu của nghệ thuật mới  có nhận  xét rằng đó là một nền nghệ thuật đi trước về thời gian và đi trước về không gian, lúc nào cũng ở tuyến đầu, hung hăng đòi xung phong, công kích và chiếm lĩnh những mục tiêu mới . Nó có vẻ như một cái gì hơi nghịch lý và ngược ngạo

 Nó có niềm tin vào khả năng sáng tạo gần như vô bờ bến của con người nhưng nó lại luôn luôn hoài nghi vào những gía trị được cho là vĩnh cửu , bất biến và  đặc biệt nó phê phán, diễu cợt cái xu thế  thư lại, công chức hoá và cơ giới hoá trong đời sống.


Nó đoạn tuyệt truyền thống và cổ vũ cho sự đổi mới nhưng nó  chống lại chủ nghĩa tự nhiên và chủ nghĩa hiện thực, nó đề cao sự tưởng tượng và những giấc mộng, những cách biểu hiện gián tiếp và tính chất khơi gợi, nó đưa ra một định nghĩa khác về hiện thực . Nó thích lao vào khám phá cái mới và cái lạ nằm ở sự tình cờ, nằm trong những giấc mơ, trong cõi mịt mùng của tiềm thức và vô thức; 

Nó làm khó cho đám người thương thức vì nó thách thức lại những quan điểm thẩm mỹ cũng như nghệ thuật đang thống trị thời đại 

Tính thẩm mỹ vốn được sùng bái hàng ngàn năm trong nghệ thuật đã bị hạ bệ và biến thành một thứ ký hiệu.  
Bản chất của nghệ thuật đã thay đổi. Điều được quan tâm nhất trong nghệ thuật không còn là thông điệp mà chỉ còn là ý nệm. và thế là ý niệm chính là thông điệp . 


Dẫn dụ một vài hình thái hoạt động nghệ thuật đương đại có thể đã chết yểu hoặc đã trở thành giai thoại hoặc sự kiện 

về thơ ca
Nó  làm thơ bằng cách viết tự động, mặc cho dòng ý nghĩ và cảm xúc tuôn trào trên trang giấy
Nó làm thơ bằng cách bất chấp cú pháp và ý nghĩa; mặc kệ âm thanh, chỉ chú ý đến cách trình bày chữ trên trang giấy .
John Ashbery làm bài thơ “Europe” bằng cách nối liền các câu, chữ ông lấy từ nhiều nguồn khác nhau, không theo một thứ tự hay logic nào cả. Harry Crosby làm bài thơ “Photoheliograph (for Lady A)” bằng cách viết tới viết lui một chữ: “black” (đen),”.
James Joyce, trong cuốn Ulysses, viết  trong cuốn Finnegans Wake, sử dụng từ ngữ từ hơn 50 ngôn ngữ khác nhau, kể cả cổ ngữ, thế giới ngữ Esperanto và một số ngôn ngữ Á châu (trong đó, tiếc thay, lại không có tiếng Việt!)

Về âm nhạc
 nhạc của Schoenberg, Bartók, Weber và cả Stravinsky đều khác hẳn nhạc cổ điển của Bach, Beethoven và Brahms trước đó. Luigi Russolo, trong nhóm vị lai ở Ý, hình dung ra một cuộc hoà tấu trong đó không có âm thanh nào xuất phát từ nhạc khí mà chỉ từ những tiếng sấm sét, tiếng huýt gió, tiếng thì thầm, tiếng gào la, tiếng vỗ trên da thịt, tiếng gõ trên kim loại, trên gỗ, trên đá, v.v...; ông cũng chế ra cả một chiếc máy phát ra những âm thanh khác nhau, và ông gọi đó là âm nhạc, thứ âm nhạc của tiếng ồn (music of noises). Bản nhạc 4’33’’ trình diễn lần đầu vào năm 1952 của John Cage, ngược lại, là khoảng thời gian hoàn toàn im lặng. Tuyệt đối im lặng. Nhạc sĩ dương cầm nổi tiếng David Tudor ngồi bất động trước chiếc đàn trong đúng bốn phút ba mươi ba giây. Hết. Màn biểu diễn chấm dứt. Từ đầu đến cuối, chỉ có: im lặng. Không có gì, ngoài: im lặng.

Về tạo hình
đã xẩy ra những cuộc đột phá dữ dội. Alexander Rodchenko vẽ ba bức tranh bằng ba màu khác nhau; màu nào cũng là màu nguyên, không hề pha trộn với bất cứ một màu nào khác: đỏ, vàng, xanh. Hết. Ba bức ba màu. Không có hình ảnh nào cả.
Jackson Pollock trải tấm bố trên sàn nhà rồi quẹt sơn lia lịa từ nhiều góc khác nhau, sơn được xịt thẳng từ tuýp ra, không pha trộn, và cũng không có một chủ định nào trước, cuối cùng cũng thành tranh.
Marcel Duchamp đem bày một cái bồn tiểu, rồi sau đó vẽ thêm vào bức tranh Mona Lisa của Leonardo da Vinci hai vệt ria mép và một chùm râu dê nhỏ dưới cằm rồi gắn thêm cái tên viết tắt: L.H.O.O.Q đầy tính khiêu khích: Trong tiếng Pháp, đọc mấy chữ ấy lên, nghe ra âm thanh từa tựa như câu “Elle a chaud au cul”; có thể dịch là: “Ả bốc lửa trong quần lót

Một cách nhìn nhận tác phẩm nghệ thuật mới

Tác phẩm chính là quá trình sáng tạo . Nó tồn tại như một ý niệm và còn lại như một ý niệm.[1
3]
Duchamp tuyên bố: “Tôi thích ý tưởng – chứ không phải chỉ ở các sản phẩm thị giác. Chính quan điểm ấy đã đặt nền móng cho các phong trào Pop Art, phong cách thiểu tố (minimalism) và nghệ thuật ý niệm sau này.[
14]
 Nó cổ vũ sự  tìm tòi có tính sáng tạo của một tập thể nhỏ
,
Tự nó chết khi nó chiến thắng
 Nếu hay, nó trở thành cổ điển;
Nếu dở, nó trở thành giai thoại;
Nếu không hay không dở nhưng đủ gây chú ý trong dư luận, nó trở thành một hiện tượng.

Không phải vì bốc đồng trong giây lát mà là vì một tầm nhìn có tính chiến lược: họ muốn huỷ bỏ các con đường mòn để mở ra một lối đi mới và, qua đó, muốn vẽ lại tấm bản đồ văn học nghệ thuật. 

Gắn liền với bản chất của sáng tạo, nghĩa là, nói cách khác, có khi xuất hiện ngay từ thời nguyên thuỷ, khi văn học nghệ thuật mới xuất hiện, khi mỗi tác phẩm là một cái mới; mỗi cái mới là một bất ngờ.

Nó đả phá tính a dua sự nhẹ dạ của quần chúng,  tự bản chất, là đi trước thời đại.

Đi trước thời đại là đi trước cái gì? Theo Richard Kostelanetz, đó là đi trước nghệ thuật suy đồi (decadent art) và nghệ thuật hàn lâm (academic art).
 Cái gọi là nghệ thuật suy đồi ấy, thực chất, là thứ nghệ thuật có tính thương mại, nhắm đến thị hiếu của đám đông và dễ được đám đông chấp nhận;
Đi trước thời đại là tạo nên cái chưa có trong thời đại ấy.

 xoá nhoà tất cả những ranh giới giữa văn hoá cao cấp và văn hoá bình dân,
Theo Lyotard, giới cầm bút và giới nghệ sĩ thuật mới sáng tác “bên ngoài mọi luật lệ. Họ sáng tác như những người nguyên thuỷ lần đầu tiên biết hát, biết múa, biết vẽ, hay biết ngâm nga và biết kể chuyện.
 Cái “trạng thái phôi thai” ấy chính là trạng thái đi trước thời đại
Andreas Huyssen cho rằng nghệ thuật mới khởi phát thành trào lưu tại Mỹ vào thập niên 1960 : nó chống lại cái nền nghệ thuật đang thống trị cả châu Âu lẫn châu Mỹ trong suốt thập niên 1950 trước đó.[25]
Nghệ sĩ nghệ thuật mới đứng ở vị trí của một triết gia , bởi vậy, họ làm việc bên ngoài mọi luật lệ đang ngự trị trong nghệ thuật . Họ sáng tạo để thiết lập một hệ thống luật lệ mới  cho những gì sẽ được thực hiện. 
Tính quyết liệt, hay sự cực đoan, không những chỉ là điều kiện  mà còn là một đức hạnh lớn trong văn học nghệ thuật . Nếu trong lãnh vực xã hội, kinh tế và chính trị, sự cực đoan có thể có những hậu quả và ảnh hưởng tai hại, trong lãnh vực nghệ thuật , cực đoan lại là một trong những điều kiện đầu tiên hình thành nên cái gọi là bản sắc. 

Trong lịch sử phát triển văn học nghệ thuật, yếu tố có nhiều đóng góp nhất cho sự phát triển là những yếu tố gây nhiều đổ vỡ, và do đó, mang lại nhiều thay đổi nhất. Đó cũng là những yếu tố tạo nên diện mạo của một nền văn học, nghệ thuật mới trong cộng đồng mênh mông của thế giới




Thiếu sự cực đoan và tính quyết liệt, người ta không thể san bằng những quan điểm mỹ học và nghệ thuật cũ; và khi không san bằng những quan điểm mỹ học và nghệ thuật cũ, người ta không thể có khoảng trống để trồng trọt bất cứ một nền nghệ thuật mới .

Đả phá một cái gì có tầm cỡ vừa vừa, người ta là những nhà cách tân 

Đả phá cả hệ thống mỹ học, hay nói như nhóm từ nhiều người thường dùng, đả phá văn học nghệ thuật như-một-thiết-chế (art-as-an-institution), người ta trở thành những nghệ sĩ đích thực của một nền nghệ thuật mới.

Đả phá không phải là phá bĩnh. Càng không phải là hư vô chủ nghĩa. 

Một thái độ xã hội ngây thơ trong lãnh vực văn học nghệ thuật thường lẫn lộn những phạm trù rất khác nhau ấy. Thật ra, đả phá bao giờ cũng đi liền với xây dựng.  
Đả phá là xây dựng.

Khi người ta đạp đổ các bức tường bít bùng của một ngôi nhà, người ta đang mở ra một không gian tự do. 

Khi người ta đạp đổ các thần tượng giả, người ta đang tự giải phóng.

Trong ý nghĩa đó, phản-văn chương không phải là phủ nhận sự tồn tại của văn chương mà chỉ phủ nhận một truyền thống văn chương đã trở thành sáo mòn và thay thế vào đó là loại văn chương mới, với những quy ước nghệ thuật và nguyên tắc thẩm mỹ mới.

Phản-nghệ thuật cũng vậy. Không phải là xoá bỏ nghệ thuật. Mà là lật ngược khái niệm nghệ thuật lại: những yếu tố trên đỉnh cao, từng thống trị cả một hay nhiều thời đại trở thành cái đáy – cái đáy lịch sử; ngược lại, những yếu tố ngoại biên, ở bên ngoài, hoặc bị khinh rẻ, ở dưới đáy, lại được tôn vinh là những phát hiện độc đáo và có giá trị khai phá, có thể mở đầu cho một thời đại mới
.
Nhắm đến việc tra vấn những tiền đề căn bản như thế, dù mang giọng giễu cợt và tự nhận là nông cạn, không có chiều sâu, không có tính lịch sử, không nghiêm túc, đầy tính hình thức chủ nghĩa, tác phẩm được sáng tác trong cảm hứng hậu hiện đại, thật ra, lại mang tính triết lý rất sâu sắc. 

Chính vì vậy, Lyotard mới ví vị thế của văn nghệ sĩ nghệ thuật mới với vị thế  triết gia . Họ không bị ám ảnh bởi những vấn đề có tính nhận thức luận (epistemology) mà họ bị ám ảnh bởi những vấn đề có tính bản thể luận (ontology). Vì vậy  nghệ thuật mới tạo ra những cú sốc của nhận thức hơn là những cú sốc của cái mới nhận thức.
 .
Mới tiếp xúc thì các tác phẩm nghệ thuật mới tưởng như chỉ phơn phớt ở bề mặt, vớ vẩn , lăng nhăng , vô bổ nhưng thực ra nó lại có nhiều vấn đề  để phân tích hơn hẳn các tác phẩm hiện đại hay cổ điển:

Về phương diện nghệ thuật, nói chung, chúng thường đa tầng và đa giác hơn.

Về phương diện tư tưởng, chúng cũng hàm chứa nhiều yếu tố bất ngờ hơn.
Nghệ thuật mới  Gắn liền với sự đập phá và tìm tòi, thử nghiệm các quy ước và quy luật mới, và đặc biệt nó  gây sốc ở thái độ sùng bái cái mới và sùng bái hình thức mới.  Nó gây sốc ở chủ nghĩa phản truyền thống (anti-traditionalism), phản-biểu hiện (anti-representationism) và phản-thẩm quyền (anti-authoritarianism), ít nhiều mang màu sắc vô chính phủ và hư vô chủ nghĩa .

Gây sốc, tự nó đã là một hiệu ứng nghệ thuật 

Trước khi được quần chúng chấp nhận, bao giờ cũng gợi cảm giác là phản nghệ thuật và phản-thẩm mỹ (anti-aesthetics)
.
 Ở Tây phương còn thế, huống gì là Việt Nam. Ở xã hội càng chật chội, càng bảo thủ, thì cái ấn tượng về tính chất phản-mỹ học ấy càng mạnh và càng kéo dài. 

Ở một xã hội lầy lội như xã hội Việt Nam, tính chất phản-thẩm mỹ và phản-nghệ thuật ấy nhiều khi bị xem là đốt đền phá tượng, là phản-đạo đức hay là phản động về chính trị, từ đó, bị xem là một cái tội.

Nghệ thuật mới tránh né mỹ học của cái đẹp dựa trên cảm giác lạc thú chung mang tính cộng đồng. 

Đối với thị hiếu của quần chúng, các tác phẩm của nó có vẻ ‘kỳ quái’, ‘dị dạng’, thuần là những huyễn tưởng hoang đường
Hàng ngàn năm nay cái đẹp là sự hài hoà và trật tự . Sựu hoàn thiện, cân xứng tạo ra cái đẹp. Và bản chất của cái đẹp nằm ở sự thống nhất.

Nghệ thuật mới chỉ hướng tới cái cao cả
Cái đẹp thuộc phạm trù hiểu biết,
Cái cao cả lại thuộc phạm trù lý trí;
Cái đẹp dựa trên sự đồng thuận về thị hiếu, một cảm quan chung về giá trị thẩm mỹ của xã hội,
Cái cao cả, ngược lại, dựa trên những chấn động, tự bản chất là một cái vĩ đại tuyệt đối
Cái đẹp có giới hạn
Cái cao cả không có giới hạn
Cái đẹp làm chúng ta hướng ngoại
Cái cao cả làm chúng ta hướng nội, nó vượt quá sức tưởng tượng, nó khiến chúng ta bị choáng
Theo đuổi mỹ học của cái cao cả không quan tâm tới tính quần chúng, nó chối bỏ và khinh bỉ sự thoả hiệp, nó khước từ các quy ước đã thành truyền thống trong thế giới văn học nghệ thuật. 

Do vậy nghệ thuật mới không quan tâm tới cái hữu ích trước mắt. Nó gây hấn với nó từ chối các thị hiếu và mọi thước đo của xã hội đương thời .

Nghệ thuật mới chỉ có một mục  đích duy nhất là  xin chào vĩnh biệt cái nền nghệ thuật hàng ngàn năm nay đã và đang thống trị xã hội . Và nó lãnh trách đặt những viên gạc đầu tiên  khởi sự lại từ đầu xây dựng một nền nghệ thuật mới hoàn toàn khác biệt hẳn
  
Tương lai không xa nữa nghệ thuật mới sẽ lên ngôi thực hiện cái sứ mạng chủ lưu của mình trong toàn bộ đời sống hoạt động văn học nghệ thuật của nước nhà.
Đó một quy luật của sự phát triển văn học nghệ thuật mà không một thế lực  nào có thể cản bước được ./. 

NT 

2012



            ______________________________________________
.