Sunday, March 31, 2013

SUY TƯỞNG BÊN DÒNG CHỮ

                                                Paul  Hoover                                 
                                                                                                                                                                                                       

Lời người dịch:
Khi gặp nhau bên West Coast tháng 3 năm rồi, Paul Hoover ký tặng tôi tập thơ mới nhất, DESOLATION: SOUVENIR (Omnidawn Publishing, California, 2012). Thi tập gồm hai phần: phần đầu là các bài thơ; phần hai là các suy nghiệm giàu tính triết học của chính nhà thơ dưới cái tên THE WINDOWS với câu nhập đề mượn của họa sĩ Ý Giorgio di Chirico: “Một ghế bành có thực tựa vào một cửa sổ có thực.” Lần lượt tôi sẽ dịch trọn phần hai của tập thơ này sang tiếng Việt để giới thiệu một phần tư tưởng của Paul Hoover.
                                                                                                                                        Chân Phương


 
 
  CÁC  CỬA  SỔ
 
Thế giới gồm toàn hành động.
Hiện thực là thực hiện; kết quả của những hành động là các thế giới.
Hiện thực là bất cứ cái gì hiện hữu.
Chó giả thiết bị con mèo thật rượt.
Sự vật là khả thể trước khi hiện hữu.
Bằng cách nào một tai nạn thành ra sự vật?
Tai nạn xảy ra khi hành động trật chìa.
Nếu trong câu nói xảy ra tai nạn, còn tin vào ý nghĩa được chăng?
Có ánh nhìn xa vời trên gương mặt của khả tính.
Nó sẽ không bao giờ hiện hữu đúng nghĩa hay trở thành sự kiện.
Chẳng bao giờ hành động cũng là hành động.
Bạn thích cái nào, sự vật hay trạng thái của nó?
Cái phần thiếu hụt về thời gian- các vật thể sẽ bù lại bằng không gian.
Một vật thể là hiện thực đang ngóng chờ hành động sắp tới.
Nó có thể chờ một thời gian dài.
Thời gian tươi mới nhờ các vật thể cho dù chúng hư hoại dần.
Bạn không thể tìm được một ví dụ cho thấy thời gian già đi.
Mỗi giây, thời gian mỗi mới.
Vậy mà trong chúng ta có những người cảm thấy chán ngấy.
Những gì tôi tưởng tượng được đều khả dĩ.
Nhưng có thể không thực.
Khả tính là một cội nguồn của vui thú.
Các đồ chơi của chúng ta đã bày ra.
Nhưng nhiều lúc chúng ta không làm gì được.
Không hành động là phí phạm khả tính.
Hành động là phí phạm điều bất khả.
Sự vật có bản lề, chúng xoay cả hai chiều.
Bởi vậy các cánh cửa có phép lạ.
Các giáo sĩ của bức tường.
Vì sao ta bảo các ý tưởng có phương hướng?
“Tôi đang suy nghĩ theo chiều hướng ấy.”
Một xâu ý tưởng cũng giống một màn rượt đuổi.
Ý tưởng này xô ý tưởng kia rơi ra ngoài lề.
Công việc của thời gian là làm hoài không được nghỉ.
Vật thể chỉ hữu dụng trong một hạn kỳ.
Một lúc nào đó chúng sẽ tàn phai.
Chúng là đám nhân công kiên trì trong các vườn nho của không gian.
Ta không thể tưởng tượng một cái gì, nếu trước đó ta chưa thấy nó.
Ví dụ, một cây thông.
Nếu chưa từng thấy chiếc thuyền, bạn sẽ miêu tả nó thế nào?
Nói ra là làm cho thấy được.
Lần đầu nhìn thấy một điều gì cần có óc tưởng tượng.
Bạn đang tìm hiểu về khả tính của nó.
Sau đó nó trở nên có thực.
Con cá đuối lượn qua vùng nước cạn.
Đàn chim cánh buồm đậu vách đá.
Bạn có thấy điều tôi muốn nói?
Nói ra điều bạn thấy còn khó hơn.
Một trái lê khả dĩ trên cái đĩa khả dĩ.
Một bầy cá khả dĩ.
Tại sao ta nói “các vật thể có thời hạn”?
Gọi thử tên một vật thể hiện diện ngoài thời gian.
Có lần tôi tặng một chục đoá hồng có thời hạn.
Vật thể cố nhiên chiếm dụng không gian.
Đôi tình nhân quần nhau trên giường để cùng chiếm một không gian và thời khắc.
Không có tự do cho sự vật được định danh.
Chúng mắc kẹt không thoát ra khỏi chúng.
Ví dụ, bạn không thể đặt tên khác cho một vật.
Như thế sẽ làm biến dạng thế gian.
Bạn gọi “cây kéo” bằng tên khác thử xem?
Cái áo đầm màu đỏ mang một lịch sử.
Một thế giới lớn lên quanh nó, nó là thần thánh trong thế giới ấy.
Muốn biết một vật thể, bạn phải thấy được tương lai của nó.
Nhiều thứ vật thể nằm trong miệng ta như trẻ con.
Chúng có mùi vị tròn hay vuông, mềm hoặc cứng.
Ta nhìn thấy bằng miệng.
Bạn chẳng thể biết một vật nếu không biết tên gọi của nó.
Tên đổi, vật cũng đổi.
Phía trước nó , một thế giới mới mở ra.
Hỡi những từ mang ý nghĩa nông nghiệp bị lãng quên!
Chuồng cu với lưỡi cày.
Tên gọi khiến sự vật có thực.
Kể cả điều tưởng tượng.
Nobodaddy. Uncle Sam.
Vật thể nhiều thứ có tính riêng tư.
Chúng trốn biệt dù nằm trước mắt ta.
Đời sống riêng tư của chúng hiển nhiên chẳng liên can gì với ta.
Những vật thể bên cửa sổ nhìn ngắm ta.
Những vật thể bất khả, không bao giờ hiện ra cho thấy.
Chúng ta đặt tên một vật khi nó hoạt động giống như vật nó mang tên.
Nó có nhịp điệu và hệ thống riêng của nó.
Có vài hệ thống trong suốt.
Chẳng hạn, các đồng hồ.
Mọi người đều biết cái gì diễn ra bên trong chúng.
Sự trong suốt là một cách cải trang của thế gian.
Ta không thể biết được trọn vẹn về bất cứ thứ gì.
Hoặc chỉ biết được một ít về mọi thứ.
Đầu óc chỉ có thể xử lý mỗi lúc một việc.
Mở đầu, phần giữa, kết cục.
Bạn có thể gọi tên một đứa bạn thứ tư thời niên thiếu?
Chúng ta không phải là những sinh linh vô giới hạn.
Cũng chẳng có vật thể vô giới hạn.
Vô biên chỉ là một ý niệm để mang vũ trụ đến gần.
Nhưng vũ trụ bất cần và vung vãi các quan tâm của nó.                                        (còn tiếp)

HẠNH PHÚC

Matthieu Ricard

      Một trong những nhầm lẫn phổ biến nhất là người ta thường đồng hoá niềm vui với hạnh phúc. Tuy nhiên, nếu bạn nhìn vào các đặc tính của cả hai điều này, bạn sẽ thấy niềm vui thì phụ thuộc vào thời gian, vào đối tượng của nó, vào nơi chốn. Nó là cái gì đó có bản chất thay đổi. Chiếc bánh sô-cô-la đẹp đẽ: thưởng thức chiếc đầu tiên rất ngon miệng, nhưng đến chiếc thứ hai thì đã không còn ngon lắm, sau đó chúng ta cảm thấy phát sợ. (Cười) Đó là bản chất của cuộc sống: chúng ta cảm thấy mệt mỏi. Tôi từng là một người hâm mộ nhạc của Bach. Tôi đã từng chơi nó trên guitar, bạn biết đấy. Tôi có thể nghe nó hai, ba hay năm lần. Nhưng nếu tôi phải nghe nó 24 giờ, không ngừng nghỉ, thì sẽ rất mệt mỏi. Nếu bạn đang cảm thấy rất lạnh, bạn đến gần đống lửa, sẽ rất tuyệt vời. Sau đó một lúc, thì bạn phải lùi lại một chút, vì nó bắt đầu cháy lan ra. Nó thiêu cháy bạn khi bạn trải nghiệm nó. Và lại nữa, nó có thể - là một cái gì đó mà bạn - nó không phải là cái gì đó đang lan toả ra bên ngoài. Giống như, bạn có thể cảm thấy niềm vui mãnh liệt và một số người khác xung quanh bạn thì lại có thể đang rất đau khổ.
 
      Đạt Lai Lạt Ma đã từng ở Bồ Đào Nha, và đã có rất nhiều công trình xây dựng đang diễn ra ở khắp mọi nơi. Vì vậy, trong một buổi tối, Ngài nói, "Hãy nhìn xem, các bạn đang làm tất cả những điều này, nhưng chẳng phải cũng đẹp đẽ sao, nếu chúng ta xây dựng một cái gì đó trong lòng mình?" Và Ngài nói, "Nếu không có điều đó - ngay cả khi bạn sở hữu một căn hộ công nghệ cao trên tầng thứ 100 của một tòa nhà siêu hiện đại và thoải mái, nếu trong sâu thẳm trái bạn bạn cảm thấy không hạnh phúc, tất cả những gì các bạn sẽ tìm kiếm là một chiếc cửa sổ để nhảy xuống từ đó." Vậy nên bây giờ, ngược lại, chúng ta biết rất nhiều người đang ở trong những hoàn cảnh hết sức khó khăn đã giữ được sự bình an, sức mạnh nội tâm, tự do nội tâm, sự tự tin. Vậy nên bây giờ, nếu các điều kiện bên trong nội tâm được mạnh mẽ hơn - tất nhiên, các điều kiện bên ngoài cũng có ảnh hưởng, và cũng rất tuyệt vời nếu có thể sống lâu hơn, khỏe mạnh hơn, có thể tiếp cận thông tin, giáo dục, để có thể đi du lịch, có tự do, chúng thật đáng mong muốn. Tuy nhiên, điều này là chưa đủ, những điều này chỉ mang tính phụ trợ, mang tính điều kiện. Kinh nghiệm truyền đạt lại, mọi thứ đều nằm trong tâm. Vì vậy, sau đó, khi chúng ta tự hỏi bản thân làm thế nào để có thể nuôi dưỡng các điều kiện cho hạnh phúc, các điều kiện nội tâm, và đâu là những điều sẽ làm suy yếu hạnh phúc. Điều này cần có một số kinh nghiệm.
 
      Vậy thì liệu chúng ta có thể thay đổi cách sống của mình? Chuyển hoá tâm thức của một người? Chẳng phải những cảm xúc tiêu cực, hay những cảm xúc phá hoại, là cố hữu trong bản chất của tâm hay sao? Có thể nào thay đổi cảm xúc, tính cách và tâm trạng của chúng ta? Để làm được điều đó buộc chúng ta phải tự hỏi, bản chất của tâm là gì? Và nếu chúng ta nhìn từ quan điểm thực nghiệm, có một phẩm chất nguyên thuỷ của ý thức, đó chỉ đơn thuần là sự nhận biết, nhận thức, Ý thức giống như một tấm gương cho phép mọi hình ảnh khởi lên trên nó. Bạn có thể có những khuôn mặt xấu xí, khuôn mặt xinh đẹp trong gương. Tấm gương cho phép điều đó, nhưng tấm gương thì không bị ô nhiễm, không bị biến đổi, không bị thay đổi bởi những hình ảnh này. Tương tự như vậy, đằng sau mỗi suy nghĩ có một ý thức, một sự nhận biết thuần khiết Đó là bản chất của tâm. Về bản chất, nó không thể bị ô nhiễm bởi lòng căm thù hay ghen tị bởi vì, nó đã luôn có đó - giống như thuốc nhuộm sẽ thấm sâu vào từng thớ vải của toàn bộ tấm vải -- nó sẽ luôn được tìm thấy, ở đâu đó. Chúng ta biết rằng không phải lúc nào mình cũng giận dữ, ghen tị, hào phóng
 
      Một cách khác là cố gắng tìm ra một phương thuốc đối trị chung cho tất cả các cảm xúc. và đó là bằng cách nhìn vào chính bản chất của chúng. Thông thường, khi chúng ta cảm thấy khó chịu, căm hận hay bực mình với ai đó, hay bị ảm ảnh về điều gì đó, tâm trí cứ trở đi trở lại với đối tượng đó. Mỗi lần tiếp cận đối tượng, nó lại gia tăng thêm nỗi ám ảnh hay sự khó chịu đó. Và vì vậy, đó là một quá trình không ngừng lặp đi lặp lại. Bây giờ những gì chúng ta cần nhìn, không phải là hướng ra bên ngoài, mà là hướng vào bên trong nội tâm của mình. Hãy nhìn vào chính sự giận dữ; nó trong có vẻ rất hăm doạ, giống như một đám mây đen đang vần vũ hay một trận bão tố sấm chớp. Chúng ta nghĩ mình có thể ngồi trên mây, nhưng nếu bạn tới đó, nó chỉ là một làn sương mù. Tương tự như vậy, nếu bạn nhìn vào những tư tưởng giận dữ, nó sẽ biến mất giống như giọt sương tan biến dưới ánh nắng bình minh. Nếu bạn làm điều này nhiều lần, cái khuynh hướng, xu hướng giận dữ tiếp tục khởi lên sẽ ít dần đi sau mỗi lần bạn làm nó tan biến. Và, cuối cùng thì, dù nó có thể khởi lên, nó sẽ chỉ lướt qua tâm trí, như một con chim bay lượn trên bầu trời xanh mà không để lại dấu vết. Đây là một nguyên tắc để rèn luyện tâm thức.
 
      Vậy họ đã tìm thấy điều gì? Dĩ nhiên, cùng một thứ. Vùng cấm trong khoa học -- đã từng chịu sự quy định của "Tự nhiên," hy vọng rằng nó sẽ được chấp nhận. Đề cập đến tâm từ, lòng yêu thương vô điều kiện. Chúng tôi đã yêu cầu các thiền giả, những người đã thực hành như thế trong rất nhiều năm, đưa tâm họ vào trạng thái nơi mà chỉ có tình yêu thương -- hoàn toàn vì lợi ích của tất cả chúng sinh. Dĩ nhiên, trong quá trình rèn luyện, chúng tôi đã làm điều đó với các đối tượng cụ thể. Chúng tôi đã nghĩ về những người đang phải chịu đau khổ, chúng tôi nghĩ về những người mà mình yêu thương, nhưng đôi khi, nó có thể là một trạng thái bao trùm tất cả [chúng sinh]. Đây là kết quả ban đầu, đây là điều tôi có thể cho các bạn xem vì gần đây nó đã được công bố. Đường cong đồ thị chỉ ra 150 điểm kiểm soát, và những gì chúng ta đang nhìn cho thấy sự khác biệt giữa thuỳ trán bên phải và bên trái. Nói một cách ngắn gọn, những người có nhiều hoạt động hơn ở phần vỏ não trước trán bên phải sẽ buồn phiền, lãnh đạm hơn -- họ không thể hiện nhiều tình cảm tích cực. Đối diện là phần vỏ não bên trái: có xu hướng vị tha hơn, hạnh phúc, thể hiện, tò mò... hơn. Vậy nên có một giới hạn chung cho mọi người. Và nó cũng có thể được thay đổi. Nếu bạn xem phim hài, bạn sẽ kích hoạt phần vỏ não trước trán bên trái. Nếu bạn cảm thấy hạnh phúc về điều gì, bạn sẽ kích hoạt vỏ não trước trán bên trái nhiều hơn Nếu bạn buồn phiền, bạn sẽ kích hoạt vỏ não trước trán bên phải. Còn ở đây, độ lệch chuẩn là - 0.5 của hành giả đang thiền về lòng từ bi. Nó là điều gì đó hoàn toàn ở ngoài đường cong của đồ thị.
 

NHÀ THƠ CHÂN PHƯƠNG

Inrasara



CHÂN PHƯƠNG, LỮ KHÁCH BLUES TRONG THƠ ĐƯƠNG ĐẠI



Buồn. Đó là chuyện muôn đời của thi sĩ. Đông hay Tây, kim hay cổ.

Cảm giác không gian bao la, một sinh thể nhỏ bé mong manh mang tên con người trôi bềnh bồng trên mặt đất mong manh đang bềnh bồng trôi, Huy Cận cảm được nỗi lạnh và, buồn. Trực cảm trời đất vô cùng, xa và dài là thời gian, Trần Tử Ngang buồn rơi nước mắt. Tiễn người, khi tàu đi bỏ lại sân ga chênh vênh một góc trời, Hoài Khanh đối mặt với khoảng trống cô đơn – buồn. Xa, buồn tha phương của Thôi Hộ; gần hơn, buồn không hiểu vì sao buồn của Xuân Diệu. Thi sĩ nòi nhạy cảm với thân phận, buồn chưa bao giờ làm vắng mặt suốt hành trình thơ của họ.

Đó là buồn của đời xưa, thời xưa. Cảm nhận khoảng cách, xa hay gần, dài hay ngắn, là điều dễ nhận thấy. Nhưng thời nay đã khác. Thi sĩ hiện đại bị bó hẹp trong không gian chật chội, đến như là không có khoảng trống, dù bé nhỏ và riêng tư nhất. Căn nhà đầy tiện nghi chưa bao giờ biết đủ này chật hẹp thì đành, phố xá đèn đường, bảng hiệu, người xe như nêm chật ních đã đành, cả châu Âu mênh mông kia bây giờ cũng không chừa khoảng trống cho tâm hồn được thanh thản. Di cư tìm đất lạ náu thân, càng vô ích. Bởi cả thế giới cũng đang trở nên rất chật hẹp.

khách điếm tầng cao

những chân trời lạ

từng canh khuya hao mòn

từng cơn say cô đơn

 trăng tròn Athena

 sơ huyền Bá Linh

 rằm Luân Đôn

chuyến tàu ngày đêm quanh quẩn Âu châ

                  (“Lữ khách Blues”, Vết Chồn Hoang)

Thiếu khoảng cách không gian, hầu như thi sĩ hiện đại bị khuất lấp hay đánh mất luôn buồn siêu hình, đẹp và mang ở tự thân khả tính giải thoát. Hôm nay, buồn mà hắn chạm mặt hằng ngày vẫn buồn đó, nhưng là buồn trong chật chội và không lối thoát. Không làm thăng hoa bất cứ cái gì. Nó níu tất cả rớt lại cõi đất đen lù lù.
giã từ biên giới này   
bắt tay màu cờ khác

đổi tiền nước này   

 xài tiền nước khác
không

đổi

được

nỗi

sầu

                     (“Lữ khách Blues”, Vết Chồn Hoang)

Thi sĩ buộc phải ở lại để chịu đựng sự cô độc tê hại. Không phải cô đơn mà là, cô độc. Huy Cận “chia biệt người xa từng xứ cô đơn”vẫn còn thơ mộng, lãng mạn quá. Ngay đến Nguyễn Đức Sơn: “Đây với đó chỉ dựng chòi cô độc”, ta vẫn thấy sự chủ động của đối thể: Con người ích kỉ hay kiêu ngạo, đã tự dựng hàng rào phân cách với nhau và thế giới bên ngoài. Thời hiện đại, Chân Phương đã rất khác - cô đơn và cô độc ở trong thế buộc. Thi sĩ không có chọn lựa. Hắn bị cầm tù chung thân trong một thế giới thù nghịch bất khả vượt thoát, ở đó mọi hoạt động và nỗ lực đều trở nên vô nghĩa. Các cuộc thay đổi hay cách mạng chỉ xảy ra lớt phớt ngoài rìa, như là một màn diễn tồi.
cộng sản    
 tư bản
kéo màn  
hạ màn
dăm đoạn kịch tồi
đã làm hỏng mẹ cuộc đời
             (“chuyện phào”)

Con người sinh ra để chết, là sự phi lí của định phận: phi lí siêu hình. Sự phi lí càng bị đẩy đến tận cùng khi con người tiếp tay định mệnh ra sức triệt tiêu con người. Triệt tiêu tâm hồn, tinh thần và thể xác. Tàn bạo và phi nhân đến vô phương cứu chữa, khi nó có hệ thống, và đầy tính toán. Khi các cuộc cách mạng nhân danh chủ nghĩa và ý thức hệ, nhân danh đạo đức, luân lí, truyền thống, dân tộc, văn minh, tự do dân chủ và công lí. Con người nhân danh tình thương và lòng bác ái, để tàn bạo.

Cảm giác mệt mỏi thường trực, tâm trạng tuyệt vọng luôn đeo bám. Không dứt ra được. Tuyệt vọng đến phó mặc. Có “chết vô danh như chim chóc/ thì cũng vậy thôi” (“chuyện phào”). Tuyệt vọng đến muốn tung hê tất cả!
tôi ký tên ủng hộ việc xây dựng trại tập trung
tôi ký tên tán thành phòng giam có trang bị hơi ngạt
tôi ký tên quyên góp nhẫn cưới của vợ chồng tôi
tôi ký tên ưng thuận cho kỹ nghệ xà phòng sử dụng mỡ của tôi với con tôi
tôi ký tên bằng lòng cho công nghiệp mỹ phẩm khai thác hàm răng mái tóc vợ tôi
tôi ký tên phấn đấu cho ban điều hành trại được vui lòng
tôi ký tên sẵn sàng chịu đựng những thử thách khó khăn hơn
tôi ký tên và vận động mọi người cùng ký
             (“tôi ký tên”, Chú Thích Cho Những Ngày Câm Nín)

Trước lạnh lùng của vũ trụ, sự phi nhân của con người, sự phi lí của định mênh, nghệ sĩ ảo vọng tìm lối thoát trong nghệ thuật. Hi vọng nghệ thuật cứu chuộc con người, hay ít ra nó cũng là nơi ẩn trú cho một tâm hồn cô đơn. Nhưng không. Trong thế giới chật ních này, không còn nơi chốn an bình cho

cá thể tìm gặp cá thể, tâm hồn tìm đến tâm hồn. Nghệ sĩ đã mất tự do toàn phần trong cuộc sống hiện đại. Nổi tiếng và được tôn vinh trên các phương tiện thông tin đại chúng không khỏa lấp nỗi trống vắng. Lắm lúc nó còn làm tù ngục thui chột những đọt mầm sáng tạo. Trong thế giới phi nhân này, nghệ thuât không là gì cả. Thơ bất lực và ngôn ngữ bất lực.
giữa những đợt triều
 chữ lời   
 và  
 im lặng
Ảo vọng về sự vĩnh cửu của nghệ thuật càng vô nghĩa và cũng chẳng an ủi nổi ai. Ngay một nơi chốn được cho là dễ tìm thấy sự đồng cảm hơn cả: tình yêu, đó cũng là một bất hạnh mang hình hài khác.
hạnh phúc đi vớt rong bên ghềnh bão
bằng nẻo trăng mờ nào vĩnh viễn xa nhau ?
             (“ý nghĩa của em và biển”, Biển là Một Tờ Kinh)

Cảm thức hiện đại gần như xuất hiện đủ đầy và xuyên suốt các sáng tác của Chân Phương. Nhưng khác với nhiều nhà thơ hiện đại, Chân Phương không bị ẩn dụ và “tính trí thức” bí bức trong vòng quẩn khó hiểu và tối nghĩa của thơ. Vẫn hình thức phân mảnh và không liên tục, tính tự phát và ngẫu hứng được đẩy tới, nhưng đằng sau sự đứt quãng và rời rạc trong thơ anh vẫn hiện diện vô hình dấu kết nối để người đọc có thể ráp nối chúng qua ngôn từ chắt lọc không quá xa cách và thi ảnh gần gũi đời thường, từ đó tạo sự hiểu và đồng cảm.

Ít ra cũng với kẻ cùng hội cùng thuyền. Có trải nghiệm nỗi tha phương thế nào mới hiểu và cảm thông được Nh. Tay Ngàn như Chân Phương đã cảm và hiểu.

“Hơn cả Hàn Mặc Tử, Bùi Giáng… còn có thân nhân, đồng bào khi hoạn nạn, Nh. Tay Ngàn hoàn toàn tứ cố vô thân ở Pháp trong những năm tháng túng thiếu, nghiện ngập, lao phổi, điên khùng… Không hiểu những bóng hình phụ nữ (gái Việt, đầm Pháp, đàn bà Tây ban nha) trong những trang bản thảo của

ông có an ủi, khỏa lấp được chút nào niềm tuyệt vọng và ám ảnh hư vô chủ nghĩa đã thấm vào máu thịt nhà thơ?”

             (Chân Phương, “Một vệt sao mờ”, viết về thi sĩ Nh. Tay Ngàn)

Chân Phương đã đặt câu hỏi như thế về một nhà thơ bất hạnh trước anh. Còn anh, hình bóng nữ nào, trang bản thảo nào có thể an ủi khỏa lấp buồn anh, hôm nay?
dù chuyến bay gặp nạn hay hạ cánh an toàn
mọi tọa độ và địa chỉ cũng đã thất lạc lâu rồi
                                            (“chuyện phào”)

Sinh tại Nam Vang, Cambốt; sống ở Boston, Hoa Kì, viết bằng tiếng Việt, các trang viết này rồi sẽ có ai nhớ? “Thôi sắp bốn mươi đến nơi/ hơi đâu lo chuyện xếp câu đặt lời” (“chuyện phào”). Nhưng nghĩa vụ của thi sĩ là viết. Dù thế giới sắp đổ rụm ngày mai. Ta vẫn viết. Không mơ mộng không hi vọng.

Cả tôi nữa. Sinh ở Chakleng - Phan Rang, sống Sài Gòn, viết cả tiếng Chăm lẫn Việt Nghiên cứu, sưu tầm và dịch thuật, làm thơ và viết văn. Tôi biết, mớ công trình văn học và ngôn ngữ dày cộm này, mấy tập thơ mỏng tang kia, một ngày nào đó sẽ bị lãng quên. Có thể ngay hôm nay chẳng ma nào quan tâm đến nó nữa, không chừng. Nhưng tôi vẫn trì trì miệt mài trình bày nền văn chương đang nguy cơ trầm một này đến thế giới bên ngoài; kiên nhẫn phận sự canh giữ ngôn ngữ dân tộc bằng “chơi trò ráp chữ, xếp câu đặt lời”.

Con người trong thế giới hiện đại luôn bị đánh bật khỏi gốc rễ và chịu phận lưu đày. Nhất là nhà thơ. Lưu đày khỏi quê cha đất tổ, khỏi tiếng mẹ đẻ, khỏi bổn phận canh giữ. Cả khi ta vẫn ở lại quê hương, vẫn viết bằng tiếng mẹ đẻ, ta cứ phận lưu đày. Ta bị lưu đày khỏi bản thể mình. Đó là một thứ lưu đày tinh thần, lưu đày tâm linh spiritual exile.

 Thi sĩ muôn đời không “thoát khỏi diện tích chiếc giày lấm bụi” (“chuyện phào”), dù bạn sống bất kì đâu, bất kì thời đại nào, chế độ chính trị nào. Chiếc giày lấm bụi đeo bám bạn, như là định phận. Nghịch cảnh buộc bạn lưu đày đã đành, có khi chính bạn chọn định phận lưu đày. Chủ động lưu đày, như là một phản kháng lại định mệnh:

tôi đẩy cửa ra đường

đế giày lại kết bạn với bàn chân

                     (“Đêm ở Marseille”, Vết Chồn Hoang)

Thi sĩ đẩy mạnh cánh cửa để bước ra, làm cuộc lưu đày một lần và muôn ngàn lần nữa. Để qua lưu đày L’Exil – đây là hi vọng cuối cùng của bạn – bạn tìm thấy quê nhà le Royaume. Bởi dấu chân hay vết tích rơi rớt nơi vô trụ xứ cũng là cơ duyên của câu kinh hoặc bài thơ.

tay phải nắm vỏ sò biển thái bình

tay trái lần sỏi cuội đại tây dương

ngày nhìn sóng bạc

tối ngắm đá đen

miệng lầm bầm

sự phá sản của mọi thần chú

xếp bằng thế hoa sen

luyện tối hậu công phu

cõi lòng trống hoát mênh mông

bao nhiêu sầu não lênh đênh

vẫn thừa chỗ chứa

                   (“Phù thủy ca”, Vết Chồn Hoang)

Tâm hồn đã bao la, bao nhiêu buồn vẫn có chỗ chứa. Bởi, khi đi đến cùng nỗi bi quan, thi sĩ sẽ cất lên tiếng cười xé toạt định mệnh. Đó là biện chứng của sáng tạo, là đôi môi ẩn mật của Buddha. Đằng sau giai điệu blues Chân Phương là tiếng tù và đỉnh núi và sóng biển bập bùng nhịp flamenco. Ai có thể lắng ngh

                                                        Sài Gòn, Ba mươi Tết 2009.