Hamvas Béla
MILAREPA
Giữa
hai vùng đất cao của thế giới, Peru và Tây
Tạng thoạt trông không liên quan gì đến nhau. Dân da
đỏ chiếm lĩnh vùng cao Nam-Mỹ; dân Mông cổ
chiếm vùng thuộc châu Á. Những vùng này đại
thể đang sống trong thời kỳ đồ đá;
văn hóa của những vùng này hàng nghìn tuổi. Peru
bị xâm chiếm tự do,trước
hết do người Inca, sau
đến người Tây Ban Nha, và bây giờ là
người Mỹ. Vùng đất kín Tây Tạng cho
đến tận hôm nay vẫn ít kẻ lạ dám mò
tới.
Vậy
mà vẫn có những nét chung giữa hai vùng đất.
Những gì cao thường đi kèm với một khái
niệm rõ ràng. Nhưng sự giống nhau giữa Peru và Tây
Tạng không ở chỗ cả hai nơi đều cao,
nhưng tối. Cao và tối như thể chòm sao titan
của Thiên hà. Không giống nhau vì không ai có thể giải
thích được bí ẩn của cư dân sống trên
hai vùng đất ấy. Cho dù đặt Peru lẫn Tây Tạng vào giữa các vùng cư dân khác, giữa các vùng
địa lý khác, hai vùng đất này vẫn cứ
tồn tại đơn độc, duy nhất, xa vời
và khép kín.
Sự
bình thản đáng sợ, mức độ cao vời
vợi, tính chất mịt mù
thiên hà tỏa ra từ cái tinh thần Peru và Tây Tạng chính
là giới hạn dành cho con người. Giới hạn
của sự đơn độc, xa vợi, mịt mù và
sự khép kín là ngưỡng vượt qua cả sự
hiện hữu của thực thể người,
người ta không thể không trở thành nạn nhân khi
bước qua. Quá ngưỡng giới hạn này vẫn
có một cái gì đó, nhưng không phải là con
người nữa.
Cả
Peru lẫn Tây Tạng đều là vương quốc
của giới hạn. Sự khá nhau ở chỗ Peru
đi xuống, còn Tây Tạng đi lên. Nếu từ
người da đỏ Peru dấn thêm một
bước, sẽ không còn là con người; cũng
vậy, nếu từ người Mông cổ TâyTtạng
dấn thêm một bước, cũng sẽ không còn là con
người nữa.
Nhưng
vì vậy cả hai đều là miền đất có phép
thuật và của các đạo sĩ. Tính chất khác
biệt của phép thuật tùy theo tính chất của
đất. Giới hạn, biên giới là vị trí có phép thuật.
Thật nguy hiểm cho kẻ nào nhầm lẫn từ
đây hoặc vượt qua nó. Nếu người ta xâm
phạm cái giới hạn có phép thuật ở một
nơi cấm, chính họ chạm vào tinh thần của
giới hạn, ĐẤNG QUYỀN LỰC chưa bao
giờ tha thứ cho ai vì sự xâm phạm này.
Chỉ
cần quá một giọt từ Peru, con người lao
xuống vượt quá giới hạn, bị tan ra và hòa
lẫn với sự tồn tại thấp hơn con
người; Chỉ cần quá một giọt từ Tây
Tạng, con người bay lên vượt quá giới
hạn, tan ra và hòa lẫn với sự tồn tại trên
con người. Các đạo sĩ Peru và Tây Tạng biết
rõ điều này.
Bởi
vậy trên trái đất không nơi nào có một trật
tự nghiêm ngặt hơn, một luật lệ
đơn điệu hơn và tàn bạo hơn, một
kỷ luật cứng nhắc và chặt chẽ hơn
trong vương quốc của người Inca và của
các Lạt ma. Một bộ phận của nhân loại không
bao giờ hiểu nổi tại sao có cái quyền lực
khủng khiếp của trật tự chết
người, bướng bỉnh và trần trụi này.
Bởi thế.
Bởi
nếu không như vậy, trong một khoảnh khắc vô
ý một kẻ sẽ ngã nhào qua khỏi ngưỡng
của giới hạn phép thuật, rồi thêm một
người nữa, mười người nữa,
năm mươi người, rồi toàn bộ một dân
tộc sẽ bị tiêu diệt. Peru có thể chìm nghỉm
dưới đáy của sự hiện hữu, Tây Tạng có thể bốc hơi trên cả sự tồn
tại. Ở đâu không có sự sống, sự tồn
tại ở đấy không có gì hết.
Cả
Peru lẫn Tây Tạng đều không có lịch sử. Cả
hai vùng đều là khu vực của một tinh thần
đứng bên ngoài không gian và thời gian. Cái sống trong
thời gian luôn luôn chỉ là một: đứng bên
cạnh giới hạn và gìn giữ giới hạn.
Những con người sống ở đây đối
với nhân loại xa lạ như người trên mặt
trăng. Cuộc sống mà những con người này theo
đuổi, không bao giờ thay đổi, từ ngàn
xưa chỉ một dạng và đúng như thế.
Cuộc
sống này khác hẳn cuộc sống của các dân tộc
khác. Có miền đất thời gian trôi nhanh hơn như
Bắc Mỹ. Có miền đất thời gian lặng lờ
như thế giới của Địa Trung Hải. Có
nơi chậm rề như thảo nguyên Nga hay sa mạc
Ả rập. Có miền đất thời gian đứng
lại, như Peru và Tây Tạng.
Nhưng
không đứng lại như khi gió lặng hoặc như
tim nằm trong một xác chết. Mà đứng lại
như một không gian trống rỗng, hoặc như
một tảng đá khủng khiếp. Người ta nói
ở đâu có một ngôi sao tên là Sirius Béta, ở đó
vật chất bị tan vỡ. Đúng như thế:
bị tan vỡ. Các nguyên tử nằm trong đống
đổ nát, bất động, chìm xuống, chết.
Thời gian ở Peru và Tây Tạng bị tan vỡ như
thế.
2.
Alexandra
David- Neel là một người đàn bà kỳ lạ.
Như nhiều người khác, với bà cũng không
đủ những gì bà đã biết trong tôn giáo châu Âu. Bà
không đủ kiên nhẫn, cũng như lòng tìm để
tìm kiếm bổ khuyết.
Bà tốt nhất chìm đắm
vào đạo Phật phương Bắc, và mất
nhiều năm để thuyết phục mình: bà là sự
hóa thân của linh hồn phương đông nhầm
đường sang phương tây. Nhưng sau này còn
nhiều những trường hợp tôn giáo đặc thù
hơn hẳn bà.
Điều
cực kỳ nhất là Alexand David- Neel sang phương Đông, học tiếng Tây Tạng, nhiều lần- có lúc
trong những hoàn cảnh vô cùng nguy hiểm- đi xuyên qua
Tây Tạng, gia nhập vào chùa Phật phương Bắc,
và tham dự vào không gian thần bí
của tôn giáo này. Bà viết nhiều sách về các
chuyến đi và về các kinh nghiệm thu thập, có
nhiều người cho rằng những tác phẩm này
đã mở ra một thế giới từ trước
tới nay chưa hề ai hay biết.
Có
thể lắm. Những cuốn sách hấp dẫn
đến lạnh toát cả sống lưng. Bà David-Neel
viết về tôn giáo Tây Tạng, bà nói dân châu Âu không hề
hay biết trong và với con người tôn giáo Tây Tạng
cái gì xảy ra khi hàng tháng trời người đó ẩn
náu câm lặng trong những vùng núi.
Hàng
trăm ngày trời một mình trong những hang đá, hang
động trần trụi, giảm đến mức
tối đa nhu cầu cuộc sống, đối với
chúng ta thuần túy đấy là sự tự sát. Nhưng
đối với một ẩn sĩ cô đơn
điều này như một
đảm nhận tinh thần hoang dã nội lực,
vượt ra ngoài sức tưởng tượng của
con người, mà bản thân hiện tượng này đã
là một điều kỳ diệu khi chính người
ẩn sĩ vượt qua.
Bà David-
Neel nói, những người này là những vận
động viên của nội lực. Tất nhiên bà
nhầm. Ở đây chẳng dính líu gì đến thể
thao. Đây là một cuộc phiêu lưu- nhiều hơn
thế.
Những kẻ có tính khí như
thế có thể tự gọi mình là một thủ
lĩnh. Thủ lĩnh của nội lực. Một
kẻ thèm khát phiêu lưu, kẻ chỉ sống
được trong những căng thẳng đe dọa
môi trường sống, kẻ không lùi bước và
sợ hãi trước bất kỳ cái gì, một sự
tồn tại trơ lỳ, cứng cỏi, trên con
đường khốc liệt không hướng ngoại
mà hướng nội.
Phương Đông gọi phương pháp kỷ luật hướng
nội này là yoga. Tổ quốc của yoga là Ấn
độ. Nhưng các phương phápyjoga của Hindu
chỉ là các phương pháp để đạt tới mức
độ tinh thần cao hơn của con người. Và con người
có thể đạt tới được. Vẫn có
thể gọi nó là thể thao.
Nhưng Yoga của Tây Tạng thì
không. Thể thao chấm dứt, khi con người đánh
cuộc với số mệnh. Kẻ tham dự Olimpic là
vận động viên nhưng Achiles thì không. Tại sao
thế? Vì Achiles đã dừng lại. Yoga của Hindu
vẫn có thể là môn thể thao bởi nó thử thách tinh
thần trên thể xác, nhưng Yoga Tây Tạng không phải
thể thao, bởi đấy chính là tòa án dị giáo tự
thân, thật sự không thể nào biết khi nào con
người chiến thắng, khi bị tiêu diệt trong nó
hay khi tiêu diệt được chính bản thân mình.
3.
Từng
có bốn vị thánh vĩ đại của thực hành
thiền quán Tây Tạng: Tilopa, Naropa, Marpa,và
Milarepa.
Chúng ta
phải cảm ơn Kazi Dawa-Samdup, một Lạt ma tinh
thông tiếng Anh, để ta có thể đọc
được tiểu sử Milarepa bằng tiếng châu
Âu. Trong tác phẩm này người ta nhận biết vị
trí về giới hạn của Tây Tạng. Milarepa lúc
đó vẫn còn sống, nhưng hầu như không còn là
người nữa. Như thể ngài đã vượt quá
ngưỡng người.
Trong tác phẩm này người ta nhận biết về
nội vi của các thánh Tây Tạng. Và nỗi ám ảnh
về sự bướng bỉnh này có một không hai. Châu
Âu chưa xây dựng nổi một vai phản diện
như thế này.
Milarepa
là con trai một nhà buôn giàu có. Cha ngài mất sớm, ông bác
thay cha dạy dỗ ngài. Và những người họ hàng
này lấy hết của cải của gia đình ngài.
Milarepa bị bắt lao động như nô lệ và
bị đói rách. Mẹ ngài mong muốn con trai học
thuật phù thủy để tiêu diệt lũ họ hàng
tội lỗi này. Milarepa đã làm đúng như vậy,
ngài học hắc thuật, gây ra một cơn bão phá tan
ngôi nhà của ông bác và giết chết tất cả
mọi người ở trong đó. Lúc đó Milarepa
vẫn còn là một thanh niên.
Ngài
đã làm quen với tri thức cao hơn như thế. Ngài
chạm vào giới hạn cao hơn con người như
thế. Milarepa không thỏa mãn với tri thức mang tên
hắc học. Ngài kiếm tìm sư phụ, và cuối cùng
gặp được Marpa, đấng Chuyển hóa Vĩ
đại, kẻ đã đi khắp xứ Ấn
độ và dịch những cuốn sách Mahájána ra tiếng
Tây Tạng. Phần tiểu sử ghi rõ Naropa sư phụ
của Marpa hiện ra và nhắc nhở, Milarepa là một
sinh linh đặc biệt, kẻ có thể lĩnh hội
được mọi tri thức của thày mình.
Sẽ
nhầm lẫn nếu tin rằng Naropa xuất hiện
trong giấc mơ của đấng Chuyển hóa Vĩ
đại. Naropa cũng chỉ là con người của
giới hạn. Những kẻ nhập định
đều biết họ bước qua ngưỡng
cửa của cái chết khi còn đang sống.
Bằng những thực tập
dài lâu và căng thẳng họ đi đến bản
chất của mình- biến mình thành tinh thần-từ
cơ thể vật chất họ chuyển vào cơ
thể của tinh thần một cách có ý thức. Naropa cho
dù đã chết, nếu muốn bất kỳ lúc nào ngài
cũng có thể trở lại với thân xác cát bụi.
Marpa nghe theo, nhận người trẻ tuổi Milarepa và
bắt đầu dạy chàng thứ tri thức bí ẩn.
Châu Âu
thực ra đã biết đến sự biến
đổi tinh thần này: Nhà tiên tri Illés phóng trên cỗ xe
rực lửa-ai cũng biết. Ngài từ bỏ
đất trong hình thái lửa. Ở Tây Tạng
điều này không hiếm. Sau này chính Milarepa cũng
biết làm như vậy, biến thành lửa. Ngài có
thể biến thành tất cả các hình thái. Ngài trở
thành đạo sĩ.
Phép thuật là gì? Ngồi xuống
một nơi tất cả chỉ là một, và từ
nơi đó hành động. Đạo sĩ biến thành
lửa thành nước,thành không khí, thành
ma quỷ, gọi bão tố đến, khiến thời
tiết trở nên đẹp, nước tuôn trong sa
mạc, vàng lấp lánh từ cát. Lúc này họ không còn là con
người nữa. Thành quyền lực. Bước qua
sự sống người, bước qua giới hạn.
Nơi người đó đứng: lửa, nước,
cát, không khí tất cả là MỘT.
Milarepa
trở thành học trò của Marpa. Nếu ai hiểu như
một dạng học trò của châu Âu: học các cuốn
sách, thực hành các bài tập và hoàn thành các nhiệm vụ,
người đó nhầm cơ bản. Marpa bắt chàng
trai này dựng lên bốn ngôi nhà, rồi bắt chàng phá
đi hoàn toàn, đến những viên đá cũng cần
khuân trả lại chỗ cũ, từ nơi chàng lấy
về. Chàng trai cần phải trở thành dây dẫn vì môn
hắc học.
Thứ
khoa học đen, môn hắc học này là gì? Hắc
thuật? Là cái gì vậy? Là việc sử dụng những
sức mạnh siêu nhiên cho một mục đích ích kỷ.
Hắc đạo sĩ là kẻ sử dụng tài năng
cho quyền lợi bản thân. Bằng siêu nhiên nhưng
đồng thời bôi bẩn thiên nhiên.
Milarepa
cần phải sám hối. Chàng đã trải qua những
năm tháng cay đắng cạnh sư phụ của mình,
kẻ không tiếc tay tàn bạo với chàng như một
thẩm phán của địa ngục. Cuối cùng
đấng Chuyển hóa Vĩ đại cho chàng nhập
định vào môn khoa học bí ẩn và truyền cho chàng toàn
bộ tri thức của mình.
Milarepa
lui về hang Dragkar-Taso. Tiểu sử có viết ngài đã
trải qua bao nhiêu năm một mình ở đó, nhưng
người ta không có hứng thú để đếm. Có
thể ba mươi-bốn mươi năm, nhưng
cũng có thể bốn mươi nhăm năm. Ngài
gầy tọp đi, sau cùng chỉ còn như một bộ
xương. Ngài ăn gì? Rau tầm gai. Không gì khác ngoài
tầm gai. Ngài hái bên cạnh hang, giữa những tảng
đá, nấu lên và ăn. Lạy Chúa, trời rất
lạnh nữa chứ!- bởi vì ở Tây Tạng mùa
đông dài, hàng tháng trời chỉ mười, hai
mươi độ.
Ai có
thể chịu nổi trong cái hang không sưởi ấm
với một cái bao tải rách rưới? Nhất là khi
không ăn gì khác ngoài rau tầm gai? Nhưng kẻ nhập
định Tây Tạng chỉ mỉm cười vì
những điều này. Bậc thày của joga am hiểu
thứ kỷ luật của sự sống khiến con
người có thể chịu đựng sự giá
lạnh kinh khủng nhất. Bằng cách nào? Bằng cái
gọi là sự ấm áp bên trong, người Tây tạng
gọi là tumo.
Đấy là việc sử
dụng một phương pháp dự trữ sức
ấm của thực thể người bằng hiện
thực, một thứ lạm phát nhiệt, bằng các
động tác yoga có thể thu được cái lò
sưởi cháy bỏng bên trong một cách liên tục.
Điều này không hề đơn giản. Là phép
thuật. Đạo sĩ từ cái lạnh có thể hóa
phép ra nóng, từ rau tầm gai ra thịt, từ băng giá
thành sự nóng bức.
Nhưng
khi Milarepa sống ẩn trong hang, ngài đã không làm
những điều này. Bởi nếu vậy lại
một lần nữa là hắc đạo, lại một
lần nữa sử dụng quyền lực và tri thức
có lợi cho bản thân: ngài sẽ lại làm cho cuộc
sống của mình không thể chịu đựng
được nữa. Giờ đây ngài đang trải
qua và cần chịu đựng cái đang có: thấu hiểu
và chịu đựng đến cùng. Trong cái lạnh hai
mươi độ, trong gió bão giá băng.
Milarepa ngồi trong hang, toàn bộ
y phục là một bao tải thủng lỗ và bạc
màu.Đôi khi một vài thợ săn hoặc lũ
cướp lạc đường tới đây nhưng
tất cả đều kinh hoàng chạy trốn. Họ
tưởng đây là bhuta –
con ma độc ác của núi. Hai mươi năm ngài không
cắt tóc, cắt râu, không tắm rửa, cũng không
ăn gì khác ngoài rau tầm gai. Cơ thể ngài bẩn
thỉu, gầy lõ, mắt sốt đỏ vằn,
mặt nhăn nheo lồi lõm. Ngài ngồi trong cái hang
của mình và thiền định.
Milarepa
muốn thực hiện mức độ bồ tát hoàn
thiện nhất trong duy nhất một cuộc
đời. Ngài muốn
từng trải trong một cuộc đời
người duy nhất, và muốn khoác lên chính bản thân
mình toàn bộ nỗi khổ ải của sự tồn
tại. Ngài không bao giờ còn muốn quay trở lại quả
đất này như một kẻ chịu đựng. Ngài
muốn bước qua cõi tĩnh độ vĩnh cửu,
bước vào sự sống thanh lọc.
Sau ba mươi năm đơn
độc, em gái ngài nghe tin anh mình vẫn sống bèn đi
tìm và khuyên giải ngài quay về với cộng
đồng người. Milarepa trả lời: Ta không quay
lại đâu, ta đã trải qua toàn bộ sự
khủng khiếp của hiện hữu, từ thú vật,
thực vật, khoáng chất, đến ma quỷ,
địa ngục, nhưng vẫn còn ba loka ba vòng thấp nhất của địa
ngục, ta vẫn chưa nếm trải. Muốn thu
nhận được bình yên vĩnh cửu, ta cần
đến với nó và chịu đựng nốt ba vòng
cuối này.Khi Milarepa vắt cạn kiệt toàn bộ
nỗi đau khổ của hữu hạn, ngài đã
xứng đáng không cần tiếp tục luân hồi, ngài
đã vượt qua giới hạn.
Đột
nhiên ngài cảm thấy: mình trở thành một sức
mạnh thanh tao, nhẹ nhõm và phi vật chất. Ngài có
thể nâng mình lên không gian và bay được. Trong
giấc mơ ngài có thể bay khắp vũ trụ. Ngài có
thể nhân đôi hay gấp trăm lần cái cá nhân riêng
biệt của mình, và tất cả những nhân ảnh này
đều có những khả năng siêu việt như
ngài. Ngài có thể bay lên tận trời xanh với các thiên
thần và nghe lời dạy dỗ của họ. Ngài có
thể biến cơ thể mình thành lửa hoặc
nước.
Milarepa
chết vì bị đầu độc. Ngài biết là mình
ăn thức ăn có thuốc độc, nhưng ngài không
cố gắng chống lại. Ngài là đạo sĩ.
Nhưng sẽ lại trở thành hắc đạo
một lần nữa- nếu sử dụng cho mục
đích riêng của mình. Ngài qua đời, và khi thoát
tục, giữa luồng ánh sáng tuyệt đẹp phát
quang, các thiên thần và các nữ thần đều
xuất hiện để đón rước ngài.
4
Sự
thần bí bí ẩn nhất của đạo Phật
phương Bắc là: sự
phá sản.
Nếu
đọc về ngoại hình hay thần chú của sự
thần bí, xem những bức ảnh chụp về nó,
người ta sẽ hỏi: nghi lễ của sự
nhập định tinh thần cao cả tuyệt
đối này khác thế nào so
với chủ nghĩa Kannibalizmus( ăn
thịt lẫn nhau trong động vật học)? Sự
rồ dại-bản năng tự hủy diệt này khác
gì với việc đóng cọc hành hạ người
của thổ dân da đỏ?
Những
người da đỏ Nam Mỹ có một nghi lễ
như sau: cả làng uống chung một loại
rượu chưng cất riêng dành cho nghi lễ này rồi
bắt đầu nhảy múa, suốt đêm ngày, ngày
thứ nhất, ngày thứ hai, ai mệt mỏi lại
tiếp tục uống và tiếp tục nhảy múa.
Đến ngày thứ năm chỉ còn lại vài
người đàn ông, những kẻ khỏe mạnh
nhất còn nhảy múa. Lúc đó” quỷ” sẽ xuất
hiện, thày phủ thủy cùng các bộ hạ của
mình.
Những
người này dùng roi kết bằng lá dừa quật vào
những kẻ đang nhảy múa. Kẻ nào đau kêu oai
oái xin mời bước ra ngoài cùng sự xấu hổ.
Khi nào những kẻ nhảy múa thịt rơi tơi
tả, đến lượt những kẻ này nhận
lấy những chiếc roi lá dừa và quật lại
đám phù thủy cho đến lúc đám này cũng máu me đầm
đìa. Rồi lại đến lượt đám phù
thủy đánh, rồi đến những kẻ nhảy
múa. Sau cùng cả bộ lạc không còn sót lấy một
kẻ tỉnh táo: tất cả ngất lịm hoặc
ngủ vùi trong cơn say rượu trong các vết
thương đẫm máu hoặc hôn mê.
Sự phá sản cũng là một
loại nghi lễ như vậy, nhưng ở đây
rượu, điệu vũ, quỷ, phù thủy, roi
đều ở bên trong, xảy ra từ duy nhất trong
một con người.Đây
là phương pháp Tây tạng: tất cả đều
ở bên trong- đây là phép thuật bên trong, là nạn
hải tặc bên trong. Đại Lạt ma đứng
đó, đọc những lời thần chú trùm lên
người kẻ nhập định. Tung lực
lượng ma quỷ lên người đó. Và sức
mạnh bên trong, thứ gây ra nhiệt, thứ biến rau
tầm gai thành thịt, thứ tung ra ma quỷ từ tri
thức vào đời thực quả thật giống
hệt như đám phù thủy da đỏ ở Nam
Mỹ nhảy xổ vào kẻ nhập định.
Kẻ
đó ngồi kia, cảm nhận rõ ràng từng móng vuốt
của quỷ sứ. Cần phải dâng cho nó mắt,
mũi, tai,miệng, dạ dày, trái tim,
cần phải từ bỏ cảm xúc, ý nghĩ, kỷ
niệm- cần tháo bỏ tất cả từ cơ
thể những gì như một cơ hội của
hữu hạn. Cần phải đọc những lời
kinh khủng khiếp, trong đó kẻ nhập định
van xin được một mình ngồi trong sa mạc,
để những con đại bàng đến rỉa
tước từng súc thịt y ra khỏi xương.
Để
tất cả những gì hữu hạn sẽ trôi qua,
chỉ còn lại thứ mà ma quỷ cùng đại bàng
không giết nổi: CÁI TÔI TINH THẦN VĨNH CỬU.
Nghi
lễ Hy lạp Dionysus cũng không khác mấy. Cũng
giống như sự thần bí quất roi của đám
da đỏ nhảy múa. Là một giới tính của sự phá sản. Các thiếu
phụ giận giữ xé xác các con vật; giết chàng
Orpheus, chặt đầu và vứt xác chàng xuống sông.
Sự phá sản mang hai ý nghĩa:
một ý nghĩa trong tôn giáo nào cũng có, xé xác bứt
bản thân ra khỏi cái hữu hạn, dùng roi quất vào
lực lượng vật chất đời
thường, đóng đinh con người hữu hạn
cái Tôi đời thường lên thánh giá. Và một ý
nghĩa nữa không ở đâu có ngoài Tây tạng và Peru:
thử tìm cách bảo vệ sự trong lành toàn vẹn
của tri thức, khi nhận thức và sự tự
bảo vệ trong toàn bộ nỗi hóa thân khủng khiếp
bước qua ngưỡng cửa của GIỚI HẠN
LỚN NHẤT một cách có ý thức.
Sự phá sản là sự tha thứ
lớn nhất của Đấng GIỚI HẠN.
Người ta dâng cho ngài cái TÔI đời thường.
Đóng thuế, và được ngài tha thứ. Là thứ
thuế duy nhất Đấng GIỚI HẠN chấp nhận:
cái TÔI hữu hạn.
Sự phá sản là việc
bước qua giới hạn, là sự chết đi có ý
thức. Con người lãnh cái chết vào bản thân
bằng sự tỉnh táo toàn diện của ý thức.
Không ngất lịm, không suy sụp, không trốn chạy,
không thu mình lại và không gào thét.Ý thức hoàn toàn tỉnh
táo, như một tấm gương, không hề run rẩy
khi con người bước qua. Đấy là sự phá sản.
Và
tại đây tất cả đều quan trọng: sự
cào xé rách tả tơi, việc đóng thuế, hành
động bước qua ngưỡng, những gì xảy
ra đều quan trọng, và kẻ hành động,là
quỷ,là kẻ ăn thịt người( kannibal)là
cướp biển, là đạo sĩ, là kẻ
cướp, điều quan trọng đây là trận giao
chiến thần bí với ma quỷ, với quỷ dữ,
một cách có ý thức rằng tất cả là địa
ngục, là thiêng liêng và cao cả.
Nhưng
quan trọng nhất, kẻ nhập định ngồi
trước mặt Đại Lạt ma với đôi
mắt hé mở, giờ đây không còn gì đáng sợ
khiến nó phải run rẩy, không còn những ngất ngây
khiến nó say đắm, nó đã chịu đựng
mọi trận chiến, bị quất roi bởi ánh
mặt trời, bởi sự thất bại, bởi
dục vọng, lòng háo danh, bởi công danh, bởi cạm
bẫy, bởi tình yêu, giờ đây nó không cần ai và
bất cứ gì từ tất cả, nó đã đi qua toàn
bộ cuộc sống của con người, và đã
bước qua ngưỡng của giới hạn.
5.
Đêm
hè trên boong tàu, nằm ngửa có thể ngắm
được trời sao. Có năm vị tinh tú trên kia:
phía đông là Mặt trăng, trên đỉnh đầu là
sao Thổ, sao Hỏa, sao
Mộc, phía tây là sao Vệ nữ. Đã từ lâu
người ta nhận biết rõ về tính chất của
các vì sao. Sao Thổ tượng trưng cho sức mạnh
xung đột và hung hãn, sao Hỏa tượng trưng cho
quyền lực lành mạnh, sao Vệ nữ tượng
trưng cho sự giao thoa của cảm xúc trái chiều.
Khoa
học cười nhạo những tượng trưng
này, nhưng vô ích nhạo báng. Khoa học sẽ biến
mất, còn lại các tượng trưng. Tại sao?- vì nó
đúng. Nhưng đây không phải vấn đề
của đêm ngắm sao này. Con tàu bơi trong biển
đen kịt. Boong tàu trống rỗng. Bờ đã
mất hút. Trái đất được nhìn thấy
như là gì từ đằng kia? Trái đất này của
chúng ta, nơi ta sống, nó mang tượng trưng gì, tên
là gì nếu nhìn từ sao Hỏa, sao Mộc và sao Vệ
nữ?
Màu
của Trái đất nhìn từ bên ngoài chắc chắn
đỏ úa. Không phải màu đỏ của sao Thổ,
như một con mắt bị đâm. Không phải màu
như của sao Vệ nữ, óng ánh hồng nhạt và long
lanh hiền dịu. Không giống màu của sao Hỏa, mù
mịt sương khói, như ánh sáng của một
ngọn đuốc cháy rừng rực. Màu của Trái
đất là màu ngọc rubin đỏ, tựa máu
tươi vừa đổ, đỏ tươi cay
đắng và đau đớn, màu đỏ-ngọn roi
quất, màu đỏ-joga,màu đỏ-
Dionysus.
Buddha
đã từng dạy, tất cả là bể khổ, là
sự đau khổ. Dân da đỏ quất roi vào nhau
đến tứa máu dở sống dở chết. Giáo
sĩ Hồi giáo tự
vạch những đường dao lên đầu họ.
Milarepa sống bằng rau tầm gai bốn mươi
năm trong hang đá lạnh cóng. Bọn người
Kannibal nướng thịt người và ăn thịt
lẫn nhau. Lũ Titan xé xác Dionysus đến mức
thần Zớt phải nhặt chàng từ các mảnh
rời vụn.
Và không
có một dân tộc nào, quốc gia nào, bộ lạc nào, tôn
giáo nào của Trái đất đều không biết
rằng sự sống là đau khổ, là các lực lượng sức
mạnh xa lạ cào rách chúng ta, để chúng ta xé xác
lẫn nhau, bằng hận thù, bằng chiến tranh,
bằng sự ghen tỵ, máu chảy từ thân thể dân
da đỏ, từ tứ chi của Dionysus.
Ai
cũng biết về những cây cọc hành hình
người, về joga và các thần bí-Dionysus. Từ châu
Úc, đến Papua, từ dân da đen, đến Eskimo, Hy
lạp, da đỏ , Nhật bản,
Patagonia. Chỉ có một Thượng đế sống trên
quả đất- Thần Đất- Thượng
đế máu đổ- Thượng đế Đau khổ-
der leidende Gott- Dionysos, de
Gekreuzigte-ôi Nietzsche, Nietzsche, mi đã biết tất
cả những điều này?
Chúng ta
không mang lại quyền lực tốt đẹp lành
mạnh cho các hành tinh khác như sao Mộc, mang sự xung
đột như sao Hỏa, sự thống nhất như
sao Vệ nữ. Cái chúng ta mang cho các hành tinh: Thượng
đế Đau khổ. Đấy là ý nghĩa
tượng trưng của chúng ta. Từ đằng xa họ
gọi tên chúng ta như thế, và tên của chúng ta có
lẽ chỉ những kẻ nhập định có
quyền xướng lên, để sự thần bí nói
về những bí ẩn của một đời sống,
thứ đời sống chúng ta đang trải nghiệm.
Sự
phá sản? Yoga? Dionysus? Passion? Thượng đế Đau
khổ.
Cuộc
sống trên trái đất, nếu hoàn toàn và đích
thực, không phải niềm hạnh phúc, sự thỏa
mãn và tiện nghi thị dân. Và nếu ai mong muốn
hạnh phúc, sự thỏa mãn và tiện nghi thị dân,
người đó đánh mất chính sự toàn diện
của sự sống. Cuộc đời đích thực
của chúng ta là sự đau khổ.
Đấy là sự quý phái cao
cả của chúng ta. Là bản anh hùng ca. Là niềm hãnh
diện vũ trụ của chúng ta. Thượng
đế bị Đóng đinh là đẳng cấp
của Trái đất trong vũ trụ. Các hành tinh gần
gũi nhận ra chúng ta như thế và vì thế.
Điều này khiến chúng ta nên người, như
Heraclitus đã nói, vũ trụ giữ gìn chúng ta bằng roi
quật- pan herpeton plégé nemetai.
Chúng ta trở thành thượng đế, nếu một
cách có ý thức chúng ta xốc lên vai mình cây thánh giá.
6.
Con
người làm quen với đau khổ khi nhìn lũ súc
vật đổ mồ hôi hoặc bị thương, ngay
cả khi con người chưa nghiệm sinh sự đau
khổ. Hơi thở của nó đứt đoạn,
mặt méo mó. Con vật hỏi: Cái gì vậy? cái
gì xảy ra với mày? Mày đau cái gì?-
con người trả lời: mồ hôi của
mày, vết thương của mày đau, chẳng nhẽ
mày không cảm thấy điều đó sao? Con vật
trả lời: tao không biết.
Con
người là thực thể nhậy cảm nhất
với sự đau khổ, như Nietzsche từng nói. Nó
tìm kiếm sự đau khổ mỗi lúc thêm đa
dạng và sâu sắc nhất. Nietzsche cũng cho rằng
đấy là nhiệm vụ của nó: tạo dựng
những đau khổ mới cho bản thân và cho những
người khác, để trở nên xứng đáng
hơn với một đời sống cao cả hơn.
Con người đo lường ai biết gì và
rước lên mình được bao nhiêu. Nietzsche cho
rằng không còn nghi ngờ gì nữa đối với con
người hiện đại bản chất của
sự tồn tại là sự đau khổ. Và sự cao
cả quý phái của con người: gánh chịu số
phận của bản thân như đang có. Amor fati. Nietzsche là kẻ Ki tô giáo đầu tiên
của châu Âu.
Giờ
đây chúng ta đều biết:”Không có kẻ nào
bước vào cuộc đời một cách chín
muồi mà không biết và không
nhìn thấy: cuộc sống là đau khổ”-
„
Số phận của chúng ta thật khủng khiếp
đến nỗi phần lớn sức sáng tạo
của con người chỉ dành để hiểu ra: hãy
che dấu và lẩn tránh số phận này”
Nhưng
sự tự lừa dối tinh vi, các cuộc diễn
tập, các thủ đoạn, sự lừa gạt không
khoáng hậu đều không mang lại điều gì.
Sự đau khổ chỉ càng tăng lên. Cần tỉnh
táo nhận thức, cần tỉnh táo hoàn toàn, và lĩnh
lấy số phận của mình. Tượng trưng cao
nhất và mang tính chất người nhất của amor fati, của sự đau
khổ tỉnh táo và có ý thức là: Thượng đế
Đau khổ- là kẻ bị Đóng đinh.
Sự
đau khổ không vô nghĩa. Một phút giây đau khổ
duy nhất không vì bản thân nó. Và việc lĩnh đau
khổ vào thân không phải vì con người đã đau
khổ bởi dục vọng. Bởi vì nếu nó” thích
đau khổ” đi chăng nữa- nó cũng không phải
chịu đựng. Nó muốn được thêm hạnh
phúc. Vì nó vẫn còn là titán. Và trong trường hợp này
điều kiện của đau khổ là phép thuật,
dùng để tìm ra hạnh phúc. Nhưng phép thuật là
một hoạt động không được phép và vô
luật: là sự nỗ lực nổi loạn của titán.
Tất cả mọi phép thuật đều bị
cấm- trừ đúng một trường hợp.
Keyserling
cho rằng: tôi không lĩnh sự đau khổ của
số phận vào bản thân để thực hành sự
chịu đựng và lòng kiên nhẫn. Vì như vậy
đau khổ chỉ là một yếu tố tiêu cực,
thuần túy đạo đức, tóm lại chỉ là
đức hạnh. Tôi khoác lên mình sự đau khổ vì
sự xô đẩy bay lên trên cao. Nơi cao nhất: sự
toàn vẹn của hiện hữu.
Đau
khổ là Tổng thể và Sự thật của hiện
hữu, của Sự sống.
Bởi:”
Chỉ cái gì đau, mới bám chặt lấy con
người, tóm lấy toàn bộ con người, một con
người toàn diện”. Chỉ người nào đau
khổ tận cùng một cách không trốn tránh phần dành
đời dành cho nó, như Milarepa, mới có thể
bước vào sự sống Thượng đế.
Keyserling
là một nhà tư tưởng đầy trực giác,
nhưng ông không lường hết mọi sự việc.
Ông nhận ra đau khổ không vô nghĩa, và là trạng
thái duy nhất tóm gọn thực thể người toàn
diện. Nhưng nếu bằng sự đau khổ
mới trải qua hết sự toàn diện của
đời sống, kết luận này dối trá.
Trong con
người tự đóng đinh mình lên cây thánh giá sẽ
sinh ra LINH HỒN CUỐI CÙNG.
Đau
khổ là con ngựa nòi chạy nhanh nhất, Meister Eckhart
đã nói: đau khổ là con ngựa nòi của
Thượng đế cùng con người phi thần
tốc tới đích. Con người cưỡi trên con
ngựa nòi của Thượng đế sẽ phi
thẳng từ bản chất titán của LINH HỒN
ĐẦU TIÊN qua vực sâu biển thẳm tới
vương quốc sáng ngời của LINH HỒN CUỐI
CÙNG.
Ý
thức tự gánh chịu đau khổ, việc tự
đóng đinh bản thân lên cây thánh giá, cùng sự kiên trì
chịu đựng số phận cũng không thể
trở thành phép thuật, nếu chỉ để
đạt được toàn vẹn sự hiện
hữu. Nhưng LINH HỒN CUỐI CÙNG có thể trở
thành phép thuật. Mọi phép thuật đều bị
cấm, vì đều phù phép một cách vô luật
„Ô! giá như ta trút bỏ được phép
thuật, giá như ta có thể quên hết mọi lời
phù phép! Ô! Thế gian!- giá ta có thể trở thành con
người, chỉ khi đó mới sống xứng
đáng mà thôi”. Đúng thế, chỉ một phép thuật
duy nhất được phép tồn tại.
Không
phải phép thuật của sức mạnh, của sự
quyến rũ, của tri thức, mà chỉ của Tình Yêu
Thương. Và con người vô ích gánh chịu nỗi
đau khổ của số phận bất tận đi
chăng nữa, vô ích đóng đinh mình lên cây thánh giá,
nếu những điều này bắt nguồn từ
sức mạnh, từ tri thức từ các phép thuật
không được phép. Nó chỉ có quyền yêu
thương mà thôi. Bởi YÊU THƯƠNG là LINH HỒN
CUỐI CÙNG.
LINH
HỒN CUỐI CÙNG giữa các linh hồn là sau rốt và
tận cùng. Là đỉnh cao và tận cùng của thế
gian. Là đỉnh của núi. Đây là chiếc ghế
của nhà vua: VUA TĨNH LẶNG CỦA TÌNH YÊU
THƯƠNG. Kể cả đau khổ cũng phải
nhân danh ngài. Chỉ ngài mới chứng thực
được amor fati.
Chỉ tinh thần của ngài cho phép ta nhận lấy và
gánh vác cây thánh giá. Không có sự thỏa thuận của ngài
vẫn chỉ là đau đớn, buồn rầu, xót xa,
đồng cảm và cả sự kiên nhẫn cũng
đều chỉ là phép thuật, vô luật, không
được phép, thứ chỉ muốn đồ
cấm, bởi vì cái TÔI muốn.
Tất
cả những điều này, trong sâu thẳm, dưới
tận cùng, tận cùng dưới LINH HỒN CUỐI CÙNG,
bởi trung tâm của mọi linh hồn là cái TÔI,
chỉ TINH THẦN CỦA TÌNH
YÊU THƯƠNG nằm trong LINH HỒN CUỐI CÙNG.
LINH
HỒN CUỐI CÙNG không nhận biết về cái TÔI
nữa, ở mức độ như LINH HỒN
ĐẦU TIÊN không hề quen
với đạo đức, ngôn từ,cộng
đồng và cái đẹp. Nó hoàn toàn nằm trong sâu
thẳm, trong đáy sâu của biển, trong vô thức và
tranh đấu bằng sức lực của titán vì
một điều duy nhất nó cần: vì niềm hạnh
phúc.
LINH
HỒN CUỐI CÙNG từ bỏ mọi dạng vật
chất, ý thức, nghị lực, bản năng, khát
vọng. Nó vượt lên quá tự nhiên, cộng
đồng, con người, tri thức, chỉ rạng
ngời trong tình yêu thương mà thôi.
Ta
tự do chuốc lên mình đau khổ, kiên nhẫn gánh
chịu một cách có chủ ý, nếu TÌNH YÊU THƯƠNG
cho phép,và lúc đó con ngựa nòi của
Thượng đế sẽ phi nước đại
đưa ta đến vương quốc của LINH
HỒN CUỐI CÙNG.
Peru và
Tây tạng, hai mảnh địa dư cao vời vợi:
đó là giới hạn. Cả hai vùng đất này
giống nhau ở chỗ không cần kênh trung chuyển,
không cần giai đoạn tạo dựng, hai xung
đột lớn nhất của số phận con
người: LINH HỒN ĐẦU TIÊN và CUỐI CÙNG. đối diện với nhau. Đây là
sự đối diện của hai thái cực hoang dã
tận cùng: Titan và kẻ bị ĐÓNG ĐINH.
Đấy
là Peru và Tây tạng.
Nguyễn Hồng Nhung dịch từ nguyên
bản tiếng Hungary
( trích trong tiểu luận
triết học: câu chuyện vô hình)