Saturday, October 31, 2015

Thơ Nguyễn Tất Nhiên


VĨNH HẢO

Do tính cách đọc thơ hoàn toàn chủ quan như đã nói ở trên, xin bạn đừng xem đây như một thiên khảo cứu hay một bộ sưu tập về thi ca Việt-nam. Tôi đọc bằng cảm xúc, không đọc bằng kiến thức. Nếu những lời bàn nào đó của tôi đối với một bài thơ mà không đúng ý tác giả thì chẳng có nghĩa rằng tôi hiểu sai đâu, mà chỉ vì tôi đọc thơ tác giả đó bằng cái hồn, cái giọng, cái cảm xúc của tôi đấy thôi. Xin đừng càm ràm, phiền trách. (Vả chăng, này các thi nhân, các bạn có thể nào chỉ tôi làm thơ cách sao mà không bị người khác hiểu sai ý không?) (trích LỜI THƯA của Vĩnh Hảo viết cho các trang "Đọc thơ")

Thơ trích dẫn:

Nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên
(Đỗ Duy Ngọc vẽ)

Anh nổi tiếng rất sớm. Vì thơ anh đi sớm hơn bước chân còn ngại ngùng bỡ ngỡ của thế hệ trẻ thời ấy trước sự tràn ngập của văn hóa phương Tây, qua hình ảnh người lính viễn chinh Mỹ, và qua phong trào hiện sinh mô phỏng trễ tràng trên đất nước đói nghèo, chiến tranh. Anh mạnh dạn nói được tiếng nói của tình yêu tuổi trẻ với sân trường, kỳ thi, chiến tranh, mất mát, hoài vọng, tuyệt vọng... Chẳng phải sớm gì trong thể loại thơ, mà sớm trong phong cách biểu hiện. Anh dùng thứ ngôn ngữ của thời đại, rất hiện thực, không đẽo gọt; vậy mà thứ ngôn ngữ ấy bỗng nhiên mới, lạ, và được đón nhận nồng nhiệt. Bắt được giọng thơ tươi rói và đầy sức thu hút của anh, một nhạc sĩ tài danh phổ ngay thơ của anh thành nhạc, làm rung động bao trái tim cuồng nhiệt yêu đương thời chiến loạn. Vậy rồi thơ anh cất lên thành cơn sóng lớn, vượt bờ. Không ai mà chẳng biết thơ anh, không ai mà không hát nhạc phổ thơ của anh.

Hãy đọc một số bài thơ nổi tiếng được phổ nhạc mà ai cũng biết; và nên nhớ rằng lúc ấy, Nguyễn Tất Nhiên chỉ mới xấp xỉ ở tuổi hai mươi, để thấy cái tài hoa dị thường của anh:

Khúc Buồn Tình


1.

Người từ trăm năm

về ngang sông rộng

ta ngoắc mòn tay

... trùng trùng gió lộng

(thà như giọt mưa

vỡ trên tượng đá

thà như giọt mưa

khô trên tượng đá

có còn hơn không

mưa ôm tượng đá)


người từ trăm năm

về khơi tình động

ta chạy vòng vòng

ta chạy mòn chân

nào hay đời cạn!

(thà như giọt mưa

vỡ trên tượng đá

thà như giọt mưa

khô trên tượng đá

có còn hơn không

mưa ôm tượng đá)


người từ trăm năm

về như dao nhọn

ngọt ngào vết đâm

ta chết âm thầm

máu chưa kịp đổ

(thà như giọt mưa

vỡ trên tượng đá

thà như giọt mưa

khô trên tượng đá

có còn hơn không

mưa ôm tượng đá)


2.

thà như giọt mưa

gieo xuống mặt người

vỡ tan vỡ tan

nào ta ân hận

bởi còn kịp nghe

nhịp run vồi vội

trên ngọn lông măng

(người từ trăm năm

vì ta, phải khổ!)

(1970)

Trong tình yêu, thơ anh táo bạo vay mượn những hình ảnh thánh thiện để ví von mình, ví von người tình. Có thể nói lối vay mượn này là bước khai phá có một không ai của anh vào thời ấy, khiến thơ anh càng thêm phần đặc dị, ngời sáng, mà lại gần gũi biết bao với tâm tình giới trẻ.




Ma Sœur


đưa em về dưới mưa

nói năng chi cũng thừa

phất phơ đời sương gió

hồn mình gần nhau chưa?


tay ta từng ngón tay

vuốt lưng em tóc dài

những trưa ngồi quán vắng

chia nhau tình-phôi-thai

xa nhau mà không hay

(hỡi em cười vô tội

đeo thánh giá huy hoàng

hỡi ta nhiều sám hối

tính nết vẫn hoang đàng!)


em hiền như "ma sœur"

vết thương ta bốn mùa

trái tim ta làm mủ

"ma sœur" này "ma sœur"!

có dịu dàng ánh mắt?

có êm đềm cánh môi?

ru ta -- người bệnh hoạn

ru ta suốt cuộc đời

(cuộc đời tên vô đạo

vết thương hành liệt tim!)


đưa em về dưới mưa

xe lăn đều lên dốc

chở tình nhau mệt nhọc!


đưa em về dưới mưa

áo dài sầu hai vạt

khi chấm bùn lưa thưa...


đưa em về dưới mưa

hỡi em còn nít nhỏ

chuyện tình nào không xưa?


vai em tròn dưới mưa

ướt bao nhiêu cũng vừa

cũng chưa hơn tình rụng

thấm linh hồn "ma sœur"...

(1971)




Linh Mục


1.



dĩ vãng là địa ngục

giam hãm đời muôn năm

tôi -- người yêu dĩ vãng

nên sống gần Sa-tăng

ngày kia nghe lời quỷ

giáng thế thêm một lần

trong kiếp người linh mục

xao gầy cơn điên trăng!


2.

vì tôi là linh mục

không mặc áo nhà giòng

nên suốt đời hiu quạnh

nên suốt đời lang thang!


vì tôi là linh mục

giảng lời tình nhân gian

nên không có thánh kinh

nên không có bổn đạo

nên không có giáo đường

(một tín đồ duy nhất

vừa thiêu hủy lầu chuông!)


vì tôi là linh mục

phổ lời tình nhân gian

thành câu thơ buồn bã

nên hạnh phúc đâu còn

nên người tình duy nhất

vừa thiêu hủy lầu chuông!


vì tôi là linh mục

không biết mặt thánh thần

nên tín đồ duy nhất

cũng là đấng quyền năng!


3.

tín đồ là người tình

người tình là ác quỷ

ác quỷ là quyền năng

quyền năng là tín đồ

tín đồ là người tình

thiêu hủy lầu chuông tôi

(vì tôi là linh mục

giảng lời tình nhân gian!)


4.

vì tôi là linh mục

không biết rửa tội người

nên âm thầm lúc chết

tội mình còn thâm vai...

(1970)

Ðụng chạm, lôi kéo những biểu tượng linh thiêng, đưa vào thơ và đưa vào tình yêu đời thường. Vậy mà anh chẳng làm mất lòng ai. Người ta vẫn cứ thích thú ca hát lời thơ của anh:




Hai năm tình lận đận


1.

hai năm tình lận đận

hai đứa cùng xanh xao

mùa đông, hai đứa lạnh

hơi thở dài như nhau (?)


hai năm tình lận đận

hai đứa cùng hư hao

(em không còn thắt bính

nuôi dưỡng thời ngây thơ

anh không còn luýnh quýnh

giữa sân trường trao thư!)


hai năm tình lận đận

hai đứa đành xa nhau

em vẫn còn mắt biếc

anh vẫn còn nôn nao

ngoài đường em bước chậm

trong quán chiều anh ngóng cổ cao...


2.

em bây giờ, có lẽ

toan tính chuyện lọc lừa

anh bây giờ, có lẽ

xin làm người-tình-thua

chuông nhà thờ đổ mệt

tượng Chúa gầy hơn xưa

Chúa bây giờ, có lẽ

rơi xuống trần gian, mưa

(dù sao thì Chúa cũng

một thời làm trai tơ

dù sao thì Chúa cũng

là đàn ông... dại khờ!)


anh bây giờ, có lẽ

thiết tha hơn tín đồ

nguyện làm cây thánh giá

trên chót đỉnh nhà thờ

cô đơn nhìn bụi bặm

làm phân bón rêu xanh

(dù sao cây thánh giá

cũng được người nhân danh!)


3.

hai năm tình lận đận

em đã già hơn xưa!...

(1972)

Anh thoát ra khỏi những hình ảnh và ngôn ngữ thơ chắt lọc, sang cả quí phái của nền thơ truyền thống. Thơ anh, không cứ là trăng là gió, là bến nước, bờ mây, tóc thề và áo dài bay tha thướt, mái tranh, cây đa hay gốc chuối... (như thể là người thơ cứ suốt đời ở nhà quê, cảnh cũ!) mà thay vào đó là những hình ảnh rất thực của thị thành với "tóc demi garçon", tóc bím, cột điện, với xe đạp, cà phê, cà phê đá, rạp cải lương, nhà ga và toa tàu, mùa thi với văn bằng... Tự ví mình như là một gã ngông cuồng, là người phá phách, là người vô đạo, là sa-tăng ác quỷ... nhưng trên thực tế thì anh rất hiền, và trong tình yêu, thường là người thua cuộc, hoặc tự nguyện chịu thua cuộc. Trách người chỉ là trách nhẹ nhàng. Còn lại là trách mình.




Thơ tình của anh vì vậy mà phổ cập, mà thành của chung. Ai đọc cũng thấy, cũng nghe được nhân dáng và kinh nghiệm của chính mình trong ấy. Từ thứ tình yêu reo vui, nhảy múa theo nhịp chân của "cô Bắc-kỳ nho nhỏ" cho đến tình yêu của người tuyệt vọng... anh nói thay mọi người bằng thánh ca của tình yêu.




Nhưng đặc biệt là lúc khổ đau vì tình, thơ anh chùng xuống, gãy đổ, nát tan... và quả là anh đã đi thật sớm, trước thế hệ của anh, trong sự cảm nhận cũng như lối biểu đạt về tình yêu:








Thiên thu




sao thiên thu không là xa nhau?

nên mưa xưa còn giăng ngang hồn sầu

tôi đứng như cây cột đèn gẫy gập

và một con đường cúp điện rất lâu!




sao thiên thu không là chôn sâu?

nên nắng xưa còn hanh mái tóc nhầu

tôi đứng như xe tang ngừng ngập

và một họ hàng khăn trắng buồn đau!




sao thiên thu không là đường chim?

nên mây năm xưa còn trên tay phiền

tôi đứng như tường vôi luống tuổi

và những tàng xanh chùm gởi quê hèn!




sao thiên thu không là lãng quên?

nên tình xưa còn cháy âm thầm

tôi đứng như căn nhà nám lửa

và những người thân trốn chạy vội vàng!




sao thiên thu không là sương tan?

nên mặt trời xưa còn gượng huy hoàng

tôi đứng như dòng sông yên lặng

và những cánh buồm kiệt sức lang thang!




sao thiên thu không là thiên thu?

nên những người yêu là những ngôi mồ

tôi đứng một mình trong nghĩa địa

và chắc không đành quên khổ đau!

(1970)

Trong thơ lục bát, anh vẫn theo vần nhịp cũ nhưng lối diễn đạt rất là thảnh thơi, thoải mái, tự nhiên như nói chuyện. Ðây, vần lục bát của hơn 30 năm trước:




Nên thời gian ấy ngùi trông


giọt mưa xanh mấy tuổi nàng

tôi nghe lá rụng như vàng áo xưa


hơi tàn tro ấm lần đưa

ba năm khơi lại cũng vừa đủ đau!


sớm, trưa, chiều, tối, ra, vào

người chưa yên nỗi thầm xao xác lòng

nên thời gian ấy ngùi trông

khô như hạt bụi trưa ngừng ngập bay...


ba năm vuốt sợi tình dài

ừ, tôi còn vụng ngón-tay-dậy-thì

thuở nào sầu đã lâm ly

giờ thêm già héo (nhiều khi hận thù!)


lửa đom đóm mỏi mòn, lu

nhưng tôi cứ buồn vi vu thổi hoài


mưa thì mưa thả phai phai

rồi sau đó sẽ một vài tang thương

bởi quen cầm lược soi gương

biết ai ôm gối mộng thường lâu chăng?


giọt mưa xanh mấy tuổi nàng

tôi nghe lá rụng như vàng áo xưa...

(1970)




Hôm nay


khi không tình não nùng buồn

gót chân ai bỏ con đường nhớ nhung

gót chân ai nhẹ vô cùng

dẫm lên xác-lá-tôi từng tiếng kêu

gót chân ai bước, nhẹ hều

bước qua tôi, bước, hư nhiều thói quen!


khi không tình não nùng buồn

nhớ hôm qua vẫy tay ngừng ngập xa

tóc ai ngắn ngắn, như là

suốt đời chưa chịu thiệt thà chấm vai

suốt đời khét nắng rong chơi

kể như hơi hướm bàn tay tôi, thừa!


mừng em sớm biết lọc lừa

biết ngây thơ giả -- biết đùa với đau!


biệt ly dù ở ga nào

cho tôi ngồi một toa tàu lãng quên...

(1974)

Ðó là Nguyễn Tất Nhiên của tuổi hai mươi, với TÌNH qua tập Thơ Nguyễn Tất Nhiên; và bây giờ hãy đọc Nguyễn Tất Nhiên với TÂM qua Tâm Dung. Tập trước được xuất bản năm 1980 (gom lại những bài thơ cũ trước năm 1975 và một số ít cuối thập niên 70) khi anh mới vượt biên ra hải ngoại; tập sau được xuất bản 9 năm sau đó. Tựa tập thơ làTâm Dung, bao gồm nhiều bài thơ bắt đầu bằng chữ TÂM (như Tâm khai, Tâm sân, Tâm hoa, Tâm xuân, Tâm hồng, Tâm hương, Tâm mưa, Tâm sương, Tâm ca, Tâm cảm...)được chính tác giả mở đầu bằng một đoạn rất thâm trầm về tư tưởng Phật giáo, khiến người đọc có cảm tưởng là sẽ được đọc một tác phẩm về Thiền vậy:


"Dung, theo nghĩa dung chứa.

Năm lần Phật chỉ cho ngài A Nan, tâm là cái thấy.

Lấy cái thấy phân biệt để chỉ cái thấy vô phân biệt, lấy cái tâm vọng để chỉ cái tâm chơn, lấy ngón tay phàm phu để dụ như ngón tay Phật chỉ trăng. Kẻ trèo đèo này chỉ mong góp một cỏn con Phật sự, vọng động chăng?

Chỉ mong quí thiện hữu niệm tình: vọng mà biết mình vọng, còn hơn không."


Nguyễn Tất Nhiên

(Westminster, Ca. ngày 12/01/89)

Nhưng không. Dù mào đầu như thế, dù chọn lựa chủ đề và tựa đề như thế, thơ anh vẫn cứ là thơ, không phải là tập giáo nghĩa khô khan, cứng nhắc. Chỉ khác là anh đã chững chạc hơn (dĩ nhiên!), bớt bông đùa hơn, và trải đều lên những trang thơ là cõi lòng bát ngát của anh.




Tâm nguyệt


từ gót sen hài em hút dấu

sầu tôi như lá thẫn thờ bay

ví dù lá ngập đường em bước

lá cũng xin đừng bận gót ai...


từ mắt chia lòng sông cách núi

sầu tôi như bụi khắp không gian

ví dù bụi ố hoen màu trắng

bụi cũng xin đừng vương mắt xanh...


từ tóc bay xuôi dòng quá khứ

sầu tôi như bóng lặng lờ trôi

ví dù bóng đẳng đeo tròn kiếp

bóng cũng xin dòng tóc thảnh thơi...


từ hơi thở của không gian khác

sầu tôi như lịch nhẩn nha rơi

mỗi ngày thiên hạ hồn nhiên xé

lịch mới, như tờ-thương-nhớ-tôi!


từ hoa môi của bình minh khác

núi đồi vắng cả tiếng thông reo

chim thôi cười chúc mừng hoa lá

thành-phố-tôi già ho động cơ


từ vỡ, lành trăng lồng bóng nước

từ em là nguyệt lộng đời sông

từ tôi là một dòng tâm nguyệt

sông có trăng cười sông xóa trăng...

(06/01/1989)




Tâm duyên


1.

mùa hè anh lên núi

thấy tóc em lành nhiên

cười theo chiều, gió tối

trời đi vào giấc yên

cho sự sống duyên hiền

từng búp hoa huệ nhỏ

cho sự sống hương êm

từng thoảng hoa huệ thở

sự sống trắng tinh im

từng nụ quan-âm nở

im lặng là xin dâng

tặng đời bông hoa nữa...


mùa hạ anh ra đường

thấy mới tinh tất cả

thấy nắng nôi dịu dàng

đang vuốt ve cây cỏ

thấy cây cỏ dễ thương

đang làm duyên, tóc xõa

thấy lửa trời nung ngon

chín bòn bon sự sống

thấy sự sống nhịp nhàng

theo đỏ, vàng, xanh, đỏ...

thấy phố xá từ tâm đ

èn cười hoa ba đóa...

(17/01/89)

Rõ ràng là anh đã học ở đâu, từ những vật vô tri, từ người tình, từ cuộc đời, từ nỗi buồn đau, từ cơn thất chí, từ niềm tuyệt vọng, từ cơn bệnh tưởng, từ một nền đạo lý hun đúc tâm anh, hay từ tất cả những thứ trên: đức khiêm nhẫn và lòng tha thứ, chịu đựng vô cùng:




Tịnh khúc


buồn ơi...

tôi bỏ tôi chìm đắm

trong tiếng làm thinh của ghế bàn

ghế bàn không sẻ chia sầu thảm

nhưng biết làm thinh lặng cảm thông

bàn ghế đâu như người vui nhảm

tọc mạch đời nhau để miệng mồm

buồn ơi, tôi muốn như bàn ghế

chịu đựng đời không biết thở than!


buồn ơi...

tôi bỏ tôi tàn tạ

lạy đời xin một bận ngó lơ

lần té nặng này tôi muốn giữ

cho tim đừng hối hận trèo cao

lần té nặng này tôi muốn sống

buồn ơi, đừng giết chết tình nhau

buồn ơi, tôi muốn hôn đời sống

dù môi nhầu nứt nẻ thương đau!


buồn ơi...

tôi bỏ tôi ngây dại

có phải thu-bồn chở tóc ai

có phải lần run tay vuốt đại

là lần đời biết thứ tha tôi

có phải lần xin tay nắm... đại

là lần té gập dưới bàn tay?

buồn ơi, tôi muốn dâng đời sống

một đóa hồng đau đớn tuyệt vời!


buồn ơi...

tôi bỏ tôi rời rã

bất lực làm sao trước cuộc đời

ừ nhỉ, trước giờ tôi chiến đấu

cho niềm bất lực buổi hôm nay!

ừ nhỉ, bây giờ tôi mới biết

ghế bàn nên kính trọng như thầy

bàn ghế dạy tôi điều nhẫn nhục

dạy tôi bình thản thứ tha đời

bàn ghế có bao giờ bất lực

có bao giờ biết đợi trông chi

buồn ơi, tôi muốn như bàn ghế

thương đời như thể bỉ khinh thôi!


buồn ơi...

tôi bỏ tôi gần chết

tay đời bít lối chẳng ngưng tay

u đầu sứt trán lao vào vách

tội tình tôi sao nặng thế này?


buồn ơi...

trong đám đông tàn nhẫn

một người chứng kiến đủ cho tôi

nhờ ai, tôi đã thành tâm nhẫn nhờ ai,

tôi phục dưới chân đời

buồn ơi, tôi muốn như dòng lệ

cay đời như kẻ thích ăn cay!


buồn ơi...

tôi có tôi-bàn-ghế

nguyện hiến cho đời một tấm lưng

(13/01/89)

Ðiều anh học được, làm được, cũng cho ta học được. Một tấm lòng khiêm cung, khiêm nhẫn. Một tấm lòng bao dung, tha thứ, và trên hết, vẫn tiếp tục yêu thương con người, yêu thương cuộc đời.




Sau đây là bài Tâm Dung, bài thơ được lấy đặt tên chung cho tập thơ. Bài thơ được đặt ở cuối tập. Không rõ sau bài này, Nguyễn Tất Nhiên còn những bài khác chăng. Nhưng đọc xong bài này, tôi nghĩ đời thơ của anh đến ngang đây cũng quá đủ rồi. Không cần phải thêm một bài nào nữa. Ðây không phải là một bài thơ tuyệt tác của nền văn học nước nhà, mà là lời tỏ tình tuyệt vời của một tín đồ thuần thành của tình yêu, suốt đời chỉ tận tụy yêu, và tụng đọc bài kinh yêu. Sau đây là vài trích đoạn:




Tâm dung

1.

có thể nào trẻ thơ sống bên ngoài lòng mẹ? có thể nào anh sống ngoài tầm mắt em?

...


4.

vì người yêu thương trời đất cũng yêu thương, vì em đang ban phát yêu thương, vì anh cũng là thành phần muôn một của đất trời, nên cho dù em không hay không biết yêu thương vẫn thấm nhuần đều trên cuống đọt ngàn xanh dù em không biết không hay anh vẫn lan âm thầm khắp mặt địa cầu bất đồng khí hậu nhưng phải chăng em, nơi đá khô đất khó nào mà không diệp lục phải chăng em, đồng hoang man dã nào mà không có hoa chỉ tay em? vì em đang ban phát yêu thương nên anh khẩn xin là cọng cỏ được lần nào của chân em, tội nghiệp cho anh lòng còn ham muốn, tội nghiệp cho anh một đơn thân cỏ dại đòi chỉ riêng dành cho ngón ngón nhịp nhàng nhịp từng mỗi nhịp tim...


5.

tình yêu sao mà đau khổ với khổ đau, toại nguyện phải chăng là hạnh phúc? em lý lẽ gần nhau tình sẽ chết, vậy người ta sinh ra, sống, để làm chi?


6.

anh cô đơn ca hát vu vơ lời gì vô ý chỗ đám đông nơi con người dễ dàng phỉ báng kẻ điên khùng, ấy chết, anh chẳng thể viện lý do cuộc sống vắng em, dù em sẽ tin, nhưng thảm trải dưới chân có lời nào giải thích? dưới chân tình yêu, anh xin thành khẩn hứa chịu đựng ngang nhau hết thảy kẻ thân, thù.

.......


10.

anh muốn dụi tóc vào những ngón tay em cho hiện ra vài điểm bạc, cho thời gian đẹp phôi phai, cho sen lòng anh ngày mỗi thêm một đóa, cho hoa huệ hoa trang em đong đưa ngần ấy búp nhỏ đơm hương cho gió tình thơm tho không phân biệt chiếm hữu, tự do.


11.

mặt đất kia phù sa đắp bồi cho lúa no hạt mởn mơ bông, ruộng lòng anh đòng đòng tươm mắn sữa vì em là mưa hạ nắng đông là suối sông nguồn lượng cho rễ ngon khoáng chất trẩy hoa cành, vườn lòng anh xanh ngát tận chân trời vì em là yêu thương không phân biệt hoa nào là hoa hạnh phúc quả nào là quả đau thương.


12.

buổi sáng tinh khôi bừng mắt dậy thấy hoa lá không tên bóng động hình bên cửa sổ đùa gió vui sương, môi cười theo hồn nhiên nụ, hoa cười hay anh cười? trưa trưa rực nắng chan vàng đồng hướng dương hực vàng một cánh ngút ngàn chân mây, những nụ cười hàm tiếu tròn đầy, anh cười hay hoa cười? chiều chiều nghiêng nghiêng nắng dịu nghiêng nghiêng mình chào người và người chào đáp lại, người cười hay tim cười? buổi tối anh ngon lành êm ả ngủ, thở đều hòa nơi một kẽ ngón chân em, em thở hay anh thở...

(19/01/89)

Sau đó không thấy thơ Nguyễn Tất Nhiên nữa. Rồi một hôm, nghe tin anh mất. Trên chiếc xe cũ, đậu dưới bóng cây, trong vườn một ngôi chùa. Ðời anh, lúc nào cũng đi sớm hơn kẻ khác. Ðời không ruồng bỏ anh, cũng chẳng người tình nào ruồng bỏ anh (không ai có thể ruồng bỏ một người đáng yêu như thế! mà cũng chẳng ai có thể ruồng bỏ được một gã yêu tha thiết, yêu miệt mài, yêu thủy chung suốt đời như thế!). Chỉ có anh, tự ý đi thật sớm, rời bỏ cuộc đời, để lại một cõi thơ bát ngát. Không cần phải tội nghiệp cho anh, và đừng tưởng anh khổ đau cùng tận! Anh là kẻ hạnh phúc vô cùng tận với tình yêu bất diệt và tấm lòng bao dung hiếm có. Và thơ anh, đã hóa thân khắp nơi khắp chốn: là ngọn cỏ mềm, là gió mơn man, là dòng sông êm, là bàn ghế lặng thinh, là đất trời mênh mang vô hạn... Nơi đó, có đủ hương vị của tình yêu cũng như những hỉ, nộ, ái, ố... bình thường của một con người, dù là con người thi sĩ, hay văn sĩ. Nhưng tất cả đều được dung chứa trong một cõi lòng thật rộng.




Có thể nói, giới hạn giữa sống-chết, qua Tâm Dung ấy, không còn nữa.



Vĩnh Hảo

No comments: