CHỊ CỦA BỐ
Những dòng chữ
này hiện lên chẳng dễ dàng chút nào. Nó sẽ truyền
tải cả nỗi lòng tôi với một người chị
của bố tôi, không chỉ là những kỷ niệm, là
một ký ức, mà chính xác hơn nó là một nỗi đau
khắc khoải bao nhiêu lâu rồi tôi dấu kín trong tôi.
Nhưng sao hôm nay tôi
lại viết ra?
Có bao giờ bạn
tự hỏi ở đâu ra những giọt nước
mùa Xuân trong vắt long lanh trên những cánh hồng nhung tháng
Tư- mà người ta hay gọi là Hoa Hồng Phục
sinh? Đấy là nước mắt của mùa ĐÔNG, từng
chảy âm thầm dọc những thân cây trơ trụi,
cành khẳng khiu không một chiếc lá, những bộ
xương mùa đông run rẩy đợi nắng ấm
cùng chim hót gọi Xuân sang.
Nhiều năm
đã trôi qua, không phải để tôi biết quên những
nỗi đau của kỷ niệm, mà để tôi tự
luyện mình, nâng mình lên một tầng cảm xúc nào đó
cao hơn của nỗi thao thức người, để
một ngày nhìn lại mừng tủi thấy những giọt
sương long lanh của mùa Xuân chính là nước mắt
từng chảy dài của mùa Đông.
Thế đấy…
Bố tôi là con út
trong một gia đình nhà nho nghèo xứ Nam Định
xưa. Ông nội tôi là thày đồ dạy chữ,
nhưng cả bốn đứa con, ba cô con gái và một cậu
con trai duy nhất đều theo học trường Pháp ngữ.
Có lẽ vì thời thế. Không biết được.
Chiến tranh cùng với
những cuộc chia ly khiến bao nhiêu thế hệ trong
gia đình Việt nam không có lúc nào kể lể nổi với
nhau về những điều đã xảy ra với chính
các thành viên gia đình mình. Chỉ còn những mẩu hồi
ức chắp vá, ngẫu nhiên lộ diện do một vài sự
kiện nào đó.
Chúng tôi, những
đứa con của bố lúc đó chỉ biết rằng,
nhà mình có một cô, em bố đã mất, và hai bà bác đều
đang sống ở những xứ xa xôi. Bà bác đầu,
chị lớn nhất của bố theo chồng đi mộ
phu Tân Đảo, nghĩa là hiện giờ đang sống
ở Thái Lan. Bà bác thứ hai, như bố kể đẹp
nhất và giỏi nhất, trước năm 1975 sống ở
Sài gòn, một”xứ sở” ngay cạnh nhà mình nhưng lại
rất xa vì chẳng bao giờ có thể „vào đấy”
được. Sau chiến tranh, có thể vào Sài gòn thì bác
lại theo chồng, một người Pháp, về quê chồng,
Pari. Và thế là bố tôi và những người chị của
mình vẫn tiếp tục xa nhau như hồi còn chiến
tranh.
Trong gia đình, chỉ
tôi có khả năng gặp bác tôi cùng con gái và các cháu đang
sống ở đất Pháp. Nhưng…ai có thể học chữ
ngờ? Những kỷ niệm về những lần sang
Pháp gặp bác cùng con cháu là những giọt nước mắt
chảy ngược vào trong, để tôi giữ kín, không
muốn kể cho những người thân nơi quê nhà biết.
Có lẽ bản tính
tôi như vậy, trần thế chỉ là nơi tôi sống
để nhấm nháp những nỗi đau chứng kiến
và suy ngẫm, để hiểu ra một cái gì đấy
mà mình chưa hiểu. Giới hạn của nó ở
đâu? có lẽ không có giới hạn, bởi hiểu ra rồi
chỉ để lại suy ngẫm và hiểu ra tiếp những
điều khác. Để làm gì? Tôi - Chưa - Biết.
Đúng thế, vì sự
chưa biết này, trước hết, tôi muốn kể…
Ấn tượng lần
đầu tiên đặt chân đến nước Pháp
không mấy đẹp đẽ. Xe buýt chạy suốt
đêm, khoảng 6 giờ sáng vào đến Paris. Nghe tiếng
ồ lên cùng loạt, rồi sau đó có tiếng cười
khúc khích trong xe, tôi vội vàng ngó đôi mắt nửa nhắm
nửa mở ra cửa kính: cạnh một bức tường
dài bên đường, lố nhố những người
đàn ông úp mặt vào trong, đang…giữ khuy quần, nói một
cách văn vẻ „ như lũ đợi bị xử bắn”.
Cảm giác kinh ngạc về Paris nhiều lần lặp lại
trong chuyến đi đầu tiên đến đất
Pháp của tôi.
Bác tôi ở trong một
khu tập thể xây hình chữ U, ở giữa là một
cái sân chung, người ta giăng lên đấy một tấm
lưới dúm dó, sau này bác tôi bảo: để hứng tất
cả những gì từ các tầng trên liệng xuống, để
đừng rơi vào đầu người qua lại.
Tôi ngạc nhiên lắm-đất
nước của Stendhal - thần tượng duy nhất
trong văn học Pháp của tôi?
Tôi nhớ, khi cửa
phòng mở ra tôi hơi nghẹn ngào khi nhìn thấy bà bác mình
đã từng gặp cách đây nhiều năm trước
ở Hà nội. Đấy là lần duy nhất bác về
quê nhà sau chiến tranh để thăm bố tôi, sau bốn
mươi tám năm hai chị em mới gặp và ở
cùng nhau một tháng. Lúc đó bác tôi đã hơn tám chục
tuổi còn bố tôi hơn bảy mươi, lúc đó bác
tôi vẫn khỏe dù đôi chân yếu. Còn bây giờ, bác tôi
đã phải ngồi xe lăn.
Tôi nhớ, tôi
chưa kịp nói gì đã thấy bác cười, tôi tưởng
nhìn thấy bố mình, vì hai chị em vô cùng giống nhau, vừa
cười xong, bác đã bật khóc, không cần đợi
tôi kể về đám tang của bố tôi. Rồi hai bác
cháu dụi vào nhau rơi nước mắt. Đúng lúc
đó, chị họ của tôi từ phòng trong bước
ra. Tôi chưa bao giờ gặp người chị họ
này, nhưng được nghe kể nhiều về chị,
một người đàn bà giỏi giang, học trường
Pháp từ bé, lớn lên đi làm việc, rồi buôn bán với
người Pháp, người Mỹ ở Sài gòn. Sau chiến
tranh, chị „rút” nhiều của cải trong cái gia tài „hoành
tráng” của mình để „đút lót” và đưa
được toàn bộ gia đình, năm đứa con
cùng ông chồng sang Pháp, lúc đó mẹ chị, bác tôi, sau một
cuộc du lịch châu Âu ngẫu nhiên xảy ra trước
sự kiện 1975, đã ở Paris. Tôi còn được
nghe mẹ kể, bố tôi đặc biệt không ưa
người chị họ này, vì nhiều lý do nhưng tôi
không nhớ, vì lúc đó quả thực tôi nghe với cái tai
lơ đễnh.
Chị họ tôi
bước ra, nhìn tôi chằm chằm, sau này chị bảo:
chị muốn xem người sống ở xứ Cộng
sản nó ra sao? May cho chị, tôi luôn luôn là một đứa
lơ đễnh với tất cả môi trường xung
quanh, tôi chỉ quan tâm đến những gì đang „lộn
nhào” trong đầu mình. Tôi chào chị xong, quay lại bác
tôi và lập tức hỏi về những điều tôi
đang muốn biết nhất. Tôi muốn biết về
ông bà nội của tôi, về bố tôi khi còn nhỏ, về
những anh chị em của bố. Tôi mở cặp, lấy
giấy ra, ngồi ngay dưới chân bác tôi và ghi chép. Bác
tôi nói rất nhiều. Người chị họ đứng
sững một chỗ chằm chằm nhìn chúng tôi. Rồi
tôi bất chợt buông bút, khi chợt nhận ra bác tôi
đang nói lộn xộn, điều trước”mắng”
điều sau không thương tiếc, bác tôi đã bắt
đầu nhầm lẫn chăng?…
Thấy vậy, chị
họ tôi như chợt tỉnh, chị lôi tôi vào phòng, vừa
thương hại vừa thông cảm, chị bảo tôi:
đấy, bác có nhớ gì đâu, em đừng hỏi nữa,
rồi chị nói cho em biết sau, bây giờ…
Chị đang định
sắp đặt chương trình thì chuông cửa reo, chị
ra mở. Một thanh niên người Pháp bước vào, té
ra đây là con của một người bạn của bác
tôi, thường hay đến giúp bác tôi, vì bác tôi sống một
mình ở Paris, chị họ tôi cùng cả gia đình sống
ở một thành phố miền Nam nước Pháp. Nghe tin
tôi đến Paris thăm bác, chị mới đến
để gặp tôi.
Họ nói gì với
nhau bằng tiếng Pháp, rồi chị tôi hét tướng
lên, rồi cửa mở, chàng kia bước vội ra, rồi
cửa sập, và chị họ tôi quay lại, bảo tôi:
thằng này nó đến để bòn tiền của má chị
chứ giúp gì đâu, đấy….-chị kể lể. Nghe
vậy, bác tôi lên tiếng, hai người bắt đầu
nói tiếng Pháp với nhau. Tôi bèn bảo chị tôi muốn
xuống phố dạo chơi vài phút, rồi tôi sẽ lên
ngay.
Lúc đó, trời mới
bắt đầu xuân, vẫn se se lạnh. Tôi bước chậm
rãi trên phố, nhận ra những nắp cống quen thuộc
ở mỗi đầu đường hoặc cuối
đường, như ở Hà nội. Và những khu
vườn be bé được khoanh lại bằng hàng rào
ở nhiều góc phố chợt làm ký ức tuổi
thơ Hà nội của tôi thức tỉnh. Phải rồi,
hồi tôi còn bé xíu, Hà nội cũng đã từng có những
hình ảnh này. Nhớ luôn đến mấy cuốn từ
điển hoặc bách khoa toàn thư gì đó của bố
bằng tiếng Pháp, với rất nhiều kích thước
khác nhau, mở ra có thể ngắm không bao giờ chán mọi
hình ảnh bên cạnh những dòng chữ bé ti, trên những
trang giấy bóng mực, mỏng đến kỳ lạ và
dai đến kỳ lạ…
Đi ngang một cửa
hàng, tôi tò mò nhìn vào trong, đây là một cửa hàng thịt,
người ta vừa đặt một con gà luộc trên
chiếc khay lên quầy kính, bên trái bán thịt đã nấu
chín, bên phải bán thịt sống. Đúng lúc tôi liếc
vào trong, một người khách bước vào. Tấm
lưng ông ta che khuất nên tôi không biết ông ta làm gì, chỉ
nghe thấy một tiếng hét thất thanh, một tràng (chửi
rủa- chắc thế) rồi một bà bán hàng chạy ra,
đấm thùm thụp vào người đàn ông, lúc này
đã quay ra cửa, trong tay cầm con gà luộc, ngoạm lấy
ngoạm để, mặc kệ (lúc này) đã thêm một
bà bán hàng khác cũng chạy ra, cùng bà kia vừa đấm
vừa chửi tiếp.
Tôi vội nép sang một
bên nhường đường cho người đàn ông
vô gia cư, lúc này đã nhìn rõ ông ta là như thế, cảm
thấy tắc thở vì sửng sốt trước cảnh
tượng bất ngờ. Ôi Paris, ôi nước Pháp, ngày
đầu tiên ở xứ sở của những Vitor Hugo,
Maupassant nghe quá nhiều tiếng hét và xem những cảnh
tượng kinh ngạc.
Khi tôi quay về, chị
họ tôi bảo, hôm nay chị sẽ đưa tôi đi
xem Paris một chút, đợi con trai chị lên đón, chiều
tối mọi người sẽ đưa bác tôi và tôi về
thành phố phía nam nước Pháp, nơi gia đình chị
đang sống.
Dạo chơi Paris với
một người than phiền nhiều hơn là vui sướng,
một kiểu người, như thời sinh viên chúng tôi
hay gọi: ” tất cả quy ra thóc”- quả thật chả
sung sướng gì. Nhưng tôi là một đứa nhẫn
nại, tôi có thể bình thản chịu đựng tất
cả những gì xảy ra với mình bằng đôi tai
lơ đễnh vốn có, nghe, nhưng không hiểu gì hết.
Và tôi bắt đầu lờ mờ hiểu tại sao bố
tôi không ưa thích người chị họ này, khi họ gặp
nhau sau chiến tranh.
Chiều, chúng tôi quay
về thành phố gia đình chị họ tôi ở. Các con
chị đều đã lớn, đầy đủ công
ăn việc làm, đứa nào ở nhà đứa nấy,
chỉ còn chị và chồng chị, một người
đàn ông thấp bé hay cười hiền lành, sống
trong một căn nhà vườn lớn. Chị bảo bác
tôi không bao giờ thích sống cùng chị, sau khi chồng
bác, một người Pháp, không phải là bố chị họ
tôi, mất, bác nhất định vẫn sống một
mình ở Paris. Nhân dịp này, nhờ có tôi sang thăm, chị
mới” bứt” được bác ra khỏi sự
khăng khăng ấy.
Kỷ niệm về
những ngày ngắn ngủi sống bên cạnh bác tôi trong
căn nhà của người chị họ, nhiều khi tôi
không muốn nhớ đến nữa. Tôi không muốn gợi
lại cho mình cảm giác xót xa khi nghĩ đến hình ảnh
bác tôi, người đàn bà già có khuôn mặt đẹp với
những đường nét quý phái, rất hiểu biết,
rất thông minh, ngồi xe lăn chỉ vì đôi chân già yếu,
nhưng cái đầu vẫn tỉnh táo, hài hước, dù
đôi khi tuổi già làm bác nhớ nhầm cái nọ sang cái
kia.
Đặc biệt,
bác thuộc rất nhiều thơ, bởi vì bác cũng là
người làm thơ. Khi bác về Hà nội thăm bố
tôi lần duy nhất, sau bốn mươi tám năm hai chị
em từng kẻ Bắc người Nam, mới gặp
nhau, bác ở nhà với bố mẹ tôi một tháng. Tôi nhớ
sáng nào bố tôi cũng dậy thật sớm, quần áo
chỉnh tề, pha trà sẵn, đợi chị mình „làm
xong mọi thủ tục” để sau đó hai chị em
bắt đầu bình thơ của nhau, nói chuyện
văn thơ với nhau ríu rít mãi không dứt, những buổi”tinh
thần lên tiếng” ấy mẹ tôi không bao giờ tham dự,
còn tôi, đã quan sát bác và bố mình rất nhiều, rất
lâu với tất cả lòng ngưỡng mộ và trìu mến.
Trong những ngày ở
nhà người chị họ với bác, tôi thỉnh thoảng
nhận ra những đám mây đen của năm tháng
đã trôi qua cùng nhau của họ xuất hiện, thoảng
qua trong một câu nói, một lời trách, hay một than vãn
chung chung giữa các câu chuyện. Tôi bắt đầu hiểu
những rạn nứt vô hình giữa những người
thân với nhau thật tinh vi và nhỏ bé, như những vệt
rạn chân chim lờ mờ trên những bức tường
nhìn xa xa thật vững chãi và bình yên.
Vài năm qua đi,
chị họ tôi viết thư bảo tôi sang Pháp vì bác tôi
chắc không qua khỏi, đang nặng lắm, em sang ngay…
Chị họ tôi
đưa tôi đến một nhà dưỡng lão nằm
dưới chân một dãy núi. Vừa lái xe chị vừa giải
thích cho tôi nghe con đường tất yếu từ nhà
chị dẫn đến nhà dưỡng lão của bác tôi
ra sao. Đôi tai tôi đột nhiên lại trở nên lơ
đễnh một cách tự thân, nó nghe nhưng không hiểu
gì hết.
Chúng tôi lên tháng máy, rồi
bước vào một căn phòng trắng muốt có hai cái
giường, một giường trống (người ta
vừa chuyển một cụ đã mất đi – chị
bảo) và giường kia, bên cửa sổ, là của bác
tôi. Ngập căn phòng là tiếng mõ gõ cùng tiếng tụng
kinh phát ra từ một cái cassett nhỏ để trên bàn
đầu giường. Trên giường, tôi xót xa nhìn một
bộ xương phủ chăn kín thì đúng hơn là một
người, hai mắt nhắm nghiền, nét khắc khổ
hằn trên khóe môi mỉm chặt.
Tôi thấy buốt lạnh
trong ngực. Tôi không nhận ra bác tôi. Nhưng phía chân
giường, trên tường, là ảnh bố tôi và bác
đứng ở hiên một ngôi chùa Hà nội, cả hai nắm
chặt tay nhau, cười rạng rỡ. Cái giây phút tinh thần
văn chương hạnh phúc của hai chị em!
Tôi đến bên bàn,
tắt băng cassett, nắm tay bác, bàn tay lạnh ngắt,
tôi nói điều gì đó với bác, bác tôi mắt vẫn
nhắm nghiền, bất động. Tôi bảo chị họ
tôi thu xếp thế nào đó để tôi được ở
lại trong căn phòng này với bác. Chị họ tôi
hơi ngạc nhiên, nhưng cũng làm như tôi muốn.
Người ta mang chăn đệm để lên chiếc
giường trống và dọn dẹp. Tôi cùng chị họ
bước ra ban công, nhìn xuống dưới vườn.
Một thiên đường yên tĩnh và sạch sẽ, cả
khu nhà này, khu vườn tràn ngập hoa và dãy núi uốn
lượn mờ ảo xa xa…
Chị họ tôi giải
thích: em biết đấy má chị và chồng chị không
ưa nhau. Ngày xưa má chị cấm anh ấy lấy chị,
chê anh ấy. Em biết đấy, má chị không giống
người ta…em biết đấy…
Té ra chị đã
đưa bác tôi vào nhà dưỡng lão sau khi tôi về không
lâu. Nhưng tại sao bất ngờ bác lại ốm nặng
thế? Mới đây chị viết cho em là bác vẫn khỏe
cơ mà?- Tôi gặng hỏi. Mãi, chị tôi mới nói: vì chị
muốn về VN nửa năm, chị cần phải về
vì chuyện nhà cửa, chị nói với má chị, thế
là bả bắt đầu nằm, không chịu ăn uống.
Chiều hôm đó,
còn lại một mình trong phòng với bác, tôi vừa nói chuyện
vừa bắt đầu xoa bóp chân tay bác tôi, để bàn
tay bàn chân bác bắt đầu nóng lên, tôi lật cho bác nằm
nghiêng người, chặn gối để bác tôi duỗi
chân. Tại sao tôi lại làm thế? vì khi quan sát hai người
hộ lý buổi trưa vào thay vải trải giường
cho bác, tôi thấy họ làm rất nhanh, phối hợp rất
nhịp nhàng nâng lên hạ xuống, đưa vào giường
đặt xuống giường một người nằm
xiên xiên, chân nọ xéo lên chân kia, làm sao có thể nằm lâu
như thế nổi? Lủng lẳng sát đầu giường
là một sợi dây để người nằm có thể
tự mình đu ngồi dậy. Ngắm sợi dây, tôi
đột nhiên thấy chua xót.
Đêm hôm đó, tôi không
muốn ngủ, tôi thì thầm chuyện trò với bác, bóp
chân bóp tay, lật người bác sang phải sang trái, lấy
khăn lau mặt bác bằng nước ấm. Gần
sáng, tôi mới thiếp đi một chút, rồi bừng tỉnh,
tôi chạy ngay sang giường xem bác tôi ra sao. Thật không
ngờ, điều kỳ diệu đã đến: tôi
không tin ở mắt mình khi thấy bác tôi mở mắt,
nhìn tôi và mỉm cười.
Tôi nhớ tôi đã
định gặng hỏi khi chị họ tôi vừa
đến, rằng bác đã không dậy mấy ngày rồi?
nhưng khi nhìn thấy chị, tôi biết không quan trọng
bất kỳ câu hỏi nào, tôi sẽ lại lơ đễnh,
lại tự nhiên không hiểu cho mà xem. Bởi vậy, cho
đến tận khi ra về, tôi không hề hỏi chị
thêm điều gì nữa.
Chị mang theo mấy
đứa con đến thăm bà. Tôi đã đỡ bác
tôi ngồi lên, dựa người vào những chiếc gối
to tôi đặt sau lưng, khuôn mặt chỉ toàn
xương hốc hác của bác dịu lại bởi nụ
cười móm mém. Thay quần áo xong quay lại, mọi
người đã cho bác tôi đã ăn gần hết quả
chuối, bác tôi giơ tay ra hiệu muốn được
gội đầu, tắm. Tôi không bao giờ nghe thấy giọng
nói của bác nữa, tại sao bác mất giọng và từ
bao giờ? tôi cũng không hỏi chị họ tôi nữa.
Trước bữa
trưa, bác tôi đã tóc sạch người gọn trong bộ
quần áo mới, ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế
lăn phủ kín chăn, được đẩy ra ngoài
hành lang, ngồi giữa tôi, chị họ tôi và mấy
đứa cháu của bác. Bác đưa cặp mắt vui vẻ,
miệng cười tươi tỉnh nhìn hết người
này sang người kia, không còn chút dấu vết gì của
cái hình người bất động mắt nhắm nghiền
nằm trong giường hôm qua. Rồi những đứa
cháu ra về, bác chỉ tay ra hiệu, tôi hiểu là bác muốn
ra vườn. Chị họ tôi ngần ngại, rồi
cũng mang áo khoác của bác đến. Chúng tôi phủ kín
chăn, áo, khăn lên người bác, xuống thang máy,
đẩy xe ra vườn.
Bác tôi giơ tay ra hiệu
đến một chỗ, chắc một nơi quen thuộc
đối với bác, để xe dừng lại. Tôi đứng
cạnh chiếc xe lăn, nhìn thẳng về phía trước,
chợt hiểu tại sao bác tôi ra hiệu muốn đến
đây: phía trước là dãy núi đẹp tuyệt trần,
mây mù vương vất bay trên đỉnh, trên triền núi
xanh ngắt một màu ẩn hiện thấp thoáng dưới
làn voan mây trắng. Ôi, thiên đường, thiên đường
của những nỗi nhớ và những nỗi đau…
Bác tôi cứ ngồi
bất động trân trân nhìn về núi như thế, tôi
đứng bên cạnh, cũng trân trân lặng im, rất
lâu, mặc những lời giục giã sốt ruột của
chị họ tôi. Chị họ tôi lúc nào cũng nói rất
nhiều, về đủ mọi chuyện, phần lớn
là những lời than vãn hoặc bực bội, không vừa
ý về một cái gì đó, tôi không bao giờ hiểu đấy
là những điều gì vì quả thực tôi không hề
chú ý.
Không phải tận lúc
đó tôi mới”kỳ lạ” như vậy: bên ngoài vẫn
sinh hoạt, sống như tất cả mọi người,
nhưng bên trong thực ra tôi không hề để ý đến
điều gì hết. Có những nỗi đau âm ỉ, những
nỗi buồn quằn quại vô hình bên trong choáng ngợp
hết tâm trí tôi, dẫn dắt mọi suy nghĩ xúc cảm
của tôi đi vào những con đường cũng …vô
hình, vì chẳng bao giờ tôi thổ lộ hoặc viết
chúng ra. Tôi cứ sống vừa câm lặng vừa hoạt
động một cách hết vô thức như thế trong
rất nhiều năm, ngày mỗi trầm trọng hơn,
sự kỳ lạ đó.
Hoàng hôn bắt đầu
xuống, chị tôi không chịu được nữa, dứt
khoát đẩy xe quay về. Tôi cúi xuống vỗ về,
giải thích với bác, dù ám ảnh bởi ánh mắt nhìn về
phía dãy núi của bác tôi, một ánh mắt nhìn buồn bã và
trân trân lặng ngắt.
Chị họ tôi vội
vã ra về, còn lại tôi và bác, nhưng bác nhất định
không chịu nằm vào giường, bác chỉ tay lên trần
nhà ra hiệu. Sau rất nhiều loay hoay, tôi mới hiểu
được các cử chỉ ra hiệu của bác. Té ra,
trên tầng cao nhất của khu dưỡng lão, còn một
cái phòng nhỏ, một ông già người Việt sống ở
trên đó.
Theo thang máy tôi đẩy
xe bác lên tầng tận cùng, gõ cửa căn phòng duy nhất
ở đó. Một ông già trông còn khỏe mạnh ra mở
cửa, mừng rỡ nhìn thấy bác tôi và tôi. Trong phòng
đồ đạc bầy biện đủ mọi tiện
nghi, như trong một ngôi nhà bình thường, chứ không
phải như các phòng gác dưới. Ông già lấy nước
trà đường nóng cho chúng tôi uống, rồi lập tức
mở tủ, tìm kiếm và lôi ra một đống băng
video ca nhạc đặt vào lòng bác tôi. Nụ cười
tươi tỉnh lại xuất hiện trên khuôn mắt
xương xẩu của bác, khiến tôi hiểu ngay, những
thói quen tiêu khiển thời gian của hai người già
này khi gặp nhau là gì.
Bác tôi run rẩy tìm một
băng video, tôi đưa cho ông già, ông mở dàn máy, bấm
nút, và khi những câu cải lương đầu tiên cất
lên, bác tôi ngồi thẳng người lên từ đống
chăn, gối, giơ hai bàn tay gầy võ chỉ còn toàn
xương lên, múa. Bác hết quay nhìn màn hình, rồi lại
quay sang nhìn tôi, đôi tay khuơ khuơ run rẩy trong không
gian, hình ảnh này chỉ sau này mới làm tôi lạnh buốt
lồng ngực khi nhớ đến, chứ tôi nhớ lúc
đó, tôi vui lắm. Tôi bật cười vì thấy nét trẻ
thơ quay lại trong sự vụng về, và tôi vui vì thấy
bác tôi vui lắm, bác lắng nghe tiếng hát, tiếng
đàn chăm chú, nhìn chằm chằm vào màn hình, không để
ý gì đến câu chuyện của tôi với ông chủ nhà.
Té ra thời còn trẻ,
ông già này (mà tôi đã quên mất tên) từng đi lính lê
dương cho Pháp, sau khi hòa bình lập lại trên miền
Bắc VN, ông sang Pháp. Hai người vợ Việt của
ông là hai chị em ruột, ông lấy cô em sau khi cô chị mất,
rồi sau khi cô em cũng mất nốt, ông bán toàn bộ
tài sản nhà cửa xin vào sống ở nhà dưỡng
lão. Trong nhà ông vô cùng nhiều đồ đạc, chồng
chất lên nhau, có cả tượng Chúa lẫn tượng
Phật cùng một chỗ trên một góc thờ, và ảnh
hai bà vợ.
Tôi nhớ tối hôm
đó quay về phòng, bác tôi vui lắm. Vẫn không nói
được lời nào, nhưng bác mỉm cười suốt
với tôi, khi tôi lại bóp tay bóp chân, xoa người, lật
trái lật phải cho bác nằm. Có lúc tôi lấy cuốn
album mang theo mở ra chỉ từng người trong ảnh
cho bác xem và nói với bác đấy là ai trong gia đình. Tôi
đã rón rén cho cái cassett vào ngăn kéo, chẳng hiểu sao
tôi không muốn bác nhìn thấy.
Hôm sau chị họ
tôi đến, tôi bảo chị: em muốn chị mang một
cái tivi và một đầu xem video vào đây, được
không? để cho bác xem vì bác thích lắm.
Tôi hỏi chị:
trước khi em đến đây chị nói với má chị
bao giờ chị về nước? Chị bảo: ba tháng
nữa. Tôi đề nghị: bây giờ chị đi đổi
vé máy bay được không? Rồi chị mang đến
đây cho bác xem là chị không về nữa, bác sẽ mừng
lắm đấy. Chị làm được không? Chị họ
tôi im lặng.
Chị đưa tôi
về nhà chị một lát. Tôi bắt gặp chồng chị
đang đi đi lại lại trong bếp, miệng lẩm
bẩm gì đấy bực dọc. Tôi bước vào chào,
anh không nghe thấy, anh vẫn tiếp tục đi đi lại
lại lẩm bẩm, tôi nghe một câu rơi xuống: lúc
đầy đủ họ hàng rồi lại còn không chịu
đi…
Bữa sáng hôm sau, tôi
đẩy xe đưa bác xuống phòng ăn, phết
bơ, mứt, đưa nước trà cho bác uống. Bác
tôi rất cố gắng ăn như đáp lại sự
ân cần của tôi, tôi đọc được sự cố
gắng ấy trong run rẩy, cũng như tôi cũng run rẩy
cố gắng che dấu những cảm giác buồn
trĩu nặng của mình. Tôi biết rằng mình sẽ
không đảo ngược được bất cứ
cái gì hết, mọi số phận đã an bài, ai sống với
ai trong một kiếp, mối quan hệ nào, với ai, ra
sao, dường như đã được ghi sẵn ở
đâu đó trong cõi vô hình. Phải chăng?
Chị họ tôi mang
một cái tivi và đầu máy xem video đến, cùng nhiều
tập băng video. Người ta mang đến một
cái bàn, kê sát tường phía chân giường, bác tôi có thể
ngồi dựa lưng vào gối để nghe hát và xem múa,
đôi tay gầy guộc lại giơ lên múa theo, cùng nụ
cười vui sướng nở trên khuôn mặt nhăn
nheo xương xẩu…
Sau này, nhận tin bác
tôi mất, tôi nhẩm tính thấy bác đã ra đi trước
ngày con gái bác bay về quê nhà khoảng chưa đến một
tuần.
Một lần về
nước, mẹ tôi đưa cho tôi xem tập ảnh chụp
đám tang bác tôi bên Pháp mà chị tôi đã mang về. Hoa hồng
rải trên nắp quan tài, các nghi lễ nhà chùa… tất cả
không thiếu thứ gì, trang trọng, đẹp, lịch sự
trong ảnh.
Còn tôi, không bao giờ
nói một lời, với bất cứ ai, về những
gì tôi đã trải qua trong những ngày ấy.
Tôi vẫn biết,
chỉ có những câu chuyện vô hình không kể là đáng kể
mà thôi.
Nguyễn Hồng Nhung
( Bp. 2014.04. 17)
nguồn : Ăn mày văn chương (amvc.fr)