TIẾC THƯƠNG SIMON LEYS
Chân Phương giới thiệu và dịch
Sự ra đi của Pierre
Ryckmans ( bút danh Simon Leys) vào ngày 11-8-2014 là một mất mát khó
bù đắp trong giới học giả quốc tế về Trung Quốc và văn hóa Trung
Hoa. Sinh ở Bruxelles năm 1935, ông bắt đầu quan tâm đến TQ sau lần viếng
thăm đầu tiên và được tiếp kiến Chu Ân Lai năm 1955 . Sau khi lấy tiến
sĩ luật học và lịch sử mỹ thuật tại đại học Louvain, quyết chí
theo đuổi sở nguyện ông sang Đài Loan để học chuyên sâu về văn học và
mỹ thuật Trung Hoa - Đại Lục TQ lúc ấy không có chính sách thu nhận
sinh viên phương Tây - rồi lấy vợ là dân Đài Loan. Năm 1968 ông sang Hương
Cảng giảng dạy tại Hong Kong University, vừa làm dịch giả cho phái bộ
ngoại giao Bỉ để kiếm thêm thu nhập vì sinh hoạt nơi đây quá đắt đỏ.
Sự tình cờ lịch sử vừa là định mệnh học thuật đối với Simon Leys
đã diễn ra trong thời gian ấy; đó là thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa mà
ông phải bám sát (qua báo chí Hoa Lục cùng vô số thường dân bỏ trốn
TQ bằng cách liều mạng lội trong đêm vượt biển đến Hương Cảng) để
cập nhật hóa tin tức cho phái bộ Bỉ. Nhật ký ông ghi chép trong giai
đoạn ấy là tác phẩm đầu tay của ông khi được Paris xuất bản năm 1971 – LES HABITS NEUFS DU PRESIDENT MAO/ Y PHỤC MỚI CỦA MAO CHỦ TỊCH .
Nhờ thông thạo cả ngữ văn và ngôn thoại, Simon Leys nhìn thấu qua màn
sương huyền thoại bao quanh Mao Trạch Đông lúc ấy và phát giác sớm
nhất sự tranh chấp quyền lực máu me của các phe cánh đảng CSTQ núp
sau mấy phong trào quần chúng và thanh niên bị giật dây. Trong khi trí
thức phương Tây, đặc biệt là tả phái Âu-Mỹ ,ngưỡng mộ họ Mao và hoan
nghênh một cách ngờ nghệch từ xa cuộc “Cách Mạng Hồng Vệ Binh” ,
Simon Leys đã chứng minh qua những trang viết thông minh, cương trực, hóm
hỉnh những đức tính cần thiết cho nhà sử học hay nghiên cứu chính
trị khi chạm phải đề tài tối ám là chế độ toàn trị Á đông: sự tỉnh
táo tri thức cộng với kiến văn uyên bác và lão thông ngôn ngữ. Năm
1972, nhờ cơ hội sang Bắc Kinh làm chuyên gia-tùy viên văn hóa tại sứ
quán Bỉ ông có dịp tham quan nhiều thành phố và thôn quê để tiếp tục
đào sâu nhận thức chính trị của mình về đất nước bao la đông dân nhất
thế giới đang bị chủ nghĩa Mao phá hoại và bạo hành từng ngày. Quá
trình quan sát và trải nghiệm ấy được nâng lên thành tác phẩm văn
học – chính luận đặc sắc và đậm chất humour riêng của Simon Leys: OMBRES CHINOISES/ MÚA BÓNG Ở TRUNG QUỐC
xuất bản năm 1974 được giới học
thuật đánh giá như một kiệt tác gợi nhớ văn phong Voltaire,
Montesquieu... Kể từ đó, sự nghiệp học thuật của ông chia làm hai
hướng và đóng góp nhiều tác phẩm mà các trí thức- học giả quan tâm
đến văn hóa và chính trị Trung Hoa bắt buộc phải đọc, như bản dịch
LUẬN NGỮ tài hoa và chuẩn xác bằng thứ tiếng Anh lịch lãm hiếm có.
Bài điểm sách rất ưu ái về Lưu Hiểu
Ba sau đây đồng thời là những trang nhận định sâu sắc về chính sự và
dân tình TQ hôm nay - qua đó ta thấy
rực lên ánh lửa trí tuệ và đạo lý của một ngòi bút vừa hết lòng
yêu mến và tôn quí nền văn hóa lớn lâu đời nhất ở Á Đông vừa không
quên trách nhiệm trí thức thời đại trước sự man trá đầy tội ác của
chủ nghĩa toàn trị Bắc Kinh. Đây cũng là trước tác quan trọng cuối
cùng của Simon Leys đăng trên tạp chí văn hóa New York Review of Books
ngày 9-2-2012 dưới nhan đề “He told the Truth about China’s Tyranny” (Người nói lên Sự Thật về
Nạn Chuyên Chế ở Trung Quốc) . Bài
này được in lại trong tập tản văn và bút ký cuối đời của Simon Leys,
THE HALL OF USELESSNESS/VÔ DỤNG
ĐƯỜNG, do nhà NYRB xuất bản năm
2013.
Tuyển tập thơ và bút ký của LƯU HIỂU BA, NO ENEMIES, NO HATRED (Không thù oán, chẳng có kẻ thù ) với khai từ
của VÁCLAV HAVEL được đại học Harvard xuất bản năm 2012 ( biên tập –
dịch giả Perry Link, Tienchi
Martin-Liao và Liu Xia).
GIẢI PHẪU
MỘT NỀN ĐỘC TÀI “HẬU TOÀN TRỊ “
Hơn sự ưng thuận của đám đông là
thái độ bất
tuân của một người can đảm!
TƯ MÃ THIÊN
Sự thật sẽ giải phóng mi.
KINH THÁNH theo JOHN
Ngày nay sự thăng tiến
kinh tế Trung Quốc ngự trị toàn cảnh bang giao quốc tế. Trong con mắt các chính
khách và giới phân tích chính trị, TQ có tiềm năng trở thành “ thế lực kinh tế
bành trướng nhất thế giới vào năm 2019.” Các chuyên gia tài chính còn tiên liệu
một ngày sớm hơn. Có kẻ cho là “ TQ sẽ biến làm nền kinh tế lớn rộng nhất thế
giới vào 2016.” Sự thay đổi nhanh chóng này được gọi tên rất đúng là “ phép lạ
TQ”. Có sự đồng thuận chung , cả ở TQ lẫn nước ngoài, cho rằng thế kỷ 21 sẽ là
“thế kỷ của TQ”. Các chính khách quốc tế bay đến Bắc Kinh trong khi giới doanh
nhân từ khắp các nước phát triển đổ xô tới Thượng Hải cùng những thủ phủ tỉnh lỵ
với hy vọng ký kết được hợp đồng. Âu châu thì khẩn cầu TQ ra tay cứu giúp đồng
tiền đang lâm bệnh của mình.
Tất cả những ai có nghĩ
suy hôm nay ít nhất đều muốn có được vài hiểu biết căn bản về các động lực sâu
xa nằm dưới sự biến hóa đột ngột và đáng phục ấy: Bản chất với ý nghĩa thật của
nó là thế nào? …và nó sẽ hướng về đâu? Các tiệm sách hôm nay bị ngập lụt dưới
ngọn triều những ấn bản mới nhằm cung cấp thông tin về TQ, tuy nhiên (theo tôi)
cuốn sách mới có nội dung cấp bách và tầm quan trọng cốt yếu mà cả giới chuyên
gia cùng độc giả phổ thông cần phải đọc là tập hợp các bài ký sự của Lưu Hiểu
Ba, được tuyển chọn, dịch và giới thiệu một cách cẩn trọng bởi những học giả đầy
uy tín - một công trình có phẩm chất cao nhờ mối quan hệ cá nhân của họ với tác
giả. (1)
Giải Nobel Hòa Bình
2010 khiến cho cả thế giới chú ý đến cái tên Lưu Hiểu Ba. Tuy rằng trước đó nhiều
năm tiếng tăm ông đã vang rền trong nước TQ như một người trí thức của công chúng (public intellectual) vô úy có
tầm nhìn thấu triệt, tác giả của khoảng mười bảy cuốn sách trong đó gồm các tập
thơ, bài phê bình và tiểu luận chính trị.(2) Giới chức cầm quyền cộng sản đã bảo
chứng một cách thiếu khôn khéo cho các nhận định chính xác không thỏa nhượng của
ông. Họ cứ bắt bớ ông vì các quan điểm ấy - bốn lần kể từ vụ thảm sát Thiên An
Môn tháng 6-1989. Nay ông lại ngồi tù từ tháng Chạp 2008, và chịu một chế độ
lao tù hà khắc đặc biệt mặc dù tình trạng sức khỏe không được khá. Như Pascal từng nói : “ Hãy tin vào các chứng nhân
nào dám hy sinh tính mệnh” - kẻ chứng nhân biệt lệ này còn có phẩm cách ngoại hạng
về nhiều mặt khác, cả về mặt nắm thông tin và trải nghiệm cùng những đức tính
trí tuệ với sự cương trực của ông.
___________________
Sinh năm 1955 ở miền đông-bắc
TQ, Lưu đích thị thuộc thế hệ “ con cái họ Mao” - thế hệ vì một trớ trêu lý thú lại sinh sản những
kẻ bất đồng chính kiến gan dạ nhất cùng những nhà tranh đấu lưu loát nhất cho nền
dân chủ - ví dụ Ngụy Kính Sinh, người hùng của Báo Tường Dân Chủ ở Bắc Kinh
trong giai đoạn 1978-79, mười tám năm chịu nạn ngục tù trước khi bị lưu đày
sang phương Tây(3). Lưu Hiểu Ba vẫn thường ca tụng các vị mở đường ban đầu ấy. Ông
không được tham gia Cách mạng Văn hóa vì còn quá trẻ, nhưng phong trào đó - một
cách khôi hài – đã có tác động tích cực đối với đời ông.
Cũng như phần lớn trí thức, cha mẹ ông - vốn là
giáo chức - bị đày đi nông trường tập thể ở thôn quê. May thay nhờ đi theo họ,
trong nhiều năm Lưu khỏi bị hấp thụ thứ giáo dục chính qui. Sau này nhìn lại ông
yêu quí giai đoạn ấy: những năm thất học đó đã cho ông “được tự do”. Thoát khỏi
nền sư phạm nhồi sọ kiểu Mao, ông đã vớ đâu đọc đấy nhiều loại sách – có nghĩa
mọi thứ ấn phẩm nào rơi vào tay – và nhờ vậy mà tìm ra nguyên tắc chỉ đạo cho ông
từ đó: ta phải suy nghĩ cho chính mình.
Sau khi Mao chết, các
đại học rốt cục được phép mở cửa lại; năm 1977 Lưu gia nhập nhóm sinh viên đầu
tiên được nhận vào các trường cao đẳng, ban đầu tại tỉnh nhà, sau đó ở Đại học
Sư phạm Bắc Kinh. Chuyên cần nghiên cứu văn học Trung Hoa với thành quả tốt, mười
một năm sau ông được bổ chức giảng viên tại đại học này khi lấy xong tiến sĩ. Với
đầu óc độc đáo, sự hiếu kỳ tri thức bao la và tài năng diễn đạt, ông cầm chắc
trong tay một sự nghiệp hàn lâm rực rỡ. Ông đã tìm được khá sớm một công chúng
rộng lớn vượt ngoài khuôn viên lớp học, và được ban tặng danh hiệu enfant terrible (quái kiệt thần đồng) trong
giới làm văn hóa ở Trung Quốc.
Trong các cuộc thảo
luận về văn học và ý tưởng, mớ quan điểm của ông linh hoạt thoát khỏi qui ước
giáo điều; tuy rằng vào giai đoạn còn sớm ấy, ông không đả động đến những vấn đề
chính trị. Bước ngoặt phát triển nhân cách của ông xảy đến trong năm 1989, với
vụ thảm sát Thiên An Môn ngày 4 tháng 6 và diễn tiến sau đó. Trước đó không lâu,
danh tiếng của Lưu như một nhà phê phán ý tưởng độc đáo đã mang đến cho ông nhiều
giấy mời đi ngoại quốc. Khi đó tại Bắc Kinh phong trào phản kháng chính trị cùng
các yêu sách cải cách dân chủ đang dâng đến cao điểm : một đám người đông đảo gồm
sinh viên cùng những kẻ ủng hộ với cảm tình viên đã tụ họp và cắm lều tại quảng
trường Thiên An Môn, tâm điểm của thủ đô.
Lúc ấy Lưu Hiểu Ba đang
ở New York sau khi nhận lời mời giảng dạy chính
trị học cho Barnard College thuộc đại học Columbia. Giống nhiều trí thức Trung Hoa trước
đó, ban đầu Lưu đã lý tưởng hóa phương Tây; tuy nhiên các kinh nghiệm thu thập
bên Âu châu trước tiên và sau đó ở Mỹ đã sớm phá tan mớ ảo tưởng của ông. Trong
một lần viếng bảo tàng Metropolitan ở New York, ông trải nghiệm một dạng khải
ngộ làm kết tinh nỗi dằn vặt vì tự vấn vào những ngày ấy: ông nhận ra sự nông cạn
về kiến văn của mình trước ánh sáng của các nền văn minh huy hoàng và đa dạng
trong quá khứ, đồng thời cảm thấy sự bất cập của các lời giải đáp phương Tây đề
ra hôm nay cho cảnh huống của nhân loại thời hiện đại. Giấc mộng nhờ Tây hóa để
cải cách TQ của chính bản thân mình đột nhiên ông thấy nó thảm thương như thái độ
“ một kẻ bán thân bất toại cười nhạo một người toàn thân bại liệt”, ông đã thú
nhận vào lúc đó:
Xu hướng lý tưởng hóa văn minh Tây phương phát khởi từ khát vọng dân tộc
chủ nghĩa dùng phương Tây để cải cách TQ của tôi. Nhưng nó đã khiến tôi bỏ sót
không nhìn ra các khiếm khuyết của văn hóa phương Tây…Tôi đã khúm núm trước văn
minh phương Tây, thậm khen những điều hay tốt của họ, và đồng thời cũng đề cao
quá đáng những điều tốt đẹp của mình. Tôi
đã nhìn phương Tây không những chỉ là sự cứu rỗi cho TQ mà còn là đích hướng tự
nhiên và chung cuộc của cả loài người. Hơn
thế, tôi còn dùng thứ lý tưởng loạn trí ấy để gán cho mình vai trò đấng cứu
tinh…
Bây giờ tôi nhận thấy là trong khi có thể giúp
ích cho sự cải cách TQ ngày nay, văn minh phương Tây khái quát mà nói không thể
cứu nhân loại.
Nếu ta lùi khỏi văn minh phương Tây trong
giây lát, ta có thể thấy nó có đủ mọi khuyết tật của nhân loại nói chung…
Là người đã sống hơn ba mươi năm dưới hệ thống
chuyên quyền ở TQ, nếu tôi muốn suy tư về số phận nhân loại hoặc như thế nào làm
một người chân thực, tôi chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài việc phê phán cùng lúc
hai điều. Tôi phải:
1.Dùng văn minh phương Tây như công cụ để phê
phán TQ.
2.Dùng óc sáng tạo của chính tôi để phê phán
phương Tây.
Trong khi Lưu còn ở
New York, phong trào sinh viên tại Bắc Kinh tiếp tục phát triển mà chẳng ngờ rằng
họ không tránh khỏi việc đụng đầu với phe cánh sắt máu trong giới lãnh đạo đảng
CS – cánh này sau cùng sẽ được Đặng Tiểu Bình thả cương. Nhưng Lưu linh cảm rằng
vụ khủng hoảng sắp đến nước cùng, và ông đã có một quyết định nghiêm trọng và hào
phóng: từ bỏ mọi an toàn với tiện nghi của chức giáo sư vừa bổ nhiệm ở New York và nhanh chóng
quay về Bắc Kinh. Ông đã không rời khỏi quảng trường trong những ngày cuối đầy
kịch tính của cuộc biểu tình sinh viên; ông cố gắng thuyết phục họ một cách tuyệt
vọng rằng làm chính trị dân chủ phải là “ loại chính trị không thù hận và không
có thù địch”. Đồng thời, sau khi thiết quân luật được ban hành, ông thương lượng
với quân đội hy vọng vào một cuộc triệt thoái bình yên khỏi quảng trường.
Nhờ sự can thiệp của ông,
các nhân mạng thoát chết không đếm hết, dù rằng cuối cùng ông chẳng ngăn chặn được
sự tàn sát lan rộng – chúng ta vẫn chưa biết bao nhiêu sinh viên, kẻ bên đường
vô can, thậm chí những người cứu thương tình nguyện đã biến mất giữa cuộc tắm máu trong đêm chung
quyết ấy.(4) Bản thân Lưu bị bắt ba ngày sau vụ thảm sát và bị cầm tù không án
tòa trong hai năm sau đó. Khi ra khỏi tù ông biến thành con người khác. Đại học
không cho ông giảng dạy, và ông bị cấm xuất bản và diễn thuyết trước công chúng
tại TQ.
Tuy nhiên nhờ
Internet (“Internet đúng là món quà Trời cho dân TQ”, sau này ông có nói như thế),
Lưu có thể triển khai một sự nghiệp mới là bình luận viên tự do ngoài biên chế
(freelance commentator) về xã hội và văn hóa TQ. Những bài viết với bút ký của ông
được phát hành ngoài nước trong đủ loại báo định kỳ Hoa văn ( nhiều nhất ở Hương
Cảng và Đài Loan); và ngay chính trong nước ông cũng vươn đến khối độc giả mạng
rộng lớn mà đám quan chức kiểm duyệt bực tức nhưng khó ngăn chặn được. Ảnh hưởng
và uy tín của ông trong giới bất đồng chính kiến TQ lên đến cao điểm vào tháng
12 -2008 khi ông bảo trợ cho Hiến Chương 08 – tài liệu tập thể noi theo ví dụ
do Václav Havel và các bạn ông tạo ra ba mươi năm trước ở nước Cộng Sản Tiệp Khắc
là Hiến Chương 77.
Hiến Chương 08 là một
mẫu mực của tinh thần ôn hòa và lý trí bình tĩnh khi trình bày những nguyên lý
nền tảng cùng các quyền căn bản khả dĩ gợi hứng cho cuộc cải cách chính trị đã
quá trễ muộn ở TQ: một lý tưởng dân chủ, tinh thần nhân đạo và bất bạo động, được
bảo đảm về mặt thể chế bởi sự phân quyền và tự do bày tỏ ý kiến, “ tranh đua tự
do và sòng phẳng giữa các đảng phái chính trị”, với sự thiết lập một nền cộng hòa
liên bang (điều đã được hình dung một thế kỷ trước khi nền cộng hòa Trung Hoa đầu
tiên được lập ra).
Chẳng có chi là khiêu
khích hay cực đoan trong một chương trình như thế. Triệu Tử Dương - cựu thủ tướng
TQ (1980-1987), từng là tổng bí thư Đảng (1987-1989) vừa là tổng công trình sư
của phong trào cải cách và mở cửa ra thế giới đầu tiên trong thời kỳ sau Mao – đã
phát biểu những quan điểm tương tự Hiến Chương 08 một cách đáng kể trong những
năm sau cùng của ông (5). Đến lúc cuối đời khi bị quản thúc và lưu đày trong nước,
Triệu đã đi đến kết luận - được diễn đạt rõ nghĩa trong di chúc chính trị của ông
- là cần phải cải cách hệ thống chính trị TQ:
Chuyên chính vô sản đã trở thành một cơ chế chết cứng, thuần túy hình
thức nhằm bảo vệ sự cai trị độc đoán của một thiểu số hay một cá nhân; con đường
cho tương lai hướng đến hiện đại hóa thực sự là nền dân chủ nghị viện – theo kiểu
mẫu phương Tây. Sự chuyển biến này có thể đòi hỏi một thời kỳ quá độ khá lâu nhưng
có thể làm được, bằng chứng là Đài Loan và Nam Hàn… (6)
__________________________
Mọi bài ký sự của Lưu
Hiểu Ba trong tập sách này đều bàn về giai đoạn hai mươi năm kéo dài từ vụ Thiên
An Môn đến Hiến Chương 08. Trong suốt thời gian này, dù bị bắt và giam cầm không
xử án, ông đã hoạt động tích cực trong giới báo chí chính trị ngoài biên chế.
Không công ăn việc làm, ông tìm cách đắp đổi qua ngày bằng ngòi bút.(7)
Có vài ký sự tập
trung vào mấy biến cố đặc thù từ đó tác giả rút ra những bài học sâu xa hơn; các
bài khác đề cập đến những vấn đề xã hội-chính trị và văn hóa rộng hơn, được
minh họa bằng ví dụ từ các sự kiện vừa xảy đến.
Một ví dụ tốt cho loại
thứ nhất là bài viết quan trọng phơi bày trường hợp gớm ghiếc của “Các Lò Gạch Đen”.
( Sau này, trong lần ra tòa chót của Lưu, đây là một trong sáu bút ký được dẫn
chứng để kết tội ông có âm mưu “chống phá quyền lực Nhà Nước.”) Tháng 5-2007,
phụ huynh có con em mất tích ở tỉnh Hà Nam đã thông báo sự tình cho các ký
giả can đảm của đài truyền hình địa phương. Phát giác ra đám điều hành các lò gạch
bên tỉnh Sơn Tây đã tổ chức các mạng lưới bắt cóc rộng khắp để cung ứng lao động
nô lệ cho các lò của họ, và quan chức địa phương ở hai tỉnh hình như đã đồng lõa
với mấy vụ tội phạm ấy.
Công an đã tỏ ra đặc
biệt vô tích sự khi họ cố phá vỡ các mạng lưới ghê tởm ấy: số trẻ em tìm thấy và được cứu thoát chỉ là con số nhỏ
mười phần trăm của hơn nghìn mạng mất tích. Hình phạt, thường là không nương
tay với ai dám bất tuân quyền lực Đảng, lại có vẻ chiếu lệ và phiên phiến một cách lộ liễu. Chín mươi lăm đảng viên với
quan chức đã dính vào vụ này, nhưng họ chỉ bị “kỷ luật đảng” mà chẳng phải chịu
án tội phạm. Quan chức cao hơn chỉ bị “Đảng nghiêm trọng cảnh cáo”. Lưu kết luận:
“Với mọi ưu thế và tài lực mênh mông, Nhà nước đầy quyền hành vẫn chưa sẵn sàng
đương đầu với xã hội đen.” Mối quan tâm chính của Đảng CS là nắm giữ chặt độc
quyền đối với mọi cán bộ nhà nước. Quan chức các cấp đều được bổ nhiệm, thăng
quan hay bãi chức dựa vào sự định đoạt của một nhóm riêng: đó là Đảng.
Ưu tiên thứ nhất của quan chức bao giờ cũng là phục vụ cấp trên ( bởi
làm như thế đương nhiên có lợi cho mình) chứ chẳng phải phục vụ dân chúng phía
dưới.
Còn hệ thống pháp lý
– cũng được Đảng dùng để bảo vệ độc quyền về quyền lực – thì rất mực ngần ngại đụng
vào các vấn đề có quan hệ đến liên minh giữa Đảng với xã hội đen:
Ở TQ, xã hội đen và bộ máy quan chức đã hòa trộn với nhau thành một.
Các thành phần tội phạm được trao chức vụ trong khi quan chức biến thành tội phạm.
Bọn nắm đầu xã hội đen có danh phận trong Đại hội đại biểu Nhân dân toàn quốc và trong Hội nghị Hiệp thương Chính
trị Nhân dân Trung Quốc [nói tắt là Chính Hiệp, một tổ chức tương tự
như Mặt trận Tổ Quốc của Việt Nam],
trong lúc quan chức chế độ mượn tay xã hội đen để trấn áp dân chúng địa phương.
Một ký sự khác bàn về “Vấn đề Đất đai”. Vào thời Mao, nông dân mất
hết đất khiến họ lâm vào tình cảnh chẳng khác gì nông nô trong các “công xã”. Họ
buộc phải lao động trên mảnh đất không còn thuộc về mình. Trong cuộc Đại Nhảy Vọt
điên cuồng lắm tai ương, nông dân đói nghèo đến mức không còn lương thực để ăn
và áo quần để mặc. Ở vài nơi, dân chúng phải ăn thịt người. Hơn bốn mươi triệu
mạng chết vì đói trong nạn đói lớn do Mao gây ra từ 1958 đến 1962. Không bao lâu
sau khi Mao chết năm 1976, một “cuộc giải phóng nửa vời “ diễn ra đối với đám nông
nô: nông dân được quyền canh tác - nhưng không được sở hữu ruộng đất - chừng nào
đất nông nghiệp chưa đụng phải các dự án phát triển vì khi ấy nó chuyển trở lại thành tài sản nhà nước.
Giới quan chức nắm trong tay quyền hành nhà nước và nhân danh “quyền sở
hữu đất đai của nhà nước” đã móc ngoặc với đám doanh nhân trên khắp đất nước chúng
ta….Những kẻ thủ lợi nhiều nhất từ các vụ chuyển giao đất đai ở mọi cấp là chế độ
CS và tập đoàn nắm quyền lực….Dân làm nông nghiệp là thành phần yếu nhất giữa
những người yếu thế. Không có báo chí tự do và pháp quyền độc lập, họ không có
tiếng nói công khai, không được quyền tổ chức các hiệp hội nông nghiệp, và không
có phương tiện để kiện tụng… Và chính vì vậy mà dân chúng một cách tự nhiên phải
tìm đến các hành động tập thể bên ngoài
hệ thống, khi mọi cố gắng cầu cạnh đều bị chặn nghẽn trong lòng hệ thống…
Phần lớn các đụng độ trọng đại ở TQ mấy năm gần
đây đã xảy đến do thường dân chống lại quan chức. Phần lớn diễn ra từ đám dân
quê ở hương thôn, và đa phần có liên quan đến ruộng đất. Bảo vệ quyền lợi cho cấp
trên, quan chức địa phương đã vận dụng không đắn đo một loạt phương tiện man rợ,
từ bạo lực của nhà cầm quyền đến bạo lực của đám tội phạm xã hội đen, để trấn áp
các vụ nổi dậy.
Ngoài mấy bài ký sự bàn về các điều bất
công cùng nhiều dạng tội phạm của sự lạm dụng quyền lực, những bài viết khác chú
trọng đến các vấn đề tổng quát hơn: chẳng hạn, ý nghĩa và những diễn tiến sau đó
khi TQ trỗi dậy như một đại cường – đang còn là một nghi vấn lớn chưa định đoạt.
Sự lớn mạnh quá nhanh của nền kinh tế thị trường cùng ý thức ngày càng tăng
trong dân chúng về các quyền tư hữu đã sản sinh yêu cầu to tát của người dân đòi
thêm tự do, và điều này sau cùng có khả năng tác động đến vị thế quốc tế của
TQ. Mặt khác, chính quyền CS
khi cố sức
bảo vệ hệ thống chuyên chính cùng các đặc quyền của tập đoàn nắm giữ quyền lực đã
biến thành trở ngại lớn nhất ngăn chặn sự vận động hướng về tự do…Khi nào TQ vẫn
còn là một nhà nước chuyên chính độc đảng, nó sẽ chẳng bao giờ ‘vươn lên” thành một đất nước văn minh và trưởng
thành…
CSTQ đang tập trung vào kinh tế, tìm cách nhập
với sự toàn cầu hóa, và gạt bỏ ý thức hệ của họ trước kia để ve vãn bạn bè trên
thế giới.
Trong nước, họ tìm mọi cách bảo vệ hệ thống
chuyên chính, [ trong khi ngoài nước]họ biến thành cái máy tiếp huyết cho các
chế độ độc tài khác…Khi sự “ trỗi dậy” của một nhà nước chuyên chính rộng lớn đang
nhanh chóng làm chủ sức mạnh kinh tế gia tăng và không bị ngăn ngừa một cách có
hiệu quả từ bên ngoài mà chỉ gặp một thái độ hòa hoãn trên chính trường quốc tế,
và một lần nữa nếu những người cộng sản lại lôi kéo thành công cả nước vào con đường
lịch sử trật hướng đầy tai ương - kết quả sẽ không chỉ là một đại họa khác cho
dân TQ mà còn có khả năng gây nguy hại đối
với sự lan rộng của trào lưu dân chủ tự do trên trái đất. Nếu cộng đồng quốc tế
muốn khỏi phải trả giá cho các hiểm họa ấy, các nước tự do phải làm những gì mình
có thể làm để giúp cho nền chuyên chính lớn rộng nhất trên thế giới tự chuyển biến
càng nhanh càng tốt thành một nước tự do và dân chủ.
Nhưng có thể hy vọng
cho một sự chuyển biến như thế chăng? Tự nó chế độ này chết cứng. Sau hơn hai mươi
năm “cải cách”, đặc điểm mà Đảng CS vẫn duy trì vô điều kiện từ ý thức hệ Mao là
nguyên tắc độc quyền tuyệt đối quyền lực chính trị. Không khả quan có được một
tổ chức nào có thể hội tụ đủ sức mạnh chính trị để thay đổi chế độ trong thời
gian trước mắt. Lưu viết ; “ Trong tập đoàn nắm quyền bính không có…dấu hiệu nào cho thấy sẽ xuất hiện một
gương mặt khai minh như Gorbachev hoặc Tưởng Kinh Quốc – hai người đã lái Liên
Xô và Đài Loan về hướng dân chủ.” Trong
những ngày tháng tới, xã hội dân sự không có khả năng sản sinh một tổ chức chính
trị để thay thế chế độ CS.
Trong một bút ký mang
tên “Cải biến xã hội để thay đổi chế độ”
(cũng bị nêu làm chứng cứ trong vụ xử tội ông), Lưu kê khai những điều ông hy vọng:
vẫn còn chuyên quyền chính trị nhưng dân chúng sẽ không dốt nát hay rời rạc như
nguyên tử; sẽ có ý thức đoàn kết mới trước bất công, và nỗi bất bình thường tình
chống lại tệ tham nhũng lộ liễu cùng nạn lạm dụng quyền thế đủ loại của quan chức
địa phương. Lòng can đảm dân sự sẽ có tiến triển mới, ý thức về các quyền của
người dân cao hơn. Sự độc lập kinh tế tăng lên cũng sẽ tạo thêm nhiều tự do cho
các công dân khi di chuyển, sở hữu và chia sẻ thông tin.
Đặc biệt mạng
Internet tạo khả năng trao đổi và tán phát các ý kiến bằng những phương cách phần
nhiều thoát khỏi sự kiểm duyệt nhà nước; mức kiểm soát tư tưởng và ngôn luận càng ngày càng mất hiệu lực.(8) Để trở thành một
xã hội tự do, con đường duy nhất cho TQ là sự cải thiện từng bước từ dưới đi lên.
Sự cải biến xã hội từng bước ấy sớm muộn sẽ buộc chế độ phải đổi khác.
Tuy nhiên, mâu thuẫn
trực tiếp với các hy vọng trên, Lưu cũng miêu tả một cách xám xịt cảnh sa mạc tâm
linh của văn hóa thị thành trên đất nước “TQ hậu-chuyên chính”. Giới cầm quyền đang
áp dụng một đường lối chặt chẽ nhằm loại trừ quá khứ gần đây ra khỏi ký ức. Vụ
thảm sát Thiên An Môn hoàn toàn bị xóa trắng trong đầu óc của một thế hệ mới –
trong khi thứ chủ nghĩa dân tộc thô thiển thỉnh thoảng lại được thúc roi để đánh
lạc hướng quan tâm khỏi các vấn đề nhức nhối hơn. Văn học, tạp chí, phim ảnh cùng
video đều tràn ngập sex với bạo lực, và phản ảnh “sự suy đồi đạo lý trong xã hội
chúng ta”:
TQ đã bước vào Thời Đại Đểu Giả (Age of
Cynicism) khi mà thiên hạ không còn tin vào bất cứ cái chi….Kể cả quan chức cao
cấp cùng các đảng viên CS cũng chẳng còn tin vào sự lải nhải của
Đảng. Lòng chung thủy với các
tín điều yêu dấu đã bị thay thế bởi sự trung thành với bất cứ điều gì mang lại
lợi lộc vật chất. Sự nhồi nhét ý thức hệ không ngưng nghỉ của Đảng CSTQ đã sản sinh những thế hệ dân
chúng với trí nhớ trống không…
Thế hệ thị dân sau Thiên
An Môn được nuôi lên với viễn ảnh những điều kiện sống tốt đẹp vừa phải, [nay ôm
ấp các mục đích chính yếu] là trở thành viên chức nhà nước, làm giàu, hoặc đi
ra nước ngoài… Họ không đủ kiên nhẫn chịu khó nghe kể lể về chuyện khổ đau
trong lịch sử… Nạn đói lớn vào thời Đại
Nhảy Vọt? Cách Mạng Văn Hóa phá nát tất
cả? Thảm sát Thiên An Môn? Mọi thứ phê phán chính quyền và phơi trần “mặt tối”
của xã hội là hoàn toàn không cần thiết đối với họ. Họ thích mang lối sống hưởng
thụ của họ cộng thêm những câu chuyện do nhà nước cung cấp ra làm bằng chứng
cho sự tiến bộ choáng mắt của TQ.
Tôi có biết những người
phương Tây đầu óc phóng khoáng từng chạm trán với luân lý khắt khe thái quá
(extreme puritanism) vào thời của Mao - họ ngây ngô suy diễn rằng cách mạng tính
dục sớm muộn sẽ bùng như mìn nổ để khai mở con đường đưa đến một xã hội tự do hơn,
sau bao năm tháng đè nén ức chế. Ngày nay đúng là có cuộc hội diễn dục tính
(erotic carnival- chữ của Lưu) gồm cả sex, bạo lực, tham muốn đang quét khắp đất
nước, nhưng làn sóng này – theo sự miêu tả của Lưu - chỉ phản ảnh sự suy đồi đạo
lý của một xã hội đã bị tước sạch mọi thứ giá trị trong những năm dài chịu đựng
sự bạo hành của chế độ toàn trị: “Nỗi khát khao cách mạng chính trị những thập
niên trước đây nay đã biến thành nỗi khát khao tiền bạc và sex.”
Một số kẻ tả khuynh đổ
lỗi cho thị trường mở rộng với sự toàn cầu hóa đã gây nên nỗi trống vắng tâm
linh và đạo lý trong xã hội TQ; nạn tham nhũng phình to ở TQ cũng được qui tội
như thế. Trái lại, Lưu cho rằng ta phải quay về thời của Mao để tìm dấu vết cho
các gốc rễ sâu của thói đểu giả, nạn trụy lạc và phá sản luân thường hôm nay.
Chính khi đó, vào những năm tháng được sự hoài cổ tả khuynh ngày nay tô vẽ như
một thời của đạo đức thanh liêm mà tâm linh dân tộc phải hứng chịu sự tàn phá tệ
hại nhất; chế độ lúc ấy
phi nhân và vô đạo…Cuộc đấu
tranh tàn ác của chuyên quyền kiểu Mao đã ngấm vào toàn xã hội khiến thiên hạ
thi nhau bán linh hồn: thù chồng hận vợ, tố cáo cha, phản bội bạn, tấn công tập
thể một nạn nhân không sức kháng cự, nói bất cứ điều gì miễn sao “đúng lập trường”.
Những dùi cui thô lỗ bất cần phải trái là các chiến dịch chính
trị của Mao hết đợt này đến đợt khác như màn diễn binh không ngừng đã phá nát
những khái niệm đạo lý thông thường trong đời sống TQ.
Mô thức này đã giảm bớt
trong những năm sau Mao nhưng thật ra chưa biến mất hẳn. Sau vụ thảm sát Thiên
An Môn, chiến dịch cưỡng bức bôi xóa ký ức một lần nữa lại ép buộc người dân phải
phản bội lương tâm mình trong những buổi trình diễn công cộng để thể hiện lòng
trung thành với chế độ. “ Nếu TQ đã biến thành một đất nước nơi dân
chúng chịu dối gạt lương tâm của chính họ thì làm cách nào chúng ta có thể xây
dựng những giá trị công cộng lành mạnh được?“ Và Lưu kết luận:
Làm cho TQ nát bấy về đạo đức, tính chất phi
nhân của thời kỳ Mao là nguyên nhân nghiêm trọng nhất sinh ra “khoảng trống đạo
lý” lan rộng ta thường nghe nhắc đến ngày nay. Trong tình trạng đó, sự buông thả
tính dục trở thành kẻ cộng sự tiện lợi cho nền chuyên chính vẫn cố kềm chặt một xã hội
đang vươn lên sự thịnh vượng…Tự do tính dục là một ý niệm không hỗ trợ nền dân
chủ chính trị nhiều khi nó khôi phục truyền thống trác táng hoang dâm vào thời
các đế chế Trung Hoa ….Các nhà độc tài hôm nay chấp nhận tình trạng này một cách
thoải mái. Nó phù hợp với sự băng hoại luân lý và nạn băng đảng chính trị nảy
sinh từ nhiều năm đạo đức giả, nó khiến cho niềm khao khát tự do đi lạc hướng vào
một vùng chẳng ăn nhằm gì đến chính trị.
___________________________
Trong một bài viết ngắn cuối vào tháng
11-2008, Lưu nhìn “Đằng sau Phép Lạ TQ”.
Tiếp theo vụ thảm sát Thiên An Môn, Đặng Tiểu Bình tìm cách phục hồi uy quyền của
mình cùng tính chính đáng cho chế độ sau khi cả hai thứ đã tan hoang vì vụ thảm
sát. Ông ta lập đề án thiết lập quyền lực bằng phát triển kinh tế. Khi nền kinh
tế khởi sự nở rộ, nhiều quan chức thấy ra cơ hội kiếm lợi chóng vánh và to tát.
Việc theo đuổi tư lợi bất kể sai trái của họ biến thành đầu máy của sự bùng phát
kinh tế sau đó. Những cơ sở độc quyền nhà nước sinh lợi nhiều nhất rơi vào tay
một nhóm nhỏ quan chức đầy thế lực. Đảng CS chỉ còn nguyên tắc duy nhất; bất cứ
hành động nào cũng có thể biện minh nếu nền chuyên chính vẫn được duy trì và của
cải chia chác với nhau nhiều hơn. Lưu kết luận:
Tóm lại, sự chuyển biến kinh tế ở TQ nhìn từ bên ngoài có vẻ sâu rộng,
thực ra mong manh và chỉ có mặt nổi. Sự phối hợp các yếu tố tinh thần và
vật chất từng thôi thúc cuộc cải cách chính trị vào những năm 80 – trí thức có
suy nghĩ tự do, thanh niên đầy nhiệt huyết, doanh nghiệp tư nhân chưa quên đạo
lý, các nhà bất đồng chính kiến trong xã hội, và phe cánh phóng khoáng tự do
trong nội bộ Đảng – đã hoàn toàn biến mất. Thay vào đó, chúng ta
gặp thứ kế hoạch kinh tế một chiều chỉ thèm khát đuổi theo lợi nhuận.”
Một tháng sau khi viết
mấy dòng này, Lưu bị bắt ngày 8-12-2008, sau đó bị kết tội “ kích động lật đổ
quyền lực nhà nước” – khi mà hoạt động của ông trước đó bao giờ cũng chỉ là phát
biểu các ý kiến của mình. Sau màn xử
án có dàn
dựng – công chúng không được phép đến dự - ông bị kêu án tù mười một năm vào ngày
25-12-2009.(9) Khi ông được Nobel Hòa Bình năm sau, nhà cầm quyền TQ đã phản ứng một cách cuồng trí: vợ, bạn bè và
những người quen biết ông đều bị bắt bớ một cách tùy tiện để bảo đảm là không
ai có thể thay mặt ông đến Oslo nhận giải. Hôm nay, vợ ông là Lưu Hà đã bị giam
giữ tại gia mà không bị kêu án. Các biện pháp đầy kịch tính ấy có một tiền lệ lịch
sử hiển nhiên: năm 1935, nhà cầm quyền Nazi cũng đã xử sự tương tự khi cầm tù
nhà bất đồng chính kiến Carl von Ossietsky.(10)
Tại buổi lễ ở Oslo,
thay thế cho người được giải vắng mặt là chiếc ghế trống. Trong vòng ít tiếng đồng
hồ sau, hai chữ “ghế trống” bị cấm tuyệt trên mạng Internet ở TQ; nếu hai chữ ấy
hiện lên bất cứ nơi đâu, cả bộ máy kiểm duyệt tự động phát khởi ngay.
Các chuyên gia ngoại quốc trong đủ loại
tổ chức tình báo cố gắng đánh giá sức mạnh tăng vọt của TQ về chính trị, kinh tế
và quân sự. Giới lãnh đạo TQ chắc có nhiều khả năng nhìn thấy rõ quyền lực của
họ. Thế thì tại sao họ lại hãi sợ đến mức ấy một thi sĩ viết bút ký mảnh mai yếu
thế, bị giam cầm trong ngục thất cách biệt với mọi người? Tại sao chỉ nhìn thấy
chiếc ghế trống ở tận đầu bên kia lục địa Âu-Á đã khiến họ hoảng loạn lên như
thế?
Chân Phương
dịch sang Việt ngữ vào trung tuần cuối
tháng Chạp, 2014.
Chú thích:
(1) Thực ra là hai
cuốn sách; một tuyển tập tương tự (tuy không đồng nhất) bằng tiếng Pháp, xuất
hiện trước vào năm 2011: Liu Xiaobo [Lưu Hiểu Ba], La philosophie du
porc et autres essais (Triết học của loài lợn và những tiểu luận khác),
Jean-Philippe Béja tuyển, dịch và giới thiệu (Paris: Gallimard). Vì nội dung
của hai cuốn không hoàn toàn trùng khít, người ta mong có một cuốn thứ ba kết
hợp hai cuốn kia. Để có thêm thông tin về chính Lưu – vợ ông, các hoạt động, vụ
bắt giam và phiên tòa, xem Perry Link, Liu Xiaobo’s Empty Chair (New
York Review Books e-book, 2011).
(2) Một tuyển tập
mới thơ của ông, do Jeffrey Yang dịch sẽ được nhà Graywolf xuất bản vào tháng
Tư, với tên June Fourth Elegies.
(3) Ngụy Kính Sinh
(sinh năm 1950) trong cuộc Cách mạng Văn hóa là một Hồng vệ binh đi lang thang
khắp Trung Quốc: nhờ thế ông khám phá ra nông thôn bị cơn điên rồ của chủ nghĩa
Mao đẩy vào vực thẳm của sự khốn khổ và tuyệt vọng cùng cực. Phác giác sớm sủa
này cuối cùng dẫn ông đến dán lên Bức tường Dân chủ tuyên ngôn trọng yếu của
ông: “Sự hiện đại hóa thứ năm: Dân chủ” (1978). Ông bị bắt ngay (ở Trung Quốc,
ủng hộ dân chủ là một cái tội) và phải chịu 18 năm tù, bị đối xử rất khắc
nghiệt – lao động nặng, biệt giam. Được trả tự do năm 1997, ông bị buộc phải
lưu vong và hiện đang sống ở phương Tây. Về chuyện này, xem Wei Jingsheng (Ngụy
Kính Sinh), The Courage
to Stand Alone: Letters from Prison and Other Writings (Viking, 1997). Cuốn
sách này được Liu Binyan [Lưu Tân Nhạn] điểm, The New
York Review, ngày 17 tháng 7, 1997.
(4) Theo lệnh của
nhà cầm quyền, nhiều thi thể không xác định danh tính bị chôn hay thiêu một
cách bí mật. Chứng bệnh quên do nhà nước bắt buộc đã ngay tức khắc chôn vùi
toàn bộ tội ác với một hiệu quả khủng khiếp. Cho dù ban đầu thế giới bên ngoài
bị choáng váng, họ cũng không nhớ lâu. Tuy thế – như Phương Lệ Chi nhớ lại
cách đây không lâu (The New York Review, ngày 10, tháng 11, 2011, xem ở đây),
vào cao trào của “Mùa Xuân Ả Rập”, Đại tá Kaddafi nghĩ rằng đúng ra phải tỏ
lòng kính trọng đối với sự khôn ngoan của những tay đao phủ Thiên An Môn.
(5) Triệu Tử Dương
phản đối việc áp đặt tình trạng thiết quân luật trực tiếp dẫn đến cuộc thảm sát Thiên An Môn; kết
quả, ông bị Đặng Tiểu Bình cách chức và quản chế tại gia cho đến khi chết
(2005). Trong những năm cuối đời, Triệu bí mật ghi băng hồi ức của mình; việc
ghi âm này được người cộng sự thân thiết và là thư ký của Triệu là Bào Đồng xác
thực, giới thiệu và phổ biến ra nước ngoài. Xem bản tiếng Anh Prisoner of
the State: The Secret Journal of Premier Zhao Ziyang, Bao Pu, Renee Chiang,
và Adi Ignatius dịch từ tiếng Hoa và biên tập với lời đề tựa của Roderick
MacFarquhar (Simon and Schuster, 2009). Cuốn sách được Jonathan Mirsky điểm,
The New York Review, ngày 2, tháng Bảy, 2009.
(6) “Căn cứ vào thực tiễn Trung
Quốc, chúng ta cần một giai đoạn quá độ tương đối dài. Về chuyện này, kinh
nghiệm của các nước khác ở châu Á đáng cho chúng ta lưu tâm. Chẳng hạn, các
lãnh thổ và các quốc gia như Đài Loan và Nam Hàn thực hiện một sự quá độ dần
dần từ hệ thống cũ sang hệ thống nghị viện và có những kinh nghiệm tích cực mà
chúng ta học được thì sẽ có ích”. Zhao Ziyang [Triệu Tử Dương], Prisoner of
the State, tr. 271.
(7) Ông nói: “Internet như một cỗ
máy kỳ diệu, giúp chữ tôi phun ra như suối. Nay tôi thậm chí có thể sống dựa
vào những gì tôi viết ra.”
(8) Ở Trung Quốc có hơn 450 triệu
người dùng Internet. Điều này đưa đến những khả năng về chính trị khiến nhà
cầm quyền hoảng sợ. Lưu nói: “Nay, bằng chiếc máy tính, tôi kết nối với toàn thế giới bằng một
cách trước đây không thể tưởng tượng được. Máy tính làm cho việc thu thập thông
tin, tham vấn với người khác, soạn bài vở, chuyển bản thảo dễ dàng hơn rất
nhiều… Internet cho công luận một sức mạnh mới… [Nó] khiến cho ta có thể thực
hiện một loại “tự do hội họp” trong không gian ảo”.
(9) Ngày 23, tháng 12, 2011, nhà
văn Trần Vệ – bị bắt vào tháng Hai sau khi đưa bài viết lên mạng đòi tự do ngôn
luận và những cải cách chính trị khác – bị tuyên cùng một tội, là “xúi giục lật
đổ nhà nước” và bị kết án chín năm tù, sau một phiên tòa diễn ra trong hai giờ.
(10) Những người được giải Nobel
khác cũng bị ngăn không cho đến Oslo: Andrei Sakharov, Lech Wałesa, và Aung San
Suu Kyi ít ra cũng đưa được người thay mặt mình đến dự lễ. Boris Pasternak phải
từ chối giải Nobel năm 1958, nhưng vẫn ở bên ngoài nhà tù. Aleksandr
Solzhenitsyn thì không ở tù sau khi được giải thưởng, và nhận giải sau khi rời
bỏ Liên Xô năm 1974.