Văn học Việt Nam mang tính đa nguyên nhưng vẫn định hướng XHCN
Có một thực tế hiển nhiên hiện nay ở trong nước, các văn nghệ sĩ không
chỉ sáng tác theo khuynh hướng hiện thực xã hội chủ nghĩa nữa. Khuynh hướng này
đã mất vị trí độc tôn mà nó chiếm lĩnh mấy chục năm nay. Trong hội họa, âm
nhạc, văn học đã thản nhiên chấp nhận nhiều khuynh hướng sáng tạo khác mang đầy
đủ màu sắc của một của một xã hội văn
chương dân sự.
Tự do sáng tạo được các cơ quan lãnh đạo không can thiếp trực tiếp, thô
bạo . Nhưng cũng đừng mơ hồ là các cơ quan này buông lỏng vai trò lãnh đạo của
mình. Cho đa nguyên nhưng có định hướng, có kiểm soát. Nhưng sự định hướng kiểm
soát này mềm mại tinh vi ít lộ liễu hơn nhiều . Vì vậy những “ thành tựu “ của
nó thu hoạch được cống hiến cho nền văn học nghệ thuật của dân tộc cũng chẳng na
ná( ngang cùng đẳn cấp ) như những “ thành tụt “ mà nền nền kinh tế thị trường nhưng
phải có định hướng XHCN đã mang lại cho nền kinh tế nước nhà.
Cần có một ghi chú nhỏ không nên quên là thường khi trả lời phỏng vấn
trên các cơ quan truyền thông , báo chí công khai các yếu nhân của ban tuyên
giáo trung ương Đảng vẫn nói rõ cần phải tạo điều kiện cho trí thức văn nghệ sĩ
phát huy sáng tạo. Thậm chí họ cònnhấn mạnh tới một thuộc tính của trí thức là
phản biện. Và Đảng tôn trọng cái quyền tối thiểu này của tri thức văn nghệ sĩ.
Có thể vì thế mà trong nước hiện nay tồn tại 2
luồng văn chương thơ ca. Tất cả các tác phẩm lấy được giấy phép của nhà xuất
bản để in và phát hành công khai đều năm trong luồng . Đặc điểm chung của loại
trong luồng là sáng tác theo phương thức hiện thực XHCN. Dòng văn học này tự
nguyện ( không ai ép buộc cả ) tuân theo sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản lấy chức
nămg rất ghê gớm là phục vụ nhân dân phục vụ tổ quốc làm tiêu chí cho ngòi bút.
Dòng văn học này thống trị văn đàn VN ( từ 1945
đến 1975 ở Miền Bắc, từ 1976 – 2010 ở cả nước) hơn nửa thế kỉ qua Nó đã
sản sinh ra nhiều nghệ sĩ cùng không ít
tác tác phẩm có thể cũng lớn ( ấy là theo sự phán quyết của các nhà lý luận phê
bình hiện thực XHCN , chứ chưa phải là sự phán quyết của thời gian ). Tuy nhiên từ 1980 đến nay dòng văn học này đã có những biểu hiện lão
hoá. Nguyên nhân có thể là dòng văn học
này đã công chức hoá, né tránh hiện thực đời sống và ngần ngại trước trách
nhiệm của văn học đối với con người. Do vậy, nó đã rời xa tiêu chí ghê gớm ban đầu của nó. Đây cũng là một câu hỏi nghiêm
túc dành cho tất cả các văn nghệ sĩ đang sáng tác theo phương thức hiện thức
XHCN hiện nay
Loại thứ hai là dòng văn học ngoài luồng .
Đó là những tác phẩm không qua được mạng lưới kiểm duyệt của các nhà xuất bản.
Vì vậy, nó chỉ được phổ biến và lưu truyền dưới dạng bản thaỏ, in lậu và trên
internet. Phần lớn tác phẩm trong dòng văn học này đều không sáng tác theo phương pháp hiện thực
XHCN. Số lượng các nhà văn, nhà thơ có tài năng và uy tín tham gia dòng ăn học này không nhiều . Trong
khi đó lại có không ít những người tự xung là nhà văn, nhà thơ, lấy văn chương
làm phương tiện để hoạt động chính trị dưới tiêu chí đòi tự do, dân chủ, nhân
quyền. Những hoạt động văn chương thực dụng chính trị ầm ĩ này không có tương
lai. Tuy nhiên không thể phủ nhận trôi dạt trên
dòng văn học ngoài luồng này đã xuất hiện một số nhà thơ nhà văn có tài
năng đang có những tác phẩm rất hứa hẹn. Ở một khía cạnh nào đó nó lại là một
cú hích vaò đời sống dòng văn học trong luồng ầm ĩ nhưng khuôn saó và tẻ nhạt .
Văn học sa lầy trong thị hiếu tầm thường của đám đông
Nhưng sự đa nguyên trong sáng tạo
văn học này có tạo ra những tác phẩm lớn có tác dụng giải phóng tâm hồn con
người, mang lại một luồng gió mới tự do dân chủ cho xã hội hay không hay không?
Câu trả lời là không.
Bởi vì cái nền văn học đa nguyên
có định hướng XHCN này này đang bị sa lầy trong cái thị hiếu nghệ thuật thực
dụng rất thô sơ, tầm thường của một xã hội đang chuyển động trong nền kinh tế
thị trường tự do trong khuôn khổ định hướng XHCN.
Nếu bây giờ dạo qua các quầy sách
ở Hà Nội hoặc Sài Gòn thì thấy ngay điều đó. Hàng ngàn các đầu sách bầy la liệt
chen nhau chật cứng trên sạp.
Bìa ngoài xanh đỏ tím vàng loè
loẹt phần lớn là vẽ môi, lưng và những chỗ gợi cảm trên thân hình con gái.
Bên trong thì toàn chuyện ru ngủ
những tình cảm tầm tầm, khuyến khích những dục vọng hàng chợ, đưa ra đáp số
giải toả những bức xúc nửa vời về vài ba vướng mắc nhỏ mọn, nhạt nhẽo của đời
sống.
Những tác phẩm đó đồng loạt bảo
nhau chạy cho xa những mâu thuẫn to lớn, chủ yếu, cốt lõi trong xã hội hiện hữu
đang làm dằn vặt, cào xé tình cảm, rung chuyển suy nghĩ và đảo lộn lòng tin của
hàng triệu, hàng triệu người lao động trong xã hội.
Nhà văn tự nguyện thoả hiệp
đánh mất mình
Trong bản chất sâu xa của mỗi một
nhà văn ở VN đều mang đậm tính thực dụng chính trị cố hữu của người châu Á.
Mục đích cầm bút của họ không
thuần khiết. Họ sẵn sàng tự nguyện hoặc thoả hiệp có điều kiện để bẻ cong ngòi
ngòi bút của mình phục vụ cho một cái gì đó sẽ mang lại lợi nhuận tiền bạc, tên
tuổi, quyền lợi, địa vị, danh vọng rỗng tuếch cho chính họ.
Điều đó cũng có nghĩa là họ tự
nguyện đánh mất mình, đánh mất cái con người nhà văn của họ.
Cách đây vài năm Dư luận xã hội
choáng váng khi nhận ra điều này qua hồi kí “ Đi tim cái tôi đã mất” của Nguyễn
Khải, một nhà văn nhận giải thưởng văn học nghệ thuật HCM cao quý , một nhà văn
thông minh, tài ba nhất trong thế hệ (
như suy tôn của ông Nguyên Ngọc, bạn văn đồng hành của ông Khải.) mà còn như vậy thử hỏi các nhà văn khác thì
như thế nào.
Tất nhiên, ông Nguyễn Khải chỉ
đại diện cho chính bản thân ông chứ không thể đại diện cho tất cả các nhà văn
cùng thế hệ với ông.
Hiện tượng bất thường của Nguyễn
Khải, một nhà văn xung kích của nền văn
học hiện thức XHCN , cũng khiến dư luận người đọc buộc phải hoài nghi cái gọi
là nhân cách của những người cầm bút sớm nẵng chiều mưa rất không ổn như thế.
Đã khó gột rửa lại mất phương hướng
Các nhà văn của các thế hệ lớp
sau Nguyễn Khải (hiện nay đang là lực lượng chủ lực của nền văn học) không bắt
buộc phải sáng taọ theo khuynh hướng hiện thực XHCN mà được hưởng luồng gió mới
tự do chọn lựa các khuynh hướng sáng tạo.
Tuy vậy, rất nhiều ngưòi cũng vẫn
mang trong mình cái bản chất thực dụng chính trị lủn mủn như các tiền bối của
họ. Một thí dụ nóng hổi : Dư luận mấy
tuần nay trong văn đàn đang rộ lên chê
trách tính thực dụng chính trị này chung quanh giải thưởng tiểu thuyết của hội
nhà văn VN trao giải cho tác phẩm được chọn
Nhìn toàn cảnh cái bản chất thực
dụng chính trị cố hữu của người châu Á rất khó gột rửa được trong từng nhà văn,
hậu quả của nó dẫn đên hy vọng sẽ tạo ra được những tác phẩm lớn trong vài thập
kỉ tới chỉ là một ảo giác hoang tưởng
Nhung có thể sẽ có những bất ngờ
không thể tưởng tượng được như trong môn bóng đá. Sẽ có những tác phẩm lớn vụt
hiện. Nhưng chắc chắn đó chỉ là số ít, là đơn lẻ nếu không muốn nói là đơn độc.
Không biết có phải đây đang là
những ước muốn , bức xúc, băn khoăn và lo sợ của đông đảo người đọc, của những
nhà văn và của cả các cơ quan lãnh đạo văn nghệ đang nóng lòng gửi hy vọng vào
nền văn học nước nhà trong vài thập kỉ tới .
Những
suy nghĩ mới
Đã thành một quy luật, các trào lưu tư tưởng
triết học, khoa học và văn học nghệ thuật phải luôn luôn đổi mới sáng tạo để
tồn tại. Sự đổi mới sáng tạo đó là ước muốn vươn tới một sự hoàn thiện tạo nên
những những giá trị mới, khám phá những sự thật căn bản thăm dò phần thâm sâu
và tươi mát của cái hiện tại sống
động.
Cần phải hiểu rằng cái thế giới của sự đổi
mới, sáng tạo đích thực lại luôn nằm
trong bản chất tươi mới của cái hiện thực sống động. Và cái thế giới đó chỉ có
thể tìm thấy trong một tâm thức vi tế minh triết, khoan dung, yên tĩnh. Bởi vì
mọi đổi mới, sáng tạo ( nhất là trong lĩnh vực văn học nghệ thuật ) không chỉ
có giá trị thỏa mãn khoái cảm, đam mê những hình dáng hay biểu tượng mới mà
quan trọng hơn , nhất thiết còn phải có giá trị thức tỉnh để tìm hiểu, khám phá và nhận ra rồi dấn thân hết mình
trên con đường truy tìm lẽ sống và hạnh phúc thực sự của con người. Đó là một
xác quyết
Phải có được sự thấu hiểu thật thâm sâu về bản chất tối hậu của cái thực
tại sống động. Nếu không đạt tới một tầm vóc đó thì lao động sáng tạo của nguời tri thức, văn
nghệ sĩ chỉ phí công vô ích và sẽ liên tục
bị dằn vặt để sản sinh ra những gì mà thật sự đời sống không cần đến. Vì
vậy, người trí thức,văn nghệ sĩ phải có một tầm nhìn sâu rộng , một trí tuệ minh triết và một thái độ khoan dung, tránh không bị cuốn vào
cơn gió lốc tư tưởng Tây phương gần hai thế kỷ nay đang rơi vào tình trạng ảm
đạm do bị sa vào cái bẫy của Chuẩn thức tư duy nhị nguyên phân biệt , nên
đã mất dần khả năng tiếp cận được với
cái hiện tại sống động đang diễn ra.
Bản thể cái tối hậu hiện thực sống động rất khó nắm bắt và vô cùng phức
tạp. Nó tích hợp giữa trật tự và hỗn
loạn, giữa xây dựng và phá hủy, giữa lạc hậu và tiến bộ. Khám phá nội tâm mình
luôn là những trải nghiệm tươi mát, mới mẻ nhưng cũng đầy phiêu lưu và chướng
ngại. Không phải chỉ dựa vào những kiến thức kinh điển có sẵn mà chúng ta phải kinh qua các bài
học trong giây phút hiện tại của đời
sống hiện thực hàng ngày. Người trí
thức, văn nghệ sĩ phải biết sử dụng mọi hoàn cảnh tốt xấu trong cuộc đời, đối
mặt với bao nhiêu là tư tưởng xuất hiện trong trí óc đang trói buộc mình và
phải tìm cách vượt lên tìm cho mình một ý nghĩa cho cuộc đời cũng như một sự
cởi mở trong tâm hồn. Mỗi giây phút chuyển hóa tâm linh ấy, sẽ nâng đỡ người
nghệ sĩ, trí thức dần tìm ra con đường đích thực hoạt động xã hội và nghệ thuật
của mình
Một chân lý đã được thời gian kiểm nghiệm là
Không thể làm việc tốt có hữu ích cho cộng đồng, cho xã hội nếu không tự cải
tạo chính mình trước,
Măc dù hiện nay lao động trí tuệ sáng tạo
trong đó có văn học nghệ thuật đang được
tung hoành trong một môi trường có nhiều tự do, cởi mở. Nhưng không ít những
sáng tạo mới, đặc biệt là văn học nghệ thuật lại đang dần lộ nguyên hình là giả
trá, dễ dãi và lòe mắt thiên hạ. Những tác phẩm đó chỉ mang đến những lạc thú
quyến rũ nhất thời, sự thỏa thích nông cạn khiến người sinh đẻ ra nó và đám
đông tiếp nhận nó dễ dàng sa ngã, rốt cuộc chỉ mang đến thất vọng và nỗi bất an
sâu sắc.
Lao động trí tuệ sáng tạo sáng tạo ra các
tác phẩm nghệ thuật mới đích thực rất
khắc nghiệt, liên tục từng phút, từng giây đòi hỏi người sáng tạo ra nó,
đến đám đông tiếp xúc với nó, đều phải
cố gắng chiến thắng bản thân, phải đương đầu với sự đau khổ của cái trí năng mù
tối, của cái nhận thức sai lệch, phải khiêm nhường, can đảm học lại sự hiểu
biết của mình, dồn hết cả tâm huyết tiến dần vào con đường minh triết nội tâm, xây
dựng cho mình một Nhận thức luận mới
để tiêp cận được cái bản chất tối hậu của thực tại sống động, từ đó vượt thoát
khỏi cái bẫy của chuẩn thức tư duy nhị
nguyên phân biệt đơn giản, hội đủ những nguyên nhân và điều kiện
tiến lên trên con đường KHAI MỞ tư duy sáng tạo trong các hoạt động xã hội,
khoa học và văn học nghệ thuật mới cho nước nhà.