– Bài Nguyễn Việt
Thi sĩ Đinh Hùng sinh ngày 3/7/1920, thuộc người làng Phượng Dực tỉnh Hà Đông nay thuộc huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây. Ông là con của cụ Hàn Phụng, một gia đình trung lưu, từ lâu đã ra lập nghiệp ở Hà Nội. Khi còn sống thi sĩ Đinh Hùng cho biết, ông được hoài thai vào năm 1919 trên đất xứ người là Phi Luật Tân (Philippines) nhưng lại ra đời ở Việt Nam ngay trại Trung Phụng gần toà Khâm Thiên Giám cũ, Hà Nội.
Đinh Hùng là con út gồm sáu anh chị em : anh cả là Đinh Lân, các chị là Loan, Yến, Hồng, Oanh. Chị Đinh Thục Oanh lớn hơn Đinh Hùng một tuổi sau lấy thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Thuở nhỏ thi sĩ Đinh Hùng theo bậc tiểu học tại trường Sinh Từ, rồi bậc trung học tại trường trường Bưởi, Hà Nội. Và sau khi đậu bằng Cao đẳng Tiểu học hạng bình thứ ông được học bổng theo ban chuyên khoa để thi Tú tài bản xứ thì “thần Ái tình đã hiện đến cùng một lúc với sự thành công đầy hứa hẹn” (theo lời kể của ông anh rể Vũ Hoàng Chương), khiến ông bỏ ngang để đi viết văn, làm thơ.
Và hình như gia đình thi sĩ Đinh Hùng đa số mọi người đều yểu mệnh, chưa ai bước qua khỏi tuổi 60. Năm 1931, người chị thứ ba của thi sĩ tên Tuyết Hồng tự tử tại hồ Trúc Bạch vì một mối tình duyên trắc trở. Mấy tháng sau cha ông cũng qua đời khi chưa đến tuổi 50. Ba năm sau, người chị lớn nhất của ông cũng qua đời. Còn nếu tính đến ông khi mất vào ngày 24/8/1967, thì cũng chỉ mới hưởng dương có 48 tuổi !
Nói về thân thế sự nghiệp của thi sĩ Đinh Hùng. Năm 1943, ông theo sống với chị là bà Thục Oanh và thi sĩ Vũ Hoàng Chương tức anh rể của ông. Cũng năm này, ông cho xuất bản tập văn xuôi Đám ma tôi (NXB Tân Việt) và thơ đăng trên Hà Nội tân văn của Vũ Ngọc Phan, Giai phẩm Đời Nay của nhóm Tự Lực văn đoàn… Nhưng thật sự bắt đầu nổi tiếng với bài thơ “Kỳ Nữ” mà Thế Lữ in trong truyện Trại Bồ Tùng Linh.
Năm 1944, sau khi thi sĩ Vũ Hoàng Chương cưới bà Thục Oanh đưa về Nam Định sinh sống, Đinh Hùng ở lại Hà Nội và cho ra đời giai phẩm Dạ Đài, với sự cộng tác của một số bạn như Trần Dần, Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch, Mai Châu… Cùng năm này, ông cùng vợ là bà Nguyễn Thị Thanh về Thái Bình dạy học. Khi ấy, Vũ Hoàng Chương và vợ đang ở đó.
Năm 1949, ông lại cùng gia đình trở lại Hà Nội. Tại đây ông cho ấn hành giai phẩm Kinh Đô văn nghệ (1952) và Mê Hồn ca (1954).
Tháng 8 năm 1954, thi sĩ Đinh Hùng và gia đình di cư vào Nam, cộng tác với tờ nhật báo Tự Do của Phạm Việt Tuyền, có sự cộng tác của Tam Lang, Mặc Đỗ, Mặc Thu, Như Phong… Năm 1955, nhật báo Tự Do đình bản, ông về cộng tác với Đài phát thanh Sài Gòn, phụ trách ban thi ca Tao Đàn, chuyên về thơ ca, cho đến hết đời. (Ban thi ca tao đàn từng đưa những tên tuổi ca sĩ như Hồng Vân, Hoàng Oanh thành những người đọc và ngâm thơ hay nhất lúc bấy giờ).
Ngoài việc làm thơ ký bút hiệu Đinh Hùng, ông còn dùng bút hiệu Thần Đăng khi làm thơ châm biếm và Hoài Điệp Thứ Lang lúc viết tiểu thuyết. Ông viết tiểu thuyết dã sử Cô gái gò Ôn khâu, Người đao phủ thành Đại La và làm thơ trào phúng đăng trên báo Tự Do, báo Ngôn Luận.
Năm 1961, Đinh Hùng cho in tập Đường vào tình sử (đoạt giải Văn chương về thi ca năm 1962). Năm 1967, cho ra tuần báo Tao Đàn thi nhân, nhưng mới phát hành được 2 số thì ông mất lúc 5 giờ sáng ngày 24 tháng 8 năm 1967 tại bệnh viện Bình Dân, Sài Gòn, vì bệnh ung thư gan.
Sau khi ông mất, nhà xuất bản Giao điểm cho phát hành tác phẩm Ngày đó có em vào ngày 16 tháng 10 năm 1967. Ngoài những tác phẩm kể trên, thi sĩ Đinh Hùng còn có 8 tác phẩm chưa xuất bản: Tiếng ca bộ lạc (thơ), Tiếng ca đầu súng (hồi ký), Dạ lan hương (văn xuôi), Sử giả (tùy bút), Vần điệu giao tình (cảo luận) và 3 kịch thơ: Lạc lối trần gian, Phan Thanh Giản, Cánh tay hào kiệt.
Mặc dù Đinh Hùng có viết văn, viết kịch, nhưng ông nổi tiếng là nhờ thơ. Các thi phẩm như Mê Hồn ca, Đường vào tình sử là hai thi phẩm nổi trội.
Trong Từ điển Văn học có nhận xét về ông như sau :
“Đinh Hùng là người tài hoa, có khả năng hội họa, biết chơi vĩ cầm, thích thú với môn thư pháp bằng chữ quốc ngữ… và sống phóng túng, có khi như một lãng tử.
“Ở phần đầu Mê hồn ca, thơ ông bộc lộ một cảm giác cô độc đặc biệt đến bi thiết: Bài ca man rợ, Những hướng sao rơi, Người con gái thiên nhiên…Ở phần hai với tiêu đề Thần tượng, chứa đựng những vần thơ tôn giáo hóa tình yêu: Kỳ nữ, Hoa sử, Hương trinh bạch…. Một khía cạnh khác của thơ Đinh Hùng là sự ám ảnh của thế giới bên kia: Gửi người dưới mộ, Cầu hôn, Tìm bóng tử thần…
Hiện tượng này hẳn liên quan đến nhiều chuyện tang tóc bất bình thường, trong thời gian ngắn, liên tục đổ ập xuống đời sống của tác giả thưở thanh thiếu niên.
“Thơ Đinh Hùng hàm súc, lối thao tác “tụ” và “tán” nhanh chóng, những “từ” và “tứ” đột xuất, khiến thơ ông có khả năng gây được cộng cảm, dễ lưu vào tâm trí người đọc”.(bộ mới, NXB Thế giới, 2004)
Tình thơ trong thi phẩm Đinh Hùng
Nhà thơ, nhà văn thường có tính tình lãng mạn, trữ tình, như ở thuở thanh niên thi sĩ Đinh Hùng đang được cấp học bổng để theo học ban chuyên khoa. Nhưng vào một ngày đẹp trời thì “tiếng sét ái tình” bỗng nhiên đánh trúng tim ông :
Có chàng mang lòng thương
Đi dạo muôn con đường.
Một hôm dừng trước mộng,
Yêu nàng tên Tần Hương.
(Tần Hương – Đường vào tình sử)
Người đẹp ấy tên là Kiều Hương, nhưng ông sợ gây rắc rối cho nàng khi đi lấy chồng nên sửa tên là Tần Hương. Mối tình ấy của Đinh Hùng tuy là mối tình đầu nhưng không sâu sắc, vì chỉ là tình yêu đơn phương. Nên khi nàng Kiều Hương đi lấy chồng, ông không buồn như nhà thơ Kiên Giang Hà Huy Hà từng thất tình khi nghe người yêu đi lấy chồng để có một thi phẩm bất hủ “Hoa trắng thôi cài trên áo tím”. Còn ông chỉ có 2 bài thơ mang tên “Tần Hương” và “Bài hát mùa thu” đăng trong tập thơ Đường vào tình sử.
Mối tình thứ hai mới thực sự mãnh liệt và ghi dấu suốt đời trong tâm khảm của nhà thơ. Nàng là một cô bé họ xa, tên Bích Liên, thỉnh thoảng đến chơi nơi trại Trung Phụng của ba ông, nên thi sĩ Đinh Hùng có dịp quen thân. Thuở ấy nàng còn bé nhưng xinh đẹp tuyệt vời, và vì tên nàng là Liên nên Đinh Hùng viết :
Mùa xuân cây cỏ biếc quanh nhà.
Thùy hương phảng phất sen đầu hạ,
Lén bước trang đài tới gặp ta.
(Liên tưởng – ĐVTS)
Hai người mỗi ngày một lớn, tình yêu cũng cùng với tháng năm mà lớn dần theo, cô bé Liên càng ngày càng đẹp. Hai người yêu nhau nhưng trong mối tình hoàn toàn trong trắng. Không may nàng Liên bị bệnh phổi nặng, sắc đẹp ngày càng kỳ ảo và huyền hoặc khiến ông cứ ngất ngây, trong khi đó sức khỏe của nàng cứ hao mòn rồi từ giã cõi đời vào khoảng năm 1940. Đó là cái chết thứ tư của người thân yêu mà Đinh Hùng chứng kiến trong khoảng thời gian chưa tới mười năm.
Mất Liên, thi sĩ Đinh Hùng đau đớn như điên dại :
Qua xứ ma sầu, ta mất trí,
Thiêu đi tập sách vẽ hoa nguyền.
Trời ơi ! Trời ơi ! Làn tử khí,
Lạc lõng hương thầm đóa Bạch Liên.
(Cầu hồn – Mê Hồn Ca)
Từ đó Đinh Hùng thường làm những bài thơ “Chiêu niệm”, tên Liên được thay thế bằng những tên khác, nào Diệu Hương, Diệu Thư, nào Ý Liên, Bạch Liên, Diệu Liên, nào Em Buồn, Em Đau Thương, Sầu Hoài Thương Nữ, nào Thần Nữ, Kỳ Nữ v.v… nhưng thực ra cũng chỉ có một nàng Bích Liên thôi. Khi nàng chết, Đinh Hùng bỏ trường đi sống lang bạt kỳ hồ, khi dạy học ở Hà Đông, lúc gia nhập một ban nhạc tài tử đi trình diễn ở vùng Bắc Cạn. Đi đâu Đinh Hùng cũng mang theo tấm di ảnh của nàng Bích Liên.
Nhà văn Mai Thảo thuật :
“Tôi được biết là sau ngày người con gái mang tên Liên từ trần, Đinh Hùng bỏ đi đến Hải Dương… Vượt Hồng Hà, bỏ Hà Nội, chàng tuổi trẻ khóc ngất, không mang theo gì hết ngoài nỗi đau đớn và một tấm hình. Đó là di vật cuối cùng của Liên…”
Nhà thơ có cá tính Ai đã gặp thi sĩ Đinh Hùng một lần thì khó lòng quên được. Thân hình mảnh mai, nước da xanh như tàu lá, đôi chân ngắn, bàn tay đẹp như bàn tay con gái mềm mại thon thon, và rất đẹp khi “vân vê” điếu thuốc lào hay khi lướt nhẹ trên chiếc vĩ cầm. Đôi mắt mơ hồ và huyền hoặc dường như luôn luôn in bóng một trời thơ diệu kỳ và mộng ảo. Giọng nói Đinh Hùng rất đặc biệt, nó “vang vang mà nhừa nhựa, nửa như thoát lên cao cùng mây, nửa như la đà cùng khói” (Hoàng Hương Trang).
Ngay lúc nằm trên giường bệnh, giọng nói ấy cũng vẫn còn nồng nàn nỗi yêu đời và niềm lưu luyến tình người. Còn vẻ bề ngoài, ông bao giờ cũng chải chuốt, tứ thời bát tiết lúc nào cũng diện complet thắt cravate cho dù là mùa hè đỏ lửa, đầu chải láng, miệng ngậm pipe, đôi vai nghiêng bởi chiếc cặp dày và nặng trĩu. Gặp bạn thơ thì mừng rỡ, chèo kéo bắt uống cho bằng được một vài ly để rồi say sưa nói về chuyện văn thơ không dứt.
Tạ Tỵ gợi lại một vài kỷ niệm :“Có những đêm đông Hà Nội tôi đến thăm Hùng tại căn nhà cổ nằm sâu trong ngõ hẹp ở cửa ô Cầu Rền, chẳng cách xa phường Dạ Lạc là bao. Ở tuổi hoa niên, tôi quen nhiều bạn biết uống rượu, nhưng tôi chưa thấy ai uống hào bằng Đinh Hùng và Văn Cao. Riêng Hùng có thể uống hai lít đế không cần đồ nhắm, vì thế Hùng mới có gan đối ẩm với Tản Đà hàng nửa ngày trời”. Và cũng vì thế mà bạn bè không ai cảm thấy bất ngờ khi hay tin Hùng bị ung thư gan ở tuổi 48.
Những tác phẩm thi ca của Đinh Hùng Thi sĩ Đinh Hùng có hai thi phẩm lớn là Mê Hồn ca và Đường vào tình sử là nổi bật hơn hết. Cho nên các nhà thơ tên tuổi vào những năm 60, 70 thế kỷ trước từng tranh cãi về giá trị của hai tập thơ này. Theo nhà thơ Sa Giang Trần Tuấn Kiệt chọn Đường Vào Tình Sử, thì nhà văn Trần Phong Giao lại chọn Mê Hồn Ca. Trần Tuấn Kiệt nói :“Mê Hồn Ca tuy đặc biệt nhưng thua xa tiếng thơ của tập Đường Vào Tình Sử”. Còn Trần Phong Giao nói :“Ai cũng bảo Mê Hồn Ca là tuyệt tác, chỉ có ́mình cậu là khác”. Rồi Trần Phong Giao khẳng định : “Trong tất cả những tác phẩm của Đinh Hùng, gặp trường hợp chỉ được quyền cất giữ một cuốn thì tôi sẽ không ngần ngại gì trong việc chọn lựa Mê Hồn Ca. Vì đó là tất cả vũ trụ thơ anh. Vì đó là tất cả anh”.
Nhận định về thi phẩm Mê Hồn Ca, nhà nghiên cứu Phạm Việt Tuyền cho rằng “thi phẩm này thuộc loại thơ nói ít hiểu nhiều, cái hay cốt ở chỗ sử dụng nghệ thuật ném hỏa mù mơ mộng lên những mảnh thực tại tản mác, điều mà Đinh Hùng chắc đã chịu ảnh hưởng ít nhiều nơi các nhà thơ tượng trưng của Pháp như Baudelaire, Rimbaud. Thế giới Mê Hồn Ca là thế giới của đắm đuối say mê, của hoang sơ man dại, của chết chóc lạnh lùng, của nhiệm mầu huyền bí. Tình yêu trong Mê Hồn Ca thiết tha, mănh liệt và kinh khủng. Có nhà thơ nào đã xây dựng được cả một khu nghĩa trang huyền ảo như những bài Tìm bóng tử thần, Màu sương linh giác, Cầu hồn, Thoát duyên trần cấu, Gửi người dưới mộ… như Đinh Hùng?”
Còn nhà thơ nhà giáo Bàng Bá Lân cũng thích Mê Hồn Ca hơn Đường Vào Tình Sử, thích nhất Bài Ca Man Rợ vì bài thơ này rất giàu vần điệu và gợi hình, nhạc thơ toàn bài hùng mạnh một cách man rợ hợp với nhan đề..
Những ngày cuối cùng của Đinh Hùng
Vào trưa ngày 23/8/1967 – trước ngày Đinh Hùng mất – các bạn thơ và văn nghệ sĩ họp mặt trong một quán nhỏ, nhà văn Thanh Nam bộc bạch đọc bốn câu thơ mà ông rất thích :
Khi tôi ngồi xuống ở bên em,
Giở tập thư xưa đọc trước đèn.
Vẫn ngọn đèn mờ, trang giấy lạnh,
Tiếng mùa thu động, tiếng mưa đêm.
Nhà thơ Kiên Giang Hà Huy Hà ở đó, tấm tắt khen thơ hay quá, nhưng khi hỏi xuất xứ thì nhà văn Thanh Nam không nhớ, chỉ biết đó là thơ Đinh Hùng trong cuốn Đường Vào Tình Sử. Về đến nhà nhà thơ Kiên Giang vội tìm cuốn Đường Vào Tình Sử để đọc bài thơ có bốn câu ấy. Đó là bài Gặp nhau lần cuối.
Tháng 7 năm 1967 khi bệnh tình của thi sĩ Đinh Hùng bỗng trở nặng, các thân hữu liền đưa ông vào bệnh viện Bình Dân để cứu chữa, nhưng bệnh ung thư chỉ có thầy tiên thuốc thánh mới cứu nổi.
Khi nhà thơ Tô Kiều Ngân vào thăm thì “trước mắt tôi không phải là chàng thơ phong vận từng bơi qua Hồ Tây, từng đánh đàn mandoline trong các phòng trà, nói chuyện có duyên, làm thơ tình ái rất hay. Người nằm đó chỉ là một bệnh nhân, mắt rất buồn, hơi thở mệt nhọc, đang chờ mổ mà tin tưởng thì rất mong manh… Người thơ của chúng ta trầm mình trong nỗi cô đơn giữa bốn bức tường bệnh viện lạnh lùng, đôi vai gầy, gầy thêm, khuôn mặt nhỏ, nhỏ thêm. Cuộc sống ở đây hoàn toàn bị lùi xa, bị tách rời”.
Có những người “vô danh” tình nguyện cho ông máu để đủ sức chịu đựng khi giải phẫu, nhưng đến nơi thì ông đã đuối quá ra đi rồi.
Tô Kiều Ngân viết tiếp : “Trước giờ liệm Hùng, tôi giở tấm vải trắng nhìn anh lần chót. Mớ tóc xõa ra, đôi mắt nhắm nghiền, da mặt trắng xanh. Buồn quá, không ngờ Hùng chết nhanh như vậy. 48 năm, thôi thế cũng được, 48 năm miệt mài với thơ, với nhạc, với Bộ lạc, Hải tần, Kỳ nữ, với “mây trắng bay đầy gối”, với “hiu hắt tiếng dương cầm”, đời anh toàn gắn liền với thơ, với rượu, kể ra đã thừa chất đẹp”
Hôm đưa tang Đinh Hùng vào chủ nhật 27-8-1967 tức 22 tháng 7 năm Đinh Mùi – là một ngày trong tiết thu sơ, bầu trời ảm đạm. Bạn bè đi đưa tuy không đông lắm nhưng ai nấy đều chan chứa trong lòng niềm tiếc thương vô hạn một nhà thơ tài hoa mà yểu mệnh.
“Bên chiếc huyệt đào sẵn, Vũ Hoàng Chương gọi lớn : “Đinh Hùng ! Đinh Hùng !” nhưng người thơ phong vận không bao giờ lên tiếng nữa. Bậc đàn anh Vi Huyền Đắc ngậm ngùi bên bờ huyệt, Vũ Khắc Khoan lặng lẽ ném một hòn đất xuống quan tài. Thanh Nam bỏ ra ngoài lặng lẽ đưa khăn lau mắt, Hoàng Anh Tuấn khóc lăn bên nấm mộ… Khi ra về, đi bên cạnh Tuấn, tôi mới hỏi “Toa hôm nay xúc động quá nhỉ !”Tuấn nói “Đâu mình có khóc Đinh Hùng, khóc cho mình đấy chứ !” (Ký giả Lô-Răng).
Và như lời tiên tri, thi sĩ Đinh Hùng từng có bài thơ “Cung đàn tưởng niệm” để khi ông chết như một di chúc để lại cho mọi người, đọc khi đến viếng mộ ông, một thi sĩ tài danh yểu mệnh :
Cung đàn tưởng niệm
Khi anh chết, các Em về đây nhé,
Vị chút tình lưu luyến với nhau xưa.
Anh muốn thấy các em cùng nhỏ lệ,
Tay cầm hoa, xoã tóc đứng bên mồ.
oOo
Em lả lướt, Em là Buồn cố kết,
Tự ngày anh ra sống kiếp trần ai.
Em khóc cho anh mối hận tình dài,
Em nói cho anh tấm lòng cô lữ.
oOo
Anh thường mê tiếng hát của Em xưa.
Những ngày vui, bóng mộng mất không ngờ,
Em thân ái vẫn cùng anh tưởng nhớ.
oOo
Anh quên đấy: còn người em duyên số,
Nhớ cùng Em đối bóng mấy canh trường,
Tự đêm ấy cầm tay nhau không nói…
oOo
Anh tưởng niệm các Em về một buổi,
Ở bên mồ, cỏ úa sắc chiều rơi.
Ngược Sông Mê, bàng bạc nẻo luân hồi,
Sầu rũ tóc, ngậm ngùi in khóe mắt.
oOo
Anh đã thấy dáng Em Buồn cúi mặt,
Anh cảm lòng vì lệ của Thương đau.
Các Em khóc các Em buồn lắm nhỉ?
oOo
Phải xa anh, từ đây đường nhân thế,
Các Em đi, phiêu bạt giữa thời gian.
Và từ đây trong khe núi, bên ngàn,
Các Em dạo, làm những hồn oan khổ.
oOo
Anh bơ vơ lạc trên đường thiên cổ,
Lạnh tâm tư, mờ tỏ ánh tinh cầu.
Mất anh rồi, Các Em sẽ về đâu ?
Đinh Hùng chết để sự nghiệp thơ ông trở thành bất tử” (Văn học hiện đại).
No comments:
Post a Comment