NGHĨA ĐEN VÀ NGHĨA BÓNG -
Dựa theo nghĩa hiện có sẵn của một từ đa nghĩa, người ta phân loại
chúng: nghĩa gốc/nghĩa phái sinh; nghĩa tự do/ nghĩa hạn chế; nghĩa
thường trực (nghĩa đã ổn định tức là nghĩa từ vựng)/nghĩa không thường
trực (nghĩa ngữ cảnh trong nghệ thuật). Thực tế, một từ có nghĩa mới,
bao giờ nó cũng mới lạ, và dường như chẳng dựa trên một tiêu chuẩn nào
cả. Nó xuất hiện từ một sự kiện xã hội hay tâm lý hoàn toàn tình cờ.
Nhất là từ trong sáng tạo thơ văn. Nghĩa mới thêm vào, do đó, dường như
có một sự khác biệt nào đó so với nghĩa đã được biết, được gọi là nghĩa
bóng. Thành thử, theo một sự phân loại tổng quát cổ điển, từ đa nghĩa có
thể phân thành hai: nghĩa đen và nghĩa bóng. Theo Lê Đình Tư & Vũ Ngọc Cân, “đây
chỉ là cách gọi khác của nghĩa cơ bản và nghĩa mở rộng, chỉ có điều
khái niệm nghĩa bóng theo cách hiểu thông thường có nội hàm hẹp hơn
nghĩa mở rộng, và do đó, người ta thường nói tới nghĩa bóng trong những
trường hợp nghĩa mở rộng gợi ra sự liên tưởng nước đôi hay hiệu quả văn
học.”[1]
Khái niệm nghĩa đen và nghĩa bóng đã được Aristotle đề cập đến trong khi bàn về ẩn dụ trong hai tác phẩm Poetics và Rhetoric.
Ông phân biệt ra những chữ thông thường được sử dụng trong cách dùng
hàng ngày và những chữ xa lạ, tức là chữ đặc biệt, nói tóm lại là tất cả
những gì khác với cách dùng thông thường, là chữ có nghĩa thoát ra khỏi
sự tầm thường, dung tục, được dùng trong ẩn dụ.
César Chesneau Dumarsais, trong tác phẩm “Tropes” (dụ pháp), cho
nghĩa bóng thuộc về “dụ thái” (figures) là hình thái trong đó, “người ta
cho một chữ một nghĩa rõ ràng không thuộc về chữ đó”[2].
Tiếp nối Dumarsais, Fontanier mở rộng thêm và đi sâu hơn vào bản chất
của không những “những dụ thái mà tất cả dụ thái”. Với lý thuyết về dụ
thái, Fontanier phân biệt rõ ràng vai trò của nghĩa bóng và nghĩa đen
trong ngôn ngữ.
Theo Fontanier, ý tưởng của con người được biểu hiện ở chữ. Chữ thì dính liền với nghĩa. Ông phân ra ba loại nghĩa:[3]
- Nghĩa khách quan (sens objectif) (của một mệnh đề): là nghĩa mà nó
có một cách tương đối về sự vật mà dựa vào đó nó hình thành. Có nhiều
loại nghĩa khách quan: thể từ hay tĩnh từ, hoạt động hay thụ động, tuyệt
đối hay tương đối…Nói tóm lại, nghĩa khách quan là loại nghĩa có tính
cách ngữ pháp.
- Nghĩa đen (sens littéral): là nghĩa xuất phát từ chữ hiểu sát theo
chữ (à la lettre), nghĩa là những chữ được hiểu theo cách tiếp nhận
chúng trong cách dùng thông thường, là nghĩa trực tiếp đến với tinh thần
của những người thông hiểu thứ ngôn ngữ đó.
Nghĩa đen chỉ lệ thuộc vào một chữ duy nhất, hoặc là nguyên thủy
(primitif), tự nhiên và riêng (naturel et propre), hoặc là từ phát sinh
(dérivé) và có thể chuyển nghĩa (tropologique). Phép chuyển nghĩa xảy
ra, hoặc do nhu cầu và do sự mở rộng, để bổ sung cho những chữ thiếu một
số ý tưởng nào đó trong ngôn ngữ; hoặc do sự chọn lựa và do dụ thái, để
trình bày những ý tưởng dưới những hình ảnh sống động hơn và gây ấn
tượng hơn các ký hiệu riêng của chúng.
- Nghĩa tinh thần (sens spirituel): còn gọi là nghĩa quanh co (détourné) hay nghĩa bóng (figuré) là nghĩa mà nghĩa đen làm phát sinh trong tinh thần do tình huống diễn ngôn,
do giọng nói hay do liên hệ giữa những ý tưởng được diễn tả ra với
những ý tưởng không được diễn tả. Gọi là tinh thần vì tất cả đều thuộc
về tinh thần và vì tinh thần tạo nên nó hay tìm thấy nó . Nó không hiện
hữu đối với những ai chỉ hiểu sát theo từng chữ, đối với những ai không
hề biết rằng chữ (lettre) thì làm mất đi còn tinh thần thì làm sống lại.[4]
Trong lời tựa cho Les figures du discours được tái bản hơn 200
năm sau ngày Fontanier mất, Gérard Genette viết: “Dụ thái”, tức là
nghĩa bóng, “chỉ hiện hữu chừng nào mà người ta đối nghịch với nó một ý
tưởng nghĩa đen”.[5] Nói cách khác, đen/bóng là hai mặt đối lập của nghĩa.
Có lẽ nếu không có hiện tượng đa nghĩa thì sự phân chia đen/bóng
không gây ra một hậu quả gì trầm trọng. Đơn giản là vì, ai thích loại
nghĩa nào thì cứ thoải mái sử dụng chữ liên hệ. Không có gì dính dáng
đến cái gì. Cái phiền là cả hai (hoặc nhiều) nghĩa đều cùng dùng chung
một chữ. Tưởng tượng cái cảnh hai (hay nhiều) người đàn ông có cùng
chung một vợ hay nhiều người đàn bà có cùng chung một chồng. Nó khiến
nghĩa này chen lộn với nghĩa kia, tạo nên một sự nhập nhòe. Sự chen lộn
được tận dụng để biến thành một nghệ thuật: nghệ thuật tu từ. Vào các
thế kỷ 17, 18, xuất phát từ sự tranh cãi ở toà án và ngoài quần chúng,
nghệ thuật tu từ được hệ thống hóa thành các quy luật, được soạn thành
sách, là bản chỉ nam cho các môn sinh muốn trở thành những tay hùng
biện. Do dính líu đến chuyện giáo dục, nơi cần phải xem xét thử có nên
được cho phép dạy dỗ hay không, dạy ở đâu và lúc nào, sự tách bạch
đen/bóng lại càng quan trọng và cần thiết. Thomas Hobbes khẳng định: hệ
thống ý niệm con người chủ yếu là nghĩa đen. Ngôn ngữ nghĩa đen là
phương tiện thích hợp duy nhất để diễn tả nghĩa của nó một cách rõ ràng
và xác lập chân lý, giúp cho các triết gia lý luận đúng, còn nghĩa bóng
là một sự lệch ra khỏi tiêu phạm. Nó trở thành một điều độc hại.[6]
Khuynh hướng tôn sùng nghĩa đen trong lịch sử tu từ học như cách nhìn
của Hobbes được Richards gọi một cách hình tượng là sự “mê tín nghĩa
đen” (proper meaning superstition). Mê tín nghĩa đen là niềm tin sai lầm
cho rằng mỗi một chữ có một ý nghĩa đặc thù, rõ ràng mà mọi người đều
có thể hiểu một cách dễ dàng. Theo Richards, nghĩa không hiện hữu trong
chữ, nhưng trong con người như là kết quả của kinh nghiệm mà họ đã có về
cuộc đời. Xem quan niệm nghĩa đen là mê tín, Richards tấn công trực
tiếp vào lý thuyết quả quyết rằng chữ chứa đựng nghĩa và khi người ta sử
dụng chữ, chúng có thể truyền đạt có hiệu quả. [7]
Là những biểu tượng quy ước có tính cách độc đoán, chữ không hề có
nghĩa vốn sẵn. Giống như những con kỳ nhông thường đổi màu sắc tùy theo
môi trường chung quanh, chữ, theo Richards, nhận cái nghĩa của ngữ cảnh
trong đó một cá nhân gặp phải. Điều này cho thấy rằng “hầu hết chữ, khi
chúng chuyển từ ngữ cảnh này đến ngữ cảnh khác, thay đổi nghĩa của
chúng.”[8] Nói một cách khác, nghĩa của chữ là hoàn toàn tương đối.
Saussure bàn về nghĩa đen và nghĩa bóng với một cái nhìn khác. Cũng trong cùng tài liệu đã đề cập ở trên[9],
đoạn 23 tựa đề “Sens propre et sens figuré”, Saussure xác định “Nếu chữ
không gợi nên ý tưởng của một sự vật vật chất, thì tuyệt đối không có
gì có thể định rõ ý nghĩa một cách khác hơn là bằng con đường tiêu cực”[10].
Sao gọi là tiêu cực? Tiêu cực, nghĩa là một chữ không thể tự đứng một
mình nếu không có những chữ khác với nó kết hợp nhau trong một hệ thống
tương quan bổ sung và đối nghịch. Khi tên của một sự vật được sử dụng
cho nhiều điều khác nhau, “ánh sáng” chẳng hạn: “ánh sáng” của mặt trời,
“ánh sáng” của lịch sử, “ánh sáng” của đất nước, thì người ta thường
cho rằng có một nghĩa mới (gọi là nghĩa bóng) được tạo ra. Thực ra,
nghĩa nào cũng là kết quả của tương quan. Chỉ có thể có nghĩa bóng nếu
nghĩa của chữ là “xác định” (positif), nghĩa là khi nào chữ có một giá
trị tuyệt đối do mang trong chính nó những “đặc tính của sự vật”
(propriétés de choses), những đặc tính tự chúng hiện hữu hoàn toàn độc
lập với ngôn ngữ. Ví dụ như những chữ mặt trăng, mặt trời, đàn bà phải
được kiến tạo bằng những đặc tính xác định của mặt trăng, mặt trời, đàn
bà là những sự vật mà chúng tượng trưng. Nhưng điều đó là hoàn toàn bất
khả. Vậy thì, “Không có sự khác biệt giữa nghĩa đen và nghĩa bóng của
chữ (hoặc là: chữ không hề có nghĩa bóng nào khác hơn nghĩa đen), bởi vì
nghĩa của chúng là hoàn toàn tiêu cực”[11], theo Saussure.
Khác với Saussure bàn về nghĩa trên quan điểm ký hiệu học, Lakoff bài
bác nghĩa đen trên quan điểm “ngữ học nhận thức” (cognitive
linguistics). Nhìn qua dòng lịch sử, Lakoff nhận thấy rằng cái gọi là
nghĩa đen được người ta xem như là hiển nhiên, và vì là hiển nhiên nên
không ai mất công bàn cãi. Rốt cuộc, theo ông, có một thứ “lý thuyết về
nghĩa đen” tiềm ẩn trong mọi cách lý luận về ngôn ngữ, dù trong thực tế,
không có ai tự nhận mình là tác giả của một lý thuyết như thế [12].
Khái niệm đầu tiên và căn bản của lý thuyết này là tính tự trị ngữ
nghĩa (semantic autonomy). Một diễn đạt ngôn ngữ là tự trị nếu nghĩa của
nó hoàn toàn là của riêng nó, không có một ý nghĩa nào xuất phát từ ẩn
dụ, cũng chẳng có tương quan nào với những ý niệm khác nằm ngoài nghĩa
cũ. Tự trị ngữ nghĩa cũng là tự trị vô ý niệm (nonconceptional
autonomy), cho rằng hoặc là không có ý niệm hoặc là ý niệm chẳng có vai
trò gì trong việc hình thành ý nghĩa. Chữ và câu chỉ có nghĩa xuyên qua
cái chúng chỉ định ở ngoại giới, không qua nhận thức con người
(mind-free).
Lakoff ghi nhận ba điểm chính được bao hàm trong quan niệm về nghĩa đen:
- Nếu một diễn đạt ngôn ngữ là ngôn ngữ có tính quy ước và thông
thường, thì nó có tính chất tự trị về mặt ngữ nghĩa và do đó, có thể quy
chiếu với hiện thực.
- Không một ngôn ngữ quy ước và thông thường nào là có tính chất ẩn dụ.
- Không ẩn dụ nào là nghĩa đen.[13]
Trong trường hợp đó, một câu chỉ có thể có nghĩa nếu nó diễn tả một
mệnh đề có thể đúng hay sai, nghĩa là có thể biểu trưng một trạng thái
sự việc (state of affairs) trong một thế giới khách quan, vô niệm. Hiện
thực khách quan bao gồm những trạng thái trong thế giới hoàn toàn độc
lập với tư duy con người. Thế giới đó gồm những sự vật, đặc tính sự vật,
tương quan giữa các vật, loại sự vật. Những ý tưởng trong ngôn ngữ quy
ước diễn tả được tất cả những điều đó. Do đó, chân lý hay sai lầm là
tuyệt đối.
Lakoff gọi quan điểm này là khách quan chủ nghĩa, theo đó, một ý
tưởng ẩn dụ có thể chỉ có nghĩa nếu nó có thể được cải tả (paraphrase)
thành một ngôn ngữ phi-ẩn dụ, nghĩa là nghĩa đen. Khách quan chủ nghĩa,
theo ông, là một “ngụy luận”[14],
vì nó không thừa nhận chân lý hay sai lầm liên quan đến hệ thống ý
niệm. Khái niệm nghĩa đen là hoàn toàn sai lầm, không thích hợp với sự
phân tích ngôn ngữ tự nhiên thực sự.
Sự bài bác nghĩa đen, theo tôi, không có nghĩa là bài bác sự hiện hữu
của một nghĩa đầu tiên, nghĩa gốc của chữ. Và lại càng không có nghĩa
là để đề cao nghĩa bóng. Nói đúng hơn, bài bác nghĩa đen có nghĩa là bài
bác một quan niệm cho rằng nghĩa đen là nghĩa tiêu chuẩn mà từ đó các
nghĩa khác đều dựa vào. Nhiều nghĩa khác – nghĩa bóng – của chữ xuất
hiện do mối tương quan với những chữ khác trong cấu trúc và do mối tương
quan vói hiện thực, chứ không chỉ “dựa” vào nghĩa đen. Từ “nghĩa đen”,
thực ra, là một hình thức “ẩn dụ chết”, vì từ lâu đã biến thành từ vựng.
Nghĩa đen của một chữ cũng chỉ là một nghĩa trong nhiều nghĩa khác, nằm
trong hiện tượng từ đa nghĩa.
Lakoff cho rằng hạn từ “nghĩa đen” đã có mặt và không thể biến mất,
nên ông đề nghị sử dụng từ “nghĩa đen” như một chức năng hữu ích dùng
như một hạn từ phi-kỹ thuật, tiện dụng hoặc như là nguồn của một ẩn dụ.[15]
Chữ/nghĩa mới
Ngôn ngữ là dụng cụ năng động nhất trực tiếp liên quan đến mọi sinh
hoạt hàng ngày của con người. Đó là một vật sống, chịu ảnh hưởng của các
biến động diễn ra trong hiện thực. Theo thời gian, một số chữ đi vào
bóng tối, bị quên lãng và có thể biến mất. Một số chữ khác có thể vẫn
còn, nhưng biến nghĩa. Trong lúc đó, nhiều chữ mới được khai sinh, tăng
cường thêm số lượng từ vựng để đáp ứng với nhu cầu thông tin và các nhu
cầu khác. Có những chữ do con người (nhà văn, nhà thơ, nhà khoa học, nhà
báo…) chủ động sáng tạo nhằm diễn tả những khái niệm, sự kiện hay những
ý tưởng mới. Nhưng cũng có nhiều chữ tự động khai sinh, đôi khi khai
sinh một cách đột ngột, do những biến cố lớn gây chấn động và làm xáo
trộn đời sống mọi người. Năm 2000 chẳng hạn, trong cuộc bầu cử tổng
thống gây ra nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử bầu cử ở Mỹ, "chad" là
từ nổi bật hàng đầu, kéo theo nhiều từ khác được khai sinh do việc đếm
phiếu ở bang Florida: hanging chad (chéc treo), bulging chad (chéc lồi), dimpled chad (chéc lõm), pregnant chad (chéc có bầu) hay hand recount (đếm phiếu bằng tay), butterfly ballot
(phiếu bướm)… Năm 2001, biến cố 11/9 khai sinh một loạt từ, từ những từ
cũ được thêm nghĩa cho đến những từ hoàn toàn mới. Chúng được trui rèn
trong biến cố và những hậu quả tất yếu của nó để từ trong bóng tối,
chúng bắn vọt vào sinh hoạt hàng ngày. Và rồi, qua tay những nhà biên
soạn tự điển (lexicographers), chúng từng bước trở thành ngôn ngữ chính
thức được ghi vào tự điển.
Hàng năm, người ta ước tính có chừng 800 từ vựng mới gọi là neologism thêm vào trong tiếng Anh. Để có từ mới, Peter Sokolowski, cộng tác viên biên tập của Công ty biên soạn tự điển Merriam-Webster’s Collegiate® Dictionary, cho
biết: “Chúng tôi theo dấu những con chữ (…) năm này qua năm khác cho
đến khi chúng tôi cảm thấy nghĩa của chúng đã ổn định đủ để cho chúng
vào trong tự điển”. Hãy thử xem một số chữ mới đã được đưa vào tự điển Merriam-Webster’s Collegiate® Dictionary năm 2011[16]:
crowdsourcing: the practice of obtaining
information from a large group of people who contribute online (thực
hành tìm kiếm thông tin từ một nhóm đông người trên mạng).
m-commerce: a business transaction conducted using a mobile
electronic device (một dịch vụ kinh doanh được thực hiện bằng một thiết
bị điện tử di động).
bromance (ghép bro (ther) và romance): a close nonsexual friendship between men (tình bạn thân thiết lành mạnh giữa những người đàn ông)
boomerang child: a young adult who returns to live at his or
her family home especially for financial reasons (một thiếu niên trở về
sống với cha mẹ vì có khó khăn về tài chánh/hồi gia).
helicopter parent: a parent who is overly involved in the life
of his or her child (một người cha hay mẹ dính dáng quá mức đến cuộc
sống của con cái, như chiếc máy bay trực thăng bay vòng vòng trên đầu
đứa con)
Từ tiếng Anh hay Pháp đa âm nên có thể ghép âm, thêm tiếp đầu ngữ hay
tiếp vĩ ngữ vào một từ cũ, nên có một số chữ có hình thức ký hiệu mới,
giống như một từ hoàn toàn mới.[17]
Trong thực tế, rất hiếm khi có một từ hoàn toàn mới. Chủ yếu vẫn là
thêm nghĩa mới vào từ cũ. Như đã đề cập ở trên, đó là hiện tượng tích
lũy nghĩa, hiện tượng đa nghĩa. Trên đây, ta thấy những chữ như boomerang hay helicopter đã có thêm nghĩa mới trong lúc nghĩa cũ vẫn còn đó. Từ chỗ là một vũ khí của người thổ dân, boomerang có
nghĩa là “đòn bật lại” bây giờ có nghĩa mới là “hồi gia” ; từ chỗ là
tên của một chiếc máy bay cất cánh thẳng, dùng để bay vòng vòng với mục
đích quan sát bên dưới, helicopter có thêm nghĩa mới là sự “quan tâm quá mức”.
Tiếng Việt đơn âm, nên không thể tạo ra hình thức mới của từ, mà chỉ
bằng cách ghép các chữ riêng lẻ lại với nhau. Trong nước, trong thời
gian vừa qua, ta tìm thấy trên báo chí một số từ mới: diễn biến hòa bình, lề phải, lề trái, thế hệ a còng, dân oan, tàu lạ, lộ hàng, khúc ruột ngàn dặm…
“Diễn tiến hòa bình” chỉ sự thay đổi chế độ mà không dùng bạo lực
(tương đương với “regime change” trong tiếng Anh), “lề trái” chỉ những
nhà báo viết bài không đi theo sự chỉ đạo của đảng Cộng Sản cầm quyền.
Trong số này, tàu lạ có một lai lịch khác thường. “Lạ” có
nghĩa là “không quen”, nhưng theo Nguyễn Hưng Quốc, “…đến năm 2009 vừa
qua, chữ “lạ” này lại được sử dụng một cách vô cùng khác lạ, nếu không
nói là quái lạ. Quái, vì nó được dùng để chỉ một điều hầu như ai cũng
biết. Từ vị thế phản nghĩa, nó bỗng dưng trở thành đồng nghĩa với chữ
“quen”[18]. Tàu lạ hóa ra là “tàu quen”, tức tàu Trung Quốc.
Ở hải ngoại, ta cũng tìm thấy một số từ mới: cưỡng chiếm, thuyền nhân, tháng Tư Đen, ăn oeo-phe (welfare), cờ máu, cộng đồng, đón gió trở cờ…
“Tháng Tư Đen” chỉ ngày Sài Gòn rơi vào tay quân Cộng Sản; “ăn
oeo-phe”, từ ghép Việt-Mỹ, có ý nghĩa tiêu cực ám chỉ những cư dân Mỹ
sống nhờ trợ cấp xã hội; “đón gió trở cờ” chỉ những thành phần chống
Cộng thay đổi lập trường, chủ trương hòa hợp hòa giải với nhà cầm quyền
trong nước…vân vân.
Ta nhận thấy trước hết, nghĩa của từ mới chỉ có thể được hiểu bên
trong ngữ cảnh của nền văn hóa mà nó phát sinh hay qua bối cảnh mà một
sự kiện đặc thù nào đó diễn ra. Ta không thể hiểu được hai chữ “tàu lạ”
nếu không hiểu về chính sách nước đôi kỳ quặc của nhà cầm quyền Cộng Sản
Việt Nam đối với thái độ hung hăng của Trung Quốc trong cuộc tranh chấp
biển Đông. Ta không thể hiểu “khúc ruột ngàn dặm” nếu không hiểu được
chính sách của nhà cầm quyền Việt Nam muốn dụ khị những người vượt biên,
tị nạn Cộng Sản quay về ủng hộ nhà nước Cộng Sản. Ngược lại, ta không
thể hiểu những chữ “cưỡng chiếm” (miền Nam) hay “tháng Tư Đen” hay “cờ
máu” (chỉ cờ đỏ sao vàng) nếu không sống trong tâm cảm của những người
miền Nam bỏ nước ra đi vì căm ghét Cộng Sản.
Cũng thế, ta không thể hiểu từ nipplegate (tai tiếng núm vú)
nếu không nắm vững được sự kiện ca sĩ Janet Jackson bất ngờ để lộ một
bên ngực trong lần trình diễn tại Superbowl năm 2004: nipple ghép với tiếp vĩ ngữ gate. Gate,
cách nói gọn từ chữ “Watergate” là tên một cao ốc, nơi xảy ra vụ tai
tiếng lớn làm tổng thống Richard Nixon phải từ chức năm 1974. Từ một
danh từ riêng, “gate” thêm một nghĩa mới là “tai tiếng” (scandal). Chữ lộ hàng
hiện đang được sử dụng nhiều trên báo chí Việt Nam trong nước có cùng
một ý nghĩa như (và có thể dùng để dịch) “nipplegate” hay “wardrobe
malfunction”[19]. Hàng ở đây có thêm nghĩa mới: những bộ phận “nhạy cảm” trên thân thể người phụ nữ.
Dò tìm cơ cấu của ẩn dụ ý niệm nối hai lãnh vực khác nhau cho chúng
ta biết một ý niệm mới hay ý niệm chưa biết dựa theo ý niệm cũ như thế
nào. Như thế, hàm nghĩa của từ mới thường vuột hẳn khỏi nghĩa đã từng
biết (không hẳn là nghĩa đen), và được thúc đẩy bởi liên tưởng trừu
tượng. Có thể nói, nghĩa mới bao giờ cũng là “dụ ngữ”, nghĩa là có tính
cách bóng bẩy.
Những không đâu mà nghĩa mới tràn ngập bằng trong văn chương, nhất là
trong thơ. Có thể nói, văn chương là một nguồn suối vô tận của nghĩa
mới. Bằng cách thêm nghĩa vào ngôn ngữ, văn chương giúp chúng ta khám
phá ra trong thế giới những điều gì vốn chưa hề được nhìn thấy trước đó.
Nó không thể thay đổi hiện thực, dĩ nhiên, nhưng làm thay đổi cách
nhìn, cách quan hệ với hiện thực, nghĩa là, cách chúng ta cư ngụ trong
thế giới.
Ta nhặt từng trang sách rách toang Đứa ngu đã xé vứt ra đường Ta gom từng hạt cây luân lạc Mong mỏi gầy lên một địa đàng (Tô Thùy Yên)
Bốn câu thơ cho thấy một cách nhìn tuy quen mà rất lạ hình ảnh
miền Nam trong chính sách gọi là bài trừ văn hóa đồi trụy rất đỗi sai
lầm của nhà cầm quyền Cộng Sản đối với nền văn hóa miền Nam, sau ngày
30/4/1975.
*
Xin lập lại: chữ là ký hiệu. Bản thân của một ký
hiệu là hoàn toàn hình thức và nghĩa của nó được hình thành là do tương
quan. Ngay cái nghĩa đầu tiên, nghĩa gốc của một chữ, cũng hình thành
trên tương quan: tương quan giữa vật, ý thức và ký hiệu. Gọi đó là nghĩa
gốc, nghĩa đen thì cũng được. Nhưng gọi đó là nghĩa bóng thì cũng không
có gì sai vì bóng bẩy chỉ là dùng cái này để ví von cái khác. Trong lúc
không thể gọi sự vật bằng chính hiện hữu của bản thân nó, ta đành phải
vay mượn một ký hiệu. Chữ, nói cho cùng, là một cách ví von: ví sự vật
với một ký hiệu. Phần đông những chữ hay từ vựng là sản phẩm của những
ẩn dụ bị quên lãng. Nhiều ngôn ngữ khác nhau, nếu được đặt cạnh
nhau, ta sẽ thấy ngay tính chất quan trọng đối với chữ không bao giờ là
chân lý, không bao giờ là một diễn đạt hoàn toàn. Với Nietzsche, không
có nghĩa đen tự nó.[20]
Nghĩa chỉ là một sự áp đặt. Derida cho rằng, khi ta đọc một ký hiệu,
nghĩa của nó không rõ ràng ngay đối với ta. Nghĩa luôn luôn di chuyển
dọc theo một chuỗi những ký hiệu và ta không biết rõ nơi nào là “trú sở”
của nó. Ký hiệu luôn luôn dẫn đến ký hiệu. Để nhận biết chữ này ta phải
dùng đến chữ khác. Để hiểu nghĩa của một chữ, ta lại phải dùng đến
nghĩa khác của nó. Cứ thế. Derrida cũng cho rằng tất cả mọi ngôn ngữ đều
là ẩn dụ, bao giờ cũng sử dụng nghĩa bóng và dụ pháp. Tác phẩm văn
chương là ít lừa dối hơn những hình thức diễn ngôn khác vì chúng nhận
biết tính chất tu từ của riêng chúng.[21]
Thay vì phân biệt đen/bóng, Beardsley phân biệt ý nghĩa sơ cấp và ý
nghĩa thứ cấp. Nghĩa sơ cấp là nghĩa rõ ràng, tỏ lộ. Nghĩa thứ cấp là
nghĩa gợi ra, không đóng vai trò chính như nghĩa sơ cấp. Nó ẩn tàng. Tất
cả mọi loại câu, ở những mức độ khác nhau, đều chứa đựng nghĩa ẩn tàng.
Chữ, trong tình trạng cô lập, có ý nghĩa, nhưng là một phần của câu.
Người ta chỉ hiểu chữ nếu nó nằm trong câu. Nghĩa tỏ lộ của một chữ là
tên gọi, là sự chỉ định của nó (désignation). Ý nghĩa ẩn tàng là hàm
nghĩa (connotation). Trong một số ngữ cảnh nào đó, như trong các tài
lìệu khoa học, kỹ thuật, chữ loại bỏ hoàn toàn hàm nghĩa không cần của
một chữ đã cho. Trong một số ngữ cảnh, hàm nghĩa được giải thoát; đó là
thứ hàm nghĩa, ở đó, ngôn ngữ trở nên bóng bẩy và mang tính ẩn dụ. Có
thể nói trong một diễn ngôn như thế, nó vừa bao gồm nghĩa sơ cấp và
nghĩa thứ cấp, do đó, thành ra đa nghĩa. Đa nghĩa, theo cách hiểu của
Bearsley, không đồng nghĩa với mơ hồ. Chỉ có sự mơ hồ khi nào chỉ có một
nghĩa là cần, nhưng ngữ cảnh lại không cung cấp lý do để nhận biết
nghĩa đó. Văn chương đặt chúng ta vào một diễn ngôn, ở đó, có nhiều điều
có ý nghĩa cùng một lúc và người đọc không cần phải chọn lựa giữa
chúng.[22]
Trần Hữu Thục (4/2012)
[1] Lê Đình Tư & Vũ Ngọc Cân, bài đã dẫn
[2] On fait prendre à un mot une signification qui n’est pas précisément la signification de ce mot/Dẫn theo Jan Plug, Figurative language,
Xem ở: http://www.flsh.unilim.fr/ditl/Fahey/LANGAGEFIGURFigurativelanguage_n.html
[3] Pierre Fontanier, Les figures du discours, tr. 55-59
[4] lettre tue, esprit vivifie
[5] Gérard Genette, lời tựa cho “Les figures du discours”, Pierre Fontanier, sách đã dẫn, trang 10
[6] Xem Trần Hữu Thục, “Ẩn dụ/qua dòng lịch sử” trang mạng Da Màu: http://damau.org/archives/23596
[7]
C.K. Ogden and I.A. Richards, The meaning of meaning, trong “Semantic
Triangle”, Harcourt, Brace & World, NY, 1946, dẫn lại theo Allie
Cahill, "Proper Meaning Superstition" I. A. Richards, http://www.colorado.edu/communication/meta-discourses/Papers/App_Papers/Cahill.htm
[8]
Em Griffin nhận định rằng, Richards dùng chữ ngữ cảnh (context) để quy
cho nhiều biến cố xảy ra, không chỉ là một câu hay ngay cả tình hình
trong đó chữ được nói ra. Ngữ cảnh ở đây là toàn thể lãnh vực kinh
nghiệm có thể gắn liền với một biến cố, kể cả những tư tưởng về những
biến cố tương tự. Griffin phê phán Richards chỉ chú trọng đến nghĩa từng
chữ một mà không chú ý đến cú pháp (syntactics), Cú pháp liên quan đến
quan hệ giữa các chữ. Richards quên rằng hầu hết các chữ cá nhân có rất
ít ý nghĩa từ bản thân chúng. Nghĩa của chúng tùy thuộc vào vị trí nằm
trong câu.
(Dẫn theo Em Griffin, A First Look at Communication Theory, McGraw-Hill, Inc. 1997. Xem ở:
http://highered.mcgraw-hill.com/sites/dl/free/0073385026/228359/meanmean2.html
Ricoeur bênh vực Richards, cho rằng ngữ cảnh ở đây là diễn ngôn. Chỉ
có diễn ngôn xem như một toàn thể mới có ý nghĩa, mang ý nghĩa một cách
không thể phân chia. Con người là những sự vật (choses) đáp ứng với
những sự vật khác. Sự vật không phải là chữ mà là ngữ cảnh (context).
Ngữ cảnh của một diễn ngôn chính là một phần của một ngữ cảnh rộng lớn
hơn. (Xem Métaphore vive, trang 101)
[10]Autrement
dit, si le mot n’évoque pas l’idée d’un objet matériel, il n’y a
absolument rien qui puisse en préciser le sens autrement que par voie
négative."
[11] Il
n’y a pas de différence entre le sens propre et le sens figuré des mots
(ou: les mots n’ont pas plus de sens figuré que de sens propre), parce
que leur sens est éminemment négatif.
[12] George Lakoff and Mark Turner, More than cool reason, The University of Chicago Press, 1989, trang 136
[13] George Lakoff and Mark Turner, More than cool reason, The University of Chicago Press, 1989, trang 118
[14] George Lakoff and Mark Turner, trang 118
[15] Như trên, 119
[17]
Nhưng cũng có những từ có hình thức “mới” hoàn toàn, không giống bất cứ
hình thức cũ nào. Những từ này thường được tạo ra bằng cách kết hợp
những từ hiện có hay bằng cách thêm vào chữ có sẵn những tiếp vĩ ngữ hay
tiếp đầu ngữ (brunch = breakfast + lunch), c Radiation.
[18] Nguyễn Hưng Quốc, 2009: Năm hoành hành của những “kẻ lạ”
http://www.voanews.com/vietnamese/news/a-19-2009-12-31-voa32-82745312.html
[19] an unanticipated exposure of bodily parts = một sự để lộ bất ngờ những phần kín đáo trên cơ thể.
[20] Nietzsche, On Truth and Lie in an Extra-Moral Sense, xem ở http://www.geocities.com/thenietzschechannel/tls.htm#2
[21] Dẫn theo Madan Sarup, An introductory Guide to Post-Structuralism and Post-modernism, The University of Georgia Press, Athens, GA 1993,
tr. 46
[22] Monroe Beardsley, Aesthethics, Hartcourt, Brace & World, New York 1958, dẫn theo Paul Ricoeur, Métaphore vive, tr. 117-118
- See more at: http://damau.org/archives/23955#sthash.EmAYlsxI.dpuf
No comments:
Post a Comment