Sống cuộc đời của mình phải đưa ta đến một cảm giác viên mãn, từng phút khởi nguồn sáng tạo và cùng với những người khác phải tạo ra tinh thần trách nhiệm toàn nhân loại; tri thức phải giúp
chúng ta khám phá ra bản chất của thế giới xung quanh và bản chất của tâm linh con người.
Đó
cũng là tiền đề ra đời của khoa học,
triết học, chính trị, nghệ thuật, hành động xã hội và tâm linh.; không có tri
thức được nuôi dưỡng bằng lòng vị tha thì khoa học và chính trị sẽ trở thành
những con dao hai lưỡi, đạo đức trở nên mù quáng, nghệ thuật phù phiếm, xúc cảm
hoang dã và tâm linh viển vông. Không có hiểu biết, tri thức sẽ suy vong; không
có đạo đức, tất cả các hoạt động nay rẽ trở nên nguy hiểm, và không có sự tu
chính tâm linh chúng ta sẽ trở nên vô nghĩa.
Từ
thế kỷ XVII cho thấy đến nay, hầu như tất cả mọi người đều cho rằng khoa học
ngày càng đồng nghĩa với tri thức
Hoạt động tôn giáo đã suy giảm tại các xã hội vô thần và dân chủ, và thường có
xu hướng cấp tiến hoá tại các xã hội do các Quốc giáo cai trị.
Nền
tảng của tôn giáo - tình yêu và lòng trắc ẩn - đã bị sai lệch hết sức thảm hoạ
do những biến cố lịch sử.
Nhưng
tham vọng của khoa học muốn biết tất cả là hoàn toàn ảo tưởng: khoa học về cơ
bản bị giới hạn . Hơn nữa, khoa học không có gì để nói về lẽ sống của con
người. Các nhà khoa học cũng vấp phải những vấn đề về đạo đức nảy sinh từ chính
những phát minh của họ.
Chỉ có những phẩm chất của con người mới có thể định hướng được cách tác động
vào thế giới của chúng ta. Vậy mà những phẩm chất này chỉ có thể nảy sinh từ
một “khoa học về tâm linh”. Nghiên cứu tâm linh không phải là trò để làm sang
mà là một đòi hỏi tất yếu.
Miệt
mài trong suốt nhiều thế kỷ với nghiên cứu và tìm kiếm đã không làm cho con
người phát triển được chút nào trên con đường tiến tới một chất lượng tồn tại
cao hơn, trừ khi chúng ta quyết định tập trung những nỗ lực của chúng ta theo
hướng đó. Đời sống tâm linh phải được thực hiện với những quy định nghiên ngặt
của khoa học, nhưng khoa học lại không mang trong những mầm mống của tâm linh
Bên
cạnh đó, trong vòng 20 năm trở lại đây, một cuộc đối thoại giữa khoa học và
Phật giáo đã được mở ra .. Những cuộc trao đổi này tạo thành một yếu tố liên
tục của tri thức, của sự hiểu biết về bản chất của các hiện tượng và của ý
thức.
Sự
khác biệt lớn nhất giữa khoa học và phật giáo nằm ở tính mục đích của chúng.Đối
với phật giáo, nhận thức trước hết là một liệu pháp tinh thần. Đó là sự tự giải
phóng khỏi đau khổ mà nguyên nhân của nó là một dạng đặc biệt của sự thiếu hiểu
biết dẫn đến một quan niệm sai lệch về
hiện thực bên ngoài và về cái “tôi” mà ta thường hình dung là trung tâm của sự
tồn tại của chúng ta.
Sự
biến đổi bên trong dẫn đến giác ngộ là một cấp độ hoàn toàn khác với công việc
nghiên cứu triết học hay tìm kiếm của các khoa học mô tả. Phật giáo chủ yếu là
một khoa học của giác ngộ và, với quan niệm này thì, dù Trái đất tròn hay dẹt
thì cũng chẳng có gì thay đổi cả.
1 comment:
Anh Chính thân,
Đọc lá thư anh gửi, tôi nhớ lời Rabelais:"Science sans conscience n'est que ruine de l'âme." Khoa học thiếu lương tri là sự hủy hoại tâm linh." Tự bản chất, khoa học là kết quả của nhu cầu hiểu biết tự nhiên của con người - khoa học giải thoát chúng ta khỏi những lầm lạc tri kiến (tà kiến, chữ của Phật). Nhưng khi biến thành công cụ để cai trị và sản xuất trong tay tư bản kỹ trị(capitalisme technocratique) khoa học đánh mất lương tri vì phải phục vụ cho tham vọng và tính tham lam của chủ nhân. Kết quả là chiến tranh, là phá sản sinh thái, khủng hoảng kinh tế vì mất cân đối trong tái phân phối thặng dư,v.v. Trong thảm kịch lớn hôm nay, chúng ta cần đối trọng văn hóa, và Phật giáo là một "liệu pháp tinh thần" để cứu khổ cứu nạn ( khổ nạn của từng cá nhân trong cái khổ chung của vô số nạn nhân do một phương thức sản xuất mù lòa vì lợi nhuận gây ra). Văn học nghệ thuật đóng được vai trò gì trong kịch bản này, theo tôi đây là câu trả lời cho chức năng của nó.
Post a Comment