Tại sao khi tác giả nói rõ ra là
    họ không muốn công bố tác phẩm của mìnnh, thì ta lại đem công bố chúng?
    Những bức thư của Willa Cather không được cho ai xem kể từ cái chết của bà
    năm 1947. Bà có thể đang lăn lộn trong mộ phần của mình khi mà giờ đây
    người ta đã xuất bản cả tập thư từ dày cộm của bà. Nhưng bà không phải
    người đầu tiên bị người ta lờ đi mong muốn của mình: nó xảy đến với nhiều
    nhà văn, sớm muộn gì cũng vậy. 
  
Người thừa kế của Ernest
    Hemingway quyết định xuất bản tác phẩm cuối đời của ông sau khi ông qua
    đời, quyển “Vườn Địa đàng”, mà bản thân Hemingway đã (khôn ngoan) không bao
    giờ xuất bản. Thư của Georgia O’Keefe gửi chồng, Alfred Stieglitz, cũng
    không ai biết, thậm chí đối với giới học giả, trong suốt hai mươi lăm năm
    sau cái chết của bà. Giờ đây thì chúng có trên mạng, và ai cũng có thể tiếp
    cận được bằng một cái máy tính xách tay và mười lăm phút thời giờ. 
  
Có lẽ cách duy nhất nhà văn có
    thể ngăn cản chuyện này là làm như Somerset Maugham đã làm: ông đốt những
    bức thư của mình trong lò sưởi, làm thành một giàn thiêu gầm gừ khi đó
    người thư kí của ông đứng bên với vẻ khiếp hãi. Thư kí của ông đã giấu đi
    một số bức thư, cố giữ gìn chúng, nhưng Maugham bắt gặp được. Ông nói những
    thứ đó cũng phải đốt luôn, và người thư kí phải bỏ chúng vào ngọn lửa cùng
    với số thư còn lại. Những bức thư đó của Maugham chưa bao giờ và sẽ không
    bao giờ được xuất bản. 
  
Cuốn tiểu thuyết tao nhã của
    Martha Cooley, cuốn “The Archivist” (Người lưu trữ văn thư), đã thăm dò về
    những vấn đề này - về quyền sở hữu và quyền riêng tư, và nhu cầu của học
    thuật. Bà xem xét mức độ quyết tâm có được (bất kì giá nào) của giới học
    giả, và những luận cứu họ đưa ra (theo lối mở rộng nhiều tầng, mưu mẹo khéo
    léo, đầy thuyết phục) nhằm có thể truy cập được vào những tài liệu hạn chế
    người xem này. Trong tác phẩm này, một vị học giả kiên định cố hết sức để
    có được kho trữ những lá thư của T. S. Eliot. Người lưu trữ văn thư nhận ra
    tính kiên định nơi học giả kia, thế là anh quyết định dời tài liệu ấy ra
    khỏi tầm tấn công của vị học giả ấy. Anh ta làm theo cách của Maugham, và
    tự mình đốt những văn bản kia. Đây có thể là cách duy nhất để có thể bảo vệ
    tài liệu khỏi vòng vây không ngớt của giới học giả. 
  
Mặt khác, tại sao các học giả
    không nên thấy những tài liệu như thế? 
  
Nhìn chung có ba nguyên nhân để
    các nhà văn giới hạn tài liệu của mình: thứ nhất, đó là tài liệu riêng tư,
    và việc công bố nó ra sẽ phạm vào sự riêng tư của cá nhân hãy còn đang tại
    thế. Thứ đến, nó sẽ vén mở cho biết hành vi hoặc thông tin nào đó có thể sẽ
    làm nhà văn ấy hay bạn bè họ cảm thấy ngượng nghịu, và dễ dẫn đến việc quở
    trách này kia. Thứ ba, đặc biệt quan trọng đối với nhà văn, là văn bản đó
    thuộc loại không ổn hay chưa hoàn tất, chưa sẵn sàng để giới học giả có thể
    khảo sát. 
  
Toàn bộ ba nguyên nhân này, thật
    cấp thiết và đầy thuyết phục trong thời điểm nhất định, nhưng rồi sẽ phai
    nhạt theo dòng thời gian. Georgia O’Keeffe qua đời ở độ tuổi chín mươi tám,
    ba mươi năm sau cái chết của chồng bà. Thư từ của bà được giới hạn thêm hai
    mươi lăm năm sau cái chết của chính bà để cho bất kì ai có mối liên hệ xa
    xôi với những bức thư đó đều đã qua đời từ lâu. Những mối quan hệ của họ -
    giữa họ với nhau, và với những người xung quanh - giờ đây được nhìn thấy
    qua tấm phông màn vô hại. Những hành động riêng tư của mọi người trong quá
    khứ dường như trở nên xa xăm và có thể chịu được; dường như chắc chắn là
    người ta có thể hiểu được các hành vi đó. 
  
Chúng ta tha thứ cho người đã
    khuất vì những chuyện lập dị của họ; ai cũng có chuyện đó cả. Liệu chúng ta
    có nên bị ngăn khỏi những tờ nhật kí riêng tư của Edmund Wilson hay không
    nếu chỉ vì chúng cho ta biết ông cảm thấy khoái cảm ở mấy chiếc giày? Chúng
    ta không nên, cũng như sẽ không chỉ trích ông ấy vì điều này: những mô tả
    gần gũi và đầy ám ảnh của ông về những món đồ đi ở chân của mấy bà bạn là
    những bản văn tuyệt diệu. Wilson ắt sẽ cảm thấy bối rối khi gặp một người
    phụ nữ xa lạ nào đó đọc được mấy dòng chữ này, cô ta không thể cưỡng lại việc
    khẽ mỉm cười, hoặc một cái liếc nhìn khêu gợi xuống đôi guốc của chính mình
    – nhưng điều đó không thể xảy ra, bởi vì những tờ nhật kí không được công
    bố mãi đến sau khi ông qua đời. Khi đó chúng sẽ được người ta đào bới lên
    nhằm tìm kiếm lượng tài liệu dồi dào mà những văn bản đó cung cấp cho ta
    biết về những thức nhận cốt yếu của ông ta. Những chiếc giày là phần thêm
    vào thôi, nhưng chúng cũng mở rộng tầm hiểu biết của ta về cách thức hoạt
    động của những bộ óc vĩ đại. Chúng hoạt động theo những cách lạ thường –
    liệu đó không phải là vấn đề sao? 
  
Những tài liệu bị giới hạn là
    nơi lưu trữ kho báu rực rỡ: các học giả sẽ tìm ra nó. Họ sẽ tìm được cách
    đọc văn bản đó; rồi họ sẽ tìm cách xuất bản nó. Và hẳn nhiên là trong nền
    văn hoá phát cuồng lên vì thông tin của chúng ta – trong đó những tài liệu
    chính quyền bí mật và những quyển sách bản quyền được công bố cho cả thế
    giới biết đơn giản vì những người có thể sử dụng công nghệ nghĩ là họ nên
    đọc được – chúng ta có thể hiểu cái khuynh hướng này. Con người có một ý
    chí không thể cưỡng lại cho việc khám phá và vén mở những bí mật. 
  
Điều lạ lùng là những tài liệu
    đó thật sự không cần sự bảo vệ, bởi vì một khi một nhà văn nào đó đủ danh
    tiếng để làm dấy lên sự chú ý ào ạt từ giới học giả, thì cái nhìn tự chọn
    lọc của giới học giả sẽ trở thành cái nhìn tương đối vô hại. Nhìn chung,
    giới học giả sẽ không gắng sức vì những kẻ họ khinh thường, mà sẽ gắng sức
    vì những người họ tôn trọng và nể phục. Những tài liệu bí mật đó sẽ được
    lọt vào tầm mắt của những người đã biết và hiểu rõ nhà văn ấy. Và người ta
    đánh giá nhà văn dựa trên tác phẩm xuất sắc của họ: tác phẩm tồi tệ không
    làm danh tiếng của nhà văn bị lu mờ được. Những tài liệu thời kì đầu, cuối
    đời, chất lượng không đạt, hay chưa xuất bản sẽ soi sáng và vén mở cho
    người ta thấy, chứ nó không làm nhà văn mất đi giá trị được. Những học giả
    yêu thích mấy tác phẩm tuyệt vời của họ sẽ là những người muốn dành thời
    gian cho những tài liệu bí mật kia. 
  
Sau rốt, ai có quyền đối với tác
    phẩm của nhà văn? Bằng cách công bố ra bất kì văn bản nào với bất kì cách
    nào, nhà văn đã đặt mình ngay trong tầm nhìn của công chúng, và tự khơi mở
    chính mình ra trước ánh nhìn háo hức của con quái vật công chúng. Nếu nhà
    văn muốn chắc chắn không ai đọc được những bức thư của mình, thì họ sẽ luôn
    có lò sưởi. Nếu họ muốn lưu giữ chúng ở một địa điểm hàn lâm nào đó, nhưng
    lại giới hạn chúng lại, thì có khả năng là giới học giả sẽ moi được chúng
    ra ngoài. Nhưng đây có thể sẽ là là mối quan quan tâm nhân từ của giới học
    giả, và danh tiếng của nhà văn sẽ được đánh bóng lên nhờ việc tiết lộ thế
    này. 
  
Sau rốt, cái chết chính là yếu
    tố quyết định: cái chết nghĩa là từ bỏ quyền năng lần cuối cùng. Bất kể ta
    ước mong gì, khi chết là ta đã nhượng vị quyền kiểm soát đối với bản thân
    và tác phẩm của mình. Văn bản có thể tồn tại và nảy nở, nhưng ta không thể
    kiểm soát chúng được nữa. Như Virginia Woolf từng nói, về tiểu sử, “Đây là
    quá khứ và toàn bộ cư dân của nó, được niêm phong một cách huyền diệu như
    trong một cái bể chứa đầy ma lực; tất cả những gì ta phải làm là nhìn và
    lắng nghe… và những nhân vật bé nhỏ - bởi họ có kích cỡ tương đối nhỏ hơn
    người thật - sớm bắt đầu di chuyển và phát biểu, và khi họ di chuyển ta sẽ
    sắp xếp họ theo đủ loại hình mẫu mà họ không biết được, bởi khi còn sống
    thì họ nghĩ rằng họ có thể đi tới những nơi mình thích; và khi họ cất tiếng
    nói thì ta sẽ nhìn vào những câu nói ấy mà đọc ra đủ loại ý nghĩa mà họ
    không bao giờ hình dung ra, bởi khi còn sống họ tin rằng họ đã nói thẳng
    thừng ra bất kì điều gì lọt vào trong đầu mình. Nhưng một khi bạn ở trong
    một tiểu sử thì mọi thứ sẽ khác.” Sự thật là một khi bạn chết đi rồi thì
    mọi thứ sẽ khác; người ta sẽ quyết định cách bạn được nhìn thấy. 
  
Chính tác phẩm là thứ thu hút sự
    xem xét của người khác. Những nhà văn như chúng ta bộc lộ bản thân minh
    thông qua tác phẩm, và ở chừng mực nào đó thật phi lí khi nghĩ rằng ta có
    thể duy trì sự riêng tư của mình: ta đã từ bỏ quyền riêng tư khi gửi đi bản
    thảo đầu tiên đó, cái bản thảo mà trong đó ta bộc lộ cái tôi mãnh liệt và
    thân tình nhất. Bất kể ta gọi đó là thể loại gì, bất kể ta viết nó ra dưới
    cái tên gì, đó vẫn là chúng ta. Nếu nó thổi bùng lên ngọn lửa hào hứng nơi
    công chúng – thì đó chẳng phải là điều ta hi vọng hay sao? – khi đó ngọn
    lửa ấy sẽ thiêu rụi ta. Nếu ta đốt mấy bức thư, thì ta cũng không dập tắt
    được ngọn lửa đó. Nó vẫn sẽ tiếp tục, mà còn được châm thêm dầu vào từ sự
    suy đoán của công chúng. Có lẽ câu hỏi thực thụ không phải là “Liệu chúng
    ta có nên giới hạn thư từ của mình sau khi qua đời hay không?” mà là “Liệu
    chúng ta có nên ngồi vào bàn và bắt đầu tạo ra những câu chữ hay không?” Đó
    là sự mạo hiểm lớn nhất. 
  
  
  
  
     
Đoàn Khương Duy dịch từ:
    Robinson, Roxana. “Burn Your Letters?” New Yorker, 5/2013:
    newyorker.com/online/blogs/books/2013/05/what-writers-leave-behind.html 
 | 
   
No comments:
Post a Comment