Bùi Xuân Phái, đã 25 năm
Tiểu Sử
Họa
sĩ Bùi Xuân Phái sinh ngày 1 tháng 9 năm 1920 tại Hà nội,
mất ngày 24 tháng 6 năm 1988 tại Hà nội . Nguyên quán Hà
đông, tốt nghiệp trường Mỹ thuật
Đông dương, Hà nội khóa 1941-1946, tham gia kháng chiến,
tham dự triển lăm nhiều nơi . Năm 1952 về
Hà nội, sống tại nhà số 87 Phố Thuốc Bắc
cho đến khi mất. Năm 1956-1957 giảng dạy tại
trường Mỹ Thuật Hà nội . Tham gia phong trào Nhân
văn Giai phẩm, phải đi học tập lao động
trong một xưởng mộc tại Nam Định và ban
giám hiệu nhà trường đã đề nghị ông phải
viết đơn xin thôi không giảng dậy tại
trường Mỹ Thuật.
Bùi
Xuân Phái là họa sĩ,chuyên về chất liệu sơn dầu,
tập trung nhiều nhất vào đề tài phố cổ
Hànội, ông được quần chúng mến mộ gọi
chung là Phố Phái. Tranh phố cổ của ông (Hàng Bạc,
Hàng Bồ, Hàng Mắm, Hàng Muối, Hàng Tre, Mã Mây v.v..) đều
xuất sắc. Bắt nguồn từ hiện thực, Phố
cổ Hànội được ông vẽ từ những thập
niên 50, 60, 70 nên còn mang đậm nét cổ kính.
Ngoài
phố cổ Hà Nội, xin giới thiệu minh hoạ
thơ Hồ Xuân Hương của họa sĩ tại :
http://www.tintuchangngay.org/2013/04/o-tai-mat-xem-tranh-bui-xuan-phai-minh.html
--------
Nhớ
Phái
Nằm bệnh,
không sức làm gì khác hơn lục lọi cái viết lách của mình, và tình cờ tìm được Nhớ
Phái đã đăng trên báo Đất Việt,
Canada, năm 1988. Nay
nhuận chỉnh lại, xin viếng người họa sĩ tài hoa này sau khi ông rời cõi tạm đã ¼ thế kỷ, nhắc
những người còn sống chớ quên văn hóa nghệ thuật ở đâu cũng có cội nguồn...
Nam Dao
Au clair de la lune,
mon ami Pierrot,
prêtes-moi ta plume
pour écrire un mot...
Nó vung tay múa, vụng
về, nghiêng bên phải, ngả bên trái. Nó mắc cở,
im tiếng. Cháu cứ hát đi, ngọng một chút nhưng
thế lại hay. Anh bạn cười. Chị bạn cũng
cười. Cười hỉ hả. Bỗng anh hỏi:
‘’ Bùi Xuân Phái ở
phố nào nhỉ?’’
Định bụng
đáp phố Phái, chữ Nguyễn Tuân bịa, nhưng tôi
lại nói:
‘’ Phố Thuốc
Bắc thì phải...’’
Anh bạn lơ
đễnh:
‘’ Phái mới
mất, hôm hai mươi bốn tháng sáu!’’
Nghe bạn báo tin, tôi
nhói trong lòng. Thảng thốt, tôi hỏi lại, thừa thãi:
‘’ Thật à ?’’. Thật đấy. Mụ già định
mệnh gọi, ai tránh được. Vả lại, trừ
những kẻ đi tìm thuốc trường sinh như Tần
Thủy Hoàng, mấy ai thật lòng cứ cố tránh mãi.
Thế là... người
đời kêu, một ngôi sao đã lìa cái trần thế tai
ương này. Thiên hạ ơi, những người yêu Phái
và cả những người ghét Phái, dẫu muộn nhưng
ta cùng nhau viết một câu phúng đi. Cần ca ngợi,
chớ dè dặt toan tính, chớ tung hô mà sượng sùng
gượng gạo. Hãy đếm cho thực kỹ số
tranh Phái vẽ, chép miệng thì thào với nhau thế mà cũng
chẳng phong Nghệ sĩ Nhân dân. Nhân tiện, hãy nói những
điều nhân nghĩa. Thậm chí hãy tạo những huyền
thoại quanh Phái, thứ huyền thoại thực là cần
cho những người đang sống mà chẳng biết
về đâu.. Phải, bây giờ ai cũng làm như vậy
được. Nên làm, cứ làm, thảnh thơi mà làm, làm
cho lương tâm yên ổn. Vì nay, Bùi Xuân Phái đã nằm
xuống. Ông không nghe nữa, không nhìn nữa, không nói nữa.
Và không vẽ nữa. Và này, hỡi những người đang
sống, bao giờ cũng dễ độ lượng hơn
với những người chết hơn là với những
người đang sống. Khốn khổ thay!
Phố Hàng Bạc
Phá cái trống tênh
tịch mịch, anh bạn bảo ‘’ Cả Phạm Huy
Thông nữa, mới đây cũng mất rồi. Báo chí đăng
tin tùm lum, Nhân Dân cho một cột lớn. Còn với Phái thì
không, chỉ dăm tờ báo nhỏ mới nhắc, như
Hà Nội Mới, Văn Nghệ…’’. Tôi thầm nhủ,
thế là may cho Phái. Cắt ngang ý nghĩ tôi, anh bạn
tiếp ‘’ Ông có biết Phạm Huy Thông không?’’. Có, gặp
nhau bên Úc, cách đây có lẽ đến 5,6 năm rồi.
‘’ Thân thế ông ấy thế nào?’’ Ông ta là một
trong những người làm thơ mới những năm
30. Sang Pháp du học, ông góp phần xây dựng phong trào Việt
Kiều thuở đó. Rồi sau Cách Mạng tháng 8, ông về
nước. Ông sau này là Viện Trưởng Viện Khoa Học
Xã Hội… ‘’ Này, nước ta làm gì mà có loại khoa
học ấy?’’. Có chứ, cái gì mà ta lại chẳng có!
Nhưng cuối cùng ông Thông chỉ làm việc Khảo Cổ.
Cái việc đồ đồng đồ đá ít tính
giai cấp, làm cho vui, và biết đâu lại chẳng có chút
ích lợi. ‘’ Thời buổi này thí nó vô bổ! Ông ta có công
trình gì không? ‘’ Có chứ! Đấy, là tiên phong trong phong
trào thơ mới. Còn công trình gì à? Tiếng sáo hay tiếng
địch sông…Chẳng nhớ là sông nào, sông Dịch hay sông
Ô, tôi chịu!
*
Nếu chỉ miệt
mài đi tìm cái Đẹp và tránh cho thật xa cái vòng quan
trường thì chỉ có những tờ báo ‘’nhỏ’’ nhắc
khi anh nằm xuống. Lúc chưa xuôi tay, nghĩa là khi còn cầm
được cọ, pha được màu, và còn dùng cả
những hộp diêm bé tí tẹo làm khung vẽ, chỉ có bạn
bè nhắc đến anh. Như Nguyển Tuân chẳng hạn.
Nguyễn Tuân đã
viết ‘’ Phố Phái’’. Những phố Phái xiêu vẹo. Xám.
Đen. Nhưng trong vùng xám đen xiêu vẹo vẫn có những
bóng con người. Khi tất tả, khi nhọc nhằn.
Nhưng lúc nào màu vẽ con người cũng vẫn bật
lên sự tiềm ẩn của hy vọng, nét bung ra sức
sống, thường mạnh mẽ, quả cảm. Màu vẽ
quần áo lắm lúc đỏ, cam. Nhỏ, chấm phá, nhưng
vẫn là những con người có tương lai, còn hy vọng
trong cái xám sẫm đường phố Hà Nội vốn
siêu vẹo lại càng thêm siêu vẹo.
Phố của Phái
là thế đấy! Nhớ đến Hà Nội là nhớ
đến những con người, là nhớ đến phố
Phái, và …nhất là nhớ Phái. Cơn bực bội chợt
ùa về làm lũ trong lòng. Này, thiên hạ, Phái đã nằm
xuống rồi, hãy can đảm cất lên tiếng nói chứ.
Ít nhất, nếu không khẳng định gì thì cũng nêu
vài câu cần hỏi. Tỉ như, sinh thời Phái được
đãi ngộ thế nào? Sau vụ án Nhân Văn, Phái phải
sống ra sao? Nghệ thuật của anh bị vây bủa
o ép thế nào? Phái có những phương tiện gì để
tiếp tục sáng tạo?
Và hỡi những
người không còn chịu nổi thứ văn hóa sần
sùi của những cái lưỡi gỗ, thứ văn hóa
tung hô, nô bộc, thực chất là phản văn hóa,
đã đến lúc chúng ta phải mở miệng. Không thể
cứ mãi đánh đĩ với lương tâm. Không thể
ném rác rưởi cặn dư vào bôi bẩn tâm hồn. Không
thể cứ mãi câm nín. Chúng ta nay buộc phải mở miệng
thuốc men giải phóng cho chính mình. Cho bớt tàn tật.
Cho bớt những điều vô cùng phi lý. Bây giờ, phải
ngoảnh mặt nhìn lui để biết ta thành tựu gì.
Và phải biết những điều chưa làm được
để tiếp tục vun trồng một nền văn
hoá có bóng con người. Những con người thật.
Có anh hùng, liệt sĩ với những chiến công giữ
nước. Có những hèn yếu, thất bại, nông cạn
thời thôi chiến tranh. Nhưng phải tôn trọng sự
thật. Sự thật nào cũng gần gũi với những
con người bình thường, biết yêu, biết ghét,
phải ăn, phải mặc. Nhất là phải có hy vọng.
Với phố của
ông, Phái cố giữ những hy vọng đó cho những
con người sống trong ba mươi sáu cái phố
phường Hà Nội.
*
(…) Lần đầu
gặp anh, tôi đi với Dương Tường. Anh vừa
ngao du ở Đông Đức về, hồn nhiên khoe ‘’ lần
đầu mình xuất ngoại trong đời đấy!’’.
Anh lục lọi cho chúng tôi xem những bức tranh nhỏ
xíu vẽ trên những mảnh bìa. A, không phải chỉ có
phố. Có những nàng kiều nữ mặc áo tứ thân hớ
hênh khoe bộ ngực no tròn. Có minh họa thơ bà cô tổ
Hồ Xuân Hương, nào là Đánh Đu, nào là Sư chùa…Ơ
kìa, Con ngựa và chiếc xe thồ. Tôi dán mắt nhìn, sao cô
đơn lạ. Anh thủng thỉnh ‘’ vẽ từ hồi
kháng chiến chống Pháp, trên Cao Bằng’’ . Tôi nhắm
mắt lại. Bây giờ chẳng chỉ có cô đơn. Tôi
nhìn ra sự nhẫn nại. Và nhất là một tâm hồn
dịu dàng.
Trước khi về,
anh tặng tôi một bức tranh. Anh viết sau lưng bức
tranh, nhắc đi nhắc lại ‘’ Giữ kỷ nhé…Có
biết thế nào là tranh đẹp không? Cho những kẻ
chẳng biết gì thì…tiếc lắm!’’. Vâng, tiếc thật.
Nhưng tiếc hơn cả là có những người không
biết cái Đẹp mà lại có quyền định ra
khuôn thước của nó, từ đó đi phê phán, o ép và
rồi trói buộc không cho phép ai tự do sáng tạo. Ai lại
vẽ phố như Phái, buồn chết, chẳng hồ hởi
chút nào, thiếu cái tính hiện thực xã hội chủ nghĩa,
nghĩa là chỉ nhìn hiện thực bằng một con mắt
tô màu đỏ. Kết quả, Phái vẽ, rất cô đơn,
trong những hoàn cảnh ngặt nghèo. Tranh anh là tranh của
sự túng quẫn. Vẽ trên tất cả những gì có thể
vẽ được. Từ bao diêm đến mảnh bìa
cắt từ những thùng hàng ở ngoại quốc gửi
về cứu trợ thân quyến trong nước.
Còn Phái. Mảnh khảnh,
xơ xác, đưa tay cho tôi bắt. Mắt anh rất sáng.
Anh sống trong sự quên cái hiện thực vây bủa như
chấn song bằng sắt của tủ hãm chẳng thật
cần thiết. Anh lại nhắc ‘’ Giử tranh cho kỷ
nhé, không thì tiếc lắm!’’. Rất hồn nhiên. Anh
cười. Vâng, chính sự hồn nhiên đó mới cho
phép sống và vẽ như Bùi Xuân Phái được.
*
‘’ Kỳ vừa
rồi ông về ông có gặp ông Phái không?’, anh bạn hỏi
rồi quay sang bảo con bé ít làm ồn cho người lớn
nói chuyện. ‘’ Có chứ, lúc ấy ông Phái bị viêm họng,
ho sù sụ, không nói được thành tiếng’’. Đó là
lần tôi về Hà Nội sau 6 năm bị cấm cửa
từ 1982 vì lý do gì thì tôi chỉ có thể đoán mà không biết
chính xác (có lẽ là vì bản Góp ý về Ổn định
và phát triển kinh tế VN - nói kiểu ngày nay - rất ‘’
diễn biến hòa bình’’ mà tôi đã viết theo yêu cầu
của ông Phạm Văn Đồng để gửi
đến Hội Đồng Bộ Trưởng thời đó).
Tôi nhìn Phái, tưởng tượng chắc rồi cũng
chỉ đau ốm qua loa. Chị Phái bảo so với tuần
trước thì anh ấy khá hơn, không sốt nữa. Tôi
với tay xem mấy lọ thuốc. Thuốc là thuốc trụ
sinh loại nhẹ, do một anh bạn tôi từ Toronto mang
về.
Phái lắc tay như
gạt chuyện thuốc men qua một bên. Anh cầm chai
rượu trắng rót vào một ly, ly loại cổ cao dùng
để uống liquor. Anh nhìn, không uống. Dương
Tường chép miệng ‘’ Chắc sắp khỏi rồi.
thế chuyến đi Pháp tháng 7 này với Bửu Chỉ
đã chắc chắn chưa?’’Anh gật. Chị Phái
đỡ ‘’ Ông ấy nói không được chứ
thường mà gặp bạn là huyên thuyên nhiều chuyện
lắm!’’. Anh nhìn, tay chỉ vào miệng, cố gắng
thốt ‘’ nói bằng mắt’’. Vâng thưa anh, đó cũng
là một cách nói. Nói thế, chắc ít điều
thừa thãi. Quan trọng hơn, khó nói dối. Xưa nay khi
anh nói những điều trong tâm can của người
đời, anh đã chẳng vẽ để bắt
họ nghe và hiểu bằng mắt đó sao!
Ra khỏi nhà Phái,
chúng tôi sang bên kia đường để tránh dăm ba người
ăn xin chắc từ Thanh Hoá ra Hà Nội mỗi năm. Và
tôi thầm ước, ‘’ ước gì khôngcó những người
chết đói trên phố Phái’’. Chiều về, tôi nhờ
Tường cầm đến cho Phái một lọ trụ
sinh loại mạnh hơn. Tối đến. trời mưa
như trút nước. Bâng khuâng, tôi tự hỏi chẳng
biết những người từ Thanh Hoá ra đây sẽ
trú ẩn ở đâu. Và tôi lại thầm ước, ‘’ ước
sao trời không mưa thế này trên phố Phái’’.
Tuần sau, tôi cùng
Tường đi Sài Gòn. Chúng tôi đến atelier của Đinh
Cường ở Phú Nhuận. Nhắc đến Phái,
Tường vẫn lạc quan ‘’ Ông ấy còn khoẻ
chán…Chắc ốm sơ sơ, Văn Cao nằm nhà
thương mới đáng lo’’. Tôi nhìn lên tường,
thơ Tô Thùy Yên chép chữ khổ lớn nhảy muá khúc Ta
Về, rưng rưng thấm vào lòng lời ‘’ cám ơn
hoa đã vì ta nở/ trái đất vui từ mỗi lẻ
loi’’. Trưa Sài Gòn nóng kinh người. Trịnh Công Sơn
cởi trần ra, lúi húi rót ararat, thứ cognac Đông Âu, vào
ly. Sơn bây giờ gầy guộc, có khác chi đâu một
cánh vạc. Sơn cũng vẽ. Anh vẽ Nguyển Tuân
để nhớ Nguyễn Tuân. Như một ngọn nến
cô đơn, phía trái có một giọt máu nhỏ xuống,
từ tim. Cường bảo đã nộp đơn xin cùng
cả gia đình đi Mỹ. Chúng tôi tránh nhìn nhau những
phút đó. Liệu có phải đi là chết trong lòng
một ít không? Đi thế, khác cách Phái sau đó vài tháng
ra đi. Anh đi luôn, và phải đào đất lên chôn
xuống. Đi không ngoảnh mặt, không vẫy tay, không à
ơi hẹn ngày trở lại. Nhưng những người
nghệ sĩ buộc phải tha hương tìm đường
sống hẳn chết trong lòng. Nhưng người còn cầm
cọ quét màu lên canvas ở lại mong chết trong lòng một
tí mà chẳng được. Họ chỉ còn biết
đốt hương phúng viếng chính mình. Và cắm một
cành hoa mỏng mảnh cho ngành Nghệ Thuật Việt Nam
cứ dần dà phai nhạt. Nghe đâu Nguyễn Trọng
Khôi cũng vừa đi Boston để đoàn tụ với
gia đình khoảng tháng nay rồi.
*
Chị bạn
thắp một nén hương cắm vào chậu cây nhài đang
ra hoa. Nén hương viếng Phái đã nằm xuống hôm
24 tháng 6 năm 1988. Hôm ấy, có lẽ Dương Tường
còn ở Sài Gòn, chắc không ra Hà Nội kịp. Trần Dần
và Phùng Quán còn rong ruổi ở Huế. Và Bửu Chỉ, chắc
lại ôm mặt khóc như từng khóc Nguyễn Tuân, khóc mà
không làm gì được.
Mùi hương
thoang thoảng một buổi bóng đêm chập chùng ập
xuống. Anh bạn chép miệng: ‘’ các ông ấy đi hết
thì nay về Hà Nội chẳng có hứng thú gì! ‘’ Thở
dài, tôi cũng biết thế. Hững mình vào một khoảng
tối tịch mịch, tôi nghe đâu đó một tiếng
kêu, các bạn ơi….Bạn viết, cứ viết. Vẽ,
cứ vẽ. Làm thơ, cứ làm, như những con người
tự do. Làm nghệ thuật, xin làm như làm tình, trên mọi
ngả phố Phái. Xin các bạn tiếp tục những con
đường của những người như Nam
Cao, Nguyên Hồng, Đặng Thế Phong, Vũ Trọng Phụng,
Nguyễn Tuân…Và Bùi Xuân Phái. Để tôi còn về và xin làm
quen các bạn!
Có lẽ chưa
bao giờ chúng ta lại thiếu chữ nghĩa, thiếu
âm thanh, thiếu màu sắc như bây giờ.
Bao giờ thời
kỳ Phục Hưng bắt đầu?
Các bạn ơi…Đóng
góp vào nền văn hoá phục hồi trong tương lai đó
là các bạn mang trả lại hy vọng cho những người
bình thường trên những ngả phố Phái. Người
bình thường chỉ mong ước một cuộc sống
bình thường với chút hy vọng vào tương lai. Tương
lai ấy hẳn ít đi những anh hùng, liệt sĩ của
thời chiến nhộn nhạo mới qua. Tương lai
ấy cũng chẳng cần đến những dối
lừa gian manh, những khẩu hiệu mị dân, những
mưu đồ cơ hội của thứ quyền lực
ma ám trong một thời bình mới vừa chập chững.
Con cháu bé lại
nghêu ngao:
‘’ ma
chandelle est morte
il
n’y a plus de feu
Ouvres-moi
ta porte,
pour l’amour de Dieu
‘’
Thấm thía từng
câu hát, tôi ứa nước mắt. Giọng cháu ngọng
nghịu nên chân thật, và tôi mạn phép bạn xin dịch
lại để ta chia sẻ với nhau:
‘’ Dưới
ánh trăng, bạn tôi ơi
hảy
cho tôi mượn cây bút
Để
tôi viết lại một lời
Đâu
còn lửa nữa, ngọn nến ấy tàn rồi
Hãy
mở cửa
Hãy mở
cửa cho ( chúng ) tôi, lạy Trời! ‘’
Nam Dao
ngày 4 tháng 7
năm 1988
nhuận chỉnh
ngày 19 tháng 5 năm 2013
No comments:
Post a Comment