KHỔNG TỬ, SỰ
PHẢN PHỤC BẤT TẬN
Anne Cheng
LỜI NGƯỜI DỊCH
Nguyệt san Le
Monde Diplomatique, tháng 9-2012, tập hợp một số bài viết cho chủ đề DOSSIER:PÉKIN,
POUVOIR SECRET, PUISSANCE MONDIALE (Hồ sơ: Bắc Kinh, Quyền hành bí mật, Thế lực
toàn cầu), trong đó có bài chính luận ngắn
CONFUCIUS, l' Éternel Retour của Anne CHENG về sự phục hồi Khổng tử và Nho giáo ở Trung Quốc hôm
nay. Là giáo sư về lịch sử tư tưởng Trung Hoa tại Collège de France, đồng thời
là học giả hàng đầu ở Paris về Khổng tử và Nho học (bản dịch Luận
Ngữ sang tiếng Pháp của bà là tài liệu tham khảo đáng tin cậy hiện nay), Anne Cheng cảnh giác về sự lợi dụng Khổng giáo
ở Trung Quốc và một số nước Á Đông hôm nay như một công cụ cai trị để ổn định hóa
các xã hội đang bị sự biến động của kinh tế thị trường làm xáo trộn mạnh.
Chưa kể sự thương phẩm
hóa dễ dãi học thuyết và kinh sách làm hư hại phần tích cực và tính chất phê phán
quyền bính trong tư tưởng Khổng Nho.
Chân Phương
Tại sao Khổng tử vẫn trở đi trở lại mãi trong bối cảnh Trung Hoa hôm
nay? Làm sao giải thích sự kiện một bậc thánh hiền cổ đại sống vào thế kỷ thứ 5
thứ 6 trước Công nguyên hai nghìn năm trăm sau lại mang một giá trị biểu trưng ở
Trung Quốc của thế kỷ 21, một nước đang vươn nhanh về quyền lực kinh tế và địa
lý-chính trị giữa một thế giới toàn cầu hóa?
Có cần nhắc rằng tên gọi CONFUCIUS là sự la tinh hóa hán tự của Kongfuzi ( Khổng phu tử - “Maitre Kong”)
do các nhà truyền giáo jésuites - những
người đầu tiên giới thiệu ngài với giới thượng lưu châu Âu. Căn cứ vào các nguồn
của Trung Hoa cổ đại, thầy Khổng đã dành cả đời giáo huấn cho một nhóm môn đồ các
thuật tu thân trị quốc theo tinh thần của lễ nghi và nhân nghĩa. Sau khi nhà Tần
thống nhất không gian Trung Hoa vào năm 221 trước CN, giáo thuyết cũng như một
số kinh sách gắn liền với tên tuổi ngài đã được vận dụng để xây nền đắp móng ý
thức hệ cho trật tự của đế chế mới. Từ đó, và cho đến đầu thế kỷ 20, hình tượng
Khổng tử cũng đã nhập chung với định mệnh của đế triều Trung Hoa, đúng cho đến
mức trở thành biểu trưng tuyệt hảo (l’emblème par excellence) cho bản sắc trung
hoa hôm nay. Ít ra nó đã được phương Tây cảm nhận như thế, và cũng vậy được
Trung Hoa đại lục trình bày, tôn vinh, gần như biến thành công cụ.
Người ta hầu như quên mất những điều bỉ cực mà hình tượng này phải chịu
trong thời hiện đại ở Trung Hoa, đã khiến nó trải qua một thế kỷ tàn phá giữa các
năm 1860 và 1970. Thật vậy, từ cuộc chiến nha phiến lần thứ hai (1856-1860) hiện
hình một bước ngoặt lịch sử khiến giới ưu tú Trung Hoa ý thức được tính ưu việt
của các thế lực phương Tây, rốt cuộc đưa đến cố gắng (sẩy thai) cải tổ chính trị
đầu tiên năm 1898 theo kiểu Minh Trị bên Nhật(1). Kéo theo một loạt các khủng
hoảng đầy kịch tính vào đầu thế kỷ 20: việc dẹp bỏ vào năm 1905 cả một hệ thống
khoa cử quan trường khét tiếng (2), nền móng nhiều đời của đế chế, vừa đánh dấu
bước đầu của quá trình “thế tục hóa” hiện đại theo lối Trung Hoa. Rồi vài năm
sau nhà Thanh Mãn châu, và cùng với nó là cả chế độ đế triều, sụp đổ tiêu tan để
nhường chỗ cho nền cộng hòa thứ nhất của Trung Hoa do Tôn Dật Tiên đề xướng.
Về mặt tượng trưng, vụ khủng hoảng đã để dấu ấn sâu đậm lâu dài trong trí
óc là cuộc vận động Ngũ Tứ (4-5-1919), khủng hoảng này phản ánh những bất bình
của các nhà trí thức phải vật lộn với thực tế nhục nhã của đất nước Trung Hoa.
Họ cho rằng tính hiện đại chỉ có thể định nghĩa bằng các tên gọi của phương Tây
như khoa học và dân chủ, và cần thiết phải “đạp đổ Khổng tử”, kẻ chịu trách nhiệm
đối với mọi tật bệnh của nước Trung Hoa, kể cả sự lạc hậu về vật chất lẫn tinh
thần. Để tìm ra một chủ nghĩa hiện đại kiểu phương Tây, những kẻ đả phá truyền
thống trong phong trào Ngũ Tứ có xu hướng suy luận như cách phân tích mác-xít,
và tống tiễn Khổng giáo vào “ nhà bảo tàng lịch sử”
TỪ MAX WEBER ĐẾN
MAO,
THẦY KHỔNG BỊ KẾT ÁN
BẢO THỦ
Vào bước ngoặt những năm 1920, một cách chẩn đoán khác cũng từ phương Tây
còn kết án Khổng giáo một cách quyết liệt hơn: đó là sự định bệnh của nhà xã hội
học Đức Max Weber khi mối quan tâm của ông là chỉ ra những kích thước ý hệ
trong các căn nguyên của chủ nghĩa tư bản phương Tây (theo ông là đạo lý Tin Lành).
Cho rằng đã nhận diện được những điều kiện vật chất khả dĩ khai sinh chủ nghĩa
tư bản ở Trung Hoa, Weber đi đến kết luận: điều này đã không diễn ra là do các
yếu tố ý hệ, đứng đầu là Khổng giáo. Thế thì dẹp bỏ một lần cho xong cái khối nặng
ù lì đó là điều kiện quyết định để bước
vào tính hiện đại phương Tây.
Một thế hệ sau 1919, với thời điểm ai cũng biết là năm 1949, khi xung đột
Hoa-Nhật và cuộc nội chiến chấm dứt đánh dấu sự thành lập nền Cộng hòa Nhân dân
bởi những người cộng sản với sự tháo chạy của chính quyền quốc gia ra Đài Loan
cùng một số trí thức thù nghịch với chủ nghĩa mác-xít. Từ vị thế lưu vong, nhóm
người này lo âu theo dõi sự diễn biến của Trung quốc thời kỳ Mao. Với cuộc “đại
cách mạng văn hóa vô sản” do Mao khởi xướng năm 1966 ( rồi mười năm sau tắt ngấm khi Mao chết năm
1976), Trung quốc đã trải qua cái họa hủy diệt đến tận cùng như một dạng cực đoan
hóa triệt để phong trào Ngũ Tứ, đáng nói nhất là quyết tâm xóa sạch các tàn tích
xã hội truyền thống của cuộc vận động này.
Sau một thế kỷ tàn phá di sản Khổng Nho, cục diện đã đảo lộn trong vòng
ba mươi năm gần đây. Từ những năm 1980 trở đi ta thấy một sự lật ngược ngoạn mục
với các dấu hiệu đầu tiên dấy lên từ ngoại vi quanh Trung Quốc đại lục. Từ cương
vị của vật cản không thể bứng đi, Khổng giáo chuyển thành động cơ chính của hiện
đại hóa. Căn nguyên của việc đảo hoán này không dính dáng nhiều đến học thuyết
Khổng Nho mà đến từ một tình huống lịch sử và kinh tế chưa từng thấy: sau mười
năm Cách mạng Văn hóa, mô hình cách mạng cộng sản bị vứt bỏ de facto ngay tại Trung Quốc trong lúc ở
vùng ngoại vi người ta chứng kiến sự nhảy vọt kinh tế không ngờ của bốn “con rồng”
(Đài Loan, Hương Cảng, Singapua, Nam Hàn) theo vết Nhật Bản. Như vậy, những “biên
địa của đế triều” cùng lúc với những “giá trị Á Đông” mà các nước này giành lấy
lại được phóng chiếu vào một giá trị trung tâm đặc trưng (une centralité
exemplaire) và trở thành đối tượng của mọi sự chú ý, đặc biệt là phương Tây.
Quả nhiên vào lúc chủ nghĩa cộng sản ở Trung Quốc và đồng thời tại Đông Âu
rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng, các xã hội tư bản phương Tây cũng nhận ra những
tín hiệu cho thấy sự phát triển của chính họ đang suy thoái. Trong khung cảnh đó,
các ‘giá trị Khổng Nho” (tầm quan trọng của gia đình, sự tôn kính đẳng trật, nỗi
khát vọng học hỏi, thói vùi đầu vào công việc, tính cần kiệm,v.v.) dùng để biện
giải cho sự vươn lên của một dạng tư bản chủ nghĩa Á đông đặc thù đã đến đúng lúc
để đưa ra phương thuốc chữa trị chứng suy yếu của mô hình hiện đại phương Tây bằng
cách vượt lên bỏ lại nó phía sau.
CƠ HỘI PHỤC HẬN VINH QUANG
ĐỐI LẠI
ƯU THẾ THƯỢNG ĐẲNG CỦA PHƯƠNG TÂY
Phải truy tìm từ hoàn cảnh thế giới cái yếu
tố gây ra sự đảo ngược trong những năm 1980; và tâm điểm của nó không nằm trong các xã hội
Trung Hoa đúng nghĩa mà nằm ở những khu vực người Hoa đã Tây phương hóa và nói
tiếng Anh tại Singapua và Hoa Kỳ. Vào giữa thập niên 80, nó lây nhiễm sang nước
Trung Quốc đang bận thanh toán di sản Mao-ít và cũng rất muốn bám theo các toa
tàu của chủ nghĩa Á Đông để rốt cục tiến lên hàng đầu. Khổng giáo sau nhiều thế
hệ bị khinh bai, thậm chí đền miếu kinh sách bị đốt phá bởi cao trào bạo lực
trong Cách mạng Văn hóa vừa kết thúc, lại trở thành đối tượng trong cuộc hội thảo
đầu tiên vào năm 1978 nhằm phục hồi nó. Kể từ ngày đó, không năm nào không diễn
ra nhiều cuộc hội thảo quốc tế về đề tài này. Năm 1984, một Fondation Khổng tử được
thành lập ở Bắc Kinh dưới sự bảo trợ của những quan chức cao cấp nhất trong đảng.
Năm 1992 lúc đi tham quan các tỉnh phía Nam, Đặng Tiểu Bình đã nêu Singapore của
Lý Quang Diệu như kiểu mẫu cho Trung Quốc vào thời điểm ông ta tung ra chính sách
“kinh tế thị trường kiểu chủ nghĩa xã hội”. Một cách trớ trêu, những yếu tố
theo Max Weber đã gây trở ngại cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản lại chính
là những điều giúp cho các xã hội Á Đông tránh được những vấn nạn của xã hội phương
Tây hiện đại. Đối lại ưu thế thượng đẳng của phương Tây, đây là cơ hội cho một
sự phục hận đầy vinh quang được mong đợi
ít nhất là từ một thế kỷ qua ở Trung Quốc cũng như ở một số nước khác trong vùng.
Việc trở lại với Khổng giáo thật ra không ăn nhập gì lắm với thị trường,
chính sách này phục vụ những mục tiêu chính trị của các nhà lãnh đạo chuyên quyền
ở Singapore, Bắc Kinh, Seoul phải đối phó với sự tăng tốc đột ngột của phát triển
kinh tế trong khi các cơ cấu xã hội-chính trị không bắt kịp. Họ thấy tiện lợi
khi mượn lại “các giá trị Khổng Nho” để phục vụ cho mình, chúng đảm bảo sự ổn định,
kỷ luật và trật tự xã hội đối lại với phương Tây đang suy thoái vì quá bám chặt
vào chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa hưởng lạc. Trong đường lối tân chuyên quyền
này (néo-autoritarisme), các nhà ý thức hệ mác-xít và chống mác-xít cùng gặp
nhau ở một điểm chủ yếu: thay cho các hình tượng của chủ nghĩa xã hội không
theo phương Tây mà óc không tưởng Mao-ít đã cố nhồi nhét là nỗi khao khát đạt đến
sự hiện đại công nghiệp dưới danh hiệu “ hậu hiện đại”, luôn luôn không cần đến
phương Tây.
Vụ khủng hoảng tài chính năm 1997 ít nhiều đã làm dịu bớt cơn sốt của Confucius economicus ( Khổng tử nhà kinh tế),
nhưng sự trở lại của vị thầy cổ kính không vì thế mà bị ngăn cản, ngược lại là đằng
khác. Từ chục năm qua ( nói tượng trưng là từ ngày bước vào thế kỷ 21 và thiên
niên kỷ thứ ba), sự diễn tiến mang hình thái một chùm hiện tượng kết lại với nhau rất phức tạp, chúng len vào
mọi tầng cấp xã hội và chạm đến toàn bộ Trung Quốc đại lục. Trong lĩnh vực chính
trị, điều ưu tiên của các nhà lãnh đạo hiện nay là giữ vững sự ổn định xã hội để
tạo điều kiện tốt cho tăng trưởng kinh tế về lâu dài. Năm 2005, chủ tịch Hồ Cẩm
Đào tung ra chỉ thị mới của ông ta ,” xã hội thuận hòa theo hướng chủ nghĩa xã
hội”, tiếp theo những hiệu lệnh khác mang nội hàm Khổng Nho rõ rệt dù không được
minh định công khai: lý tưởng về “xã hội phồn thịnh tương đối” của Đặng Tiểu Bình
hay là “dùng đức trị dân” của Giang Trạch Dân. Khi lục soạn trong các kho sách
về thuật điều hành xã hội của Khổng Nho, họ cũng muốn đề suất một giải pháp
thay thế nền dân chủ tự do theo mô hình phương Tây. Ngày nay, chỉ cần gọi tên
Khổng tử - có liên hệ mặc nhiên đến sự thuận hòa (harmonie: hoà mục theo
cổ văn), là không những “có lộc” trên thị
trường kinh tế
mà còn kiếm thêm được món tài
sản tượng trưng (capital symbolique): cộng vào các Viện Khổng Học lừng danh đang
mọc lên khắp thế giới, tại Trung Quốc thiên hạ còn chứng kiến sự lan tràn nhanh
chóng của các Trung Tâm hoặc Fondations Khổng Học.
Hệ quả là Luận Ngữ cũng thành đối
tượng của nhiều dạng công cụ hóa. Về mặt tuyên truyền chính trị chỉ cần nêu một
ví dụ : vào dịp lễ khai mạc Thế Vận Hội vào tháng 8-2008 ở Bắc Kinh do nhà đạo
diễn điện ảnh được cả thế giới biết tiếng là Trương Nghệ Mưu chỉ huy, người ta đã
thấy hiện lên bức họa với một số châm ngôn trích từ Luận Ngữ được một đám lính thuộc Quân đội Cách mạng Nhân dân cải
trang thành nho sĩ xướng tụng theo kiểu hô khẩu hiệu. Nhưng chính yếu là trong
lĩnh vực giáo dục, ở đây Luận Ngữ đã lấy lại vai trò trung tâm nó từng nắm giữ
xuyên các triều đại. Đây cũng là một cách lợi dụng các lối học tập, giáo huấn “
mang tính Trung Hoa đặc thù” rút ra từ các nguồn kho Khổng Nho để tái lập đạo lý
trong xã hội, bắt đầu từ đám thiếu nhi và
thanh niên. Kể từ những năm 1990, thường
là trong khung cảnh ngoài học đường hoặc song song với nhà trường, những phương
pháp “truyền thống” được cổ xúy để rèn tập ngay từ tuổi ấu thơ cách lặp đi lặp
lại máy móc và học thuộc lòng các kinh điển (bắt đầu từ bộ Luận Ngữ). Nỗi hâm mộ này cũng lây sang người lớn; nhiều lớp học,
khóa đào tạo chuyên về “quốc học” được mở ra cho đối tượng này. Còn có các sáng
kiến tư nhân do những kẻ động viên cho một thứ “Khổng giáo bình dân” đề xướng tại
vùng đô thị hay thậm chí ở chốn hương thôn. Nhờ vào mạng Internet, các sáng kiến
này đã tìm được một sức truyền đạt và phổ biến sâu rộng hiệu nghiệm chưa từng
thấy.
“ MÓN CHÁO GÀ
CHO TÂM HỒN”
VỪA GIẢN DỊ VỪA THEO ĐÚNG ĐƯỜNG LỐI ĐẢNG
Một biểu hiện khác cho thấy có vô số người đang quan tâm quay về tìm hiểu
Luận Ngữ là cuốn sách của Vu Đan (Yu
Dan), được dịch sang Pháp văn dưới cái tên hiền lành Le Bonheur selon Confucius ( Hạnh Phúc theo cách của Khổng Tử) (3).
Nữ tác giả, một kẻ không có kiến thức chuyên sâu về Khổng tử và cũng thiếu luôn
cái vốn văn hóa Trung Hoa truyền thống, là một cao thủ về truyền thông đã làm
cho Luận Ngữ trở thành đầu sách bán
chạy nhất trong vài năm nay. Hiện tượng media
này lây lan đến một công chúng
rộng lớn nhờ các buổi truyền hình
và các sách in như cuốn vừa kể trên (sách của Vu Đan đã bán trên mười triệu bản).
Dưới bề ngoài giản dị ngắn gọn rất hấp dẫn, thật ra đây là một cách đọc bảo thủ
và đồng thuận bị những người bài bác cho rằng tác giả đã im không đề cập đến phần
phê phán quyền lực chính trị trong Luận
Ngữ, và đã giảm thiểu hóa thông điệp nhân đạo của Khổng Nho thành “ món cháo
gà cho tâm hồn” hoàn toàn thích hợp với chỉ thị nhà nước về mặt ổn định hóa xã
hội. Nấp bóng Khổng tử được tạc hình tạc tượng cùng khắp Trung Quốc ngày nay là
những quyền lợi “ của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa” cùng với các mệnh
lệnh ý thức hệ của “ một xã hội xây trên sự thuận hòa xã hội chủ nghĩa” (“société
d’harmonie socialiste”).
CHÚ
THÍCH
1.
Niên triều Minh Trị (1868-1912) đánh dấu ý chí cương quyết canh tân của Nhật Bản.
2.
Định hình từ thế kỷ thứ 7, khoa cử là
con đường bắt buộc để được triều đình tuyển dụng vào quan chức.
3.
Yu Dan, Le Bonheur selon Confucius. Petit
manuel de sagesse universelle, Belfond, Paris, 2009.
No comments:
Post a Comment