Chiếc xe chở tù lao vùn vụt trên đường phố
Manama ra phi trường. Trời chập choạng tối. Chiếc TV trong xe đang có chương
trình thời sự tối. Mặc dù nói tiếng Ả Rập, tôi vẫn hiểu rằng câu chuyện chính
là về Nam Hàn.
Tôi thấy những sinh viên bịt mặt bằng mùi xoa
ném bom xăng vào cảnh sát cơ động. Có vẻ những trận chiến ác liệt đang diễn ra
tại phố phường Hán Thành. Cảnh tượng này càng khiến tôi tin rằng xã hội Nam Hàn
là thứ xã hội phát-xít vô phương cứu chữa, và “hạ đẳng“ vô cùng so với Bắc
Triều Tiên.
“Khởi đầu của kết cục là đây!” – tôi nghĩ. Vài
giờ nữa, tôi sẽ bị đưa tới Hán Thành và không gì cứu nổi tôi khỏi sự dã man của
chính quyền Nam Hàn.
Henderson ngồi cạnh tôi, im lặng. Tôi biết
chương trình thời sự là mưu mẹo cuối cùng để tôi phải khai trước khi tôi bị đưa
đi. Nghĩ lại, hóa ra tất cả những gìdiễn ra trong nhà tù đều có một mục tiêu
duy nhất. Khi Camilla động viên tôi chớ để bị đưa đi Hán Thành, bà đã thử những
nỗi sọ hãi của tôi. Vì tôi tin rằng tôi sẽ bị tra khảo không thương tiếc ở Hán
Thành, Henderson đã có khả năng sử dụng điều đó trước tôi. Tôi nhớ lại những
món quà của Maria: bán nướng, quần áo, nữ trang. Tôi ngây ngất vì cử chỉ thân
thiện của Maria, nhưng đó chính là mục đích của cô ta. Ngoài ra, Maria còn mang
đến cho tôi bộ quần áo thể thao: quần, áo “ba lỗ” và áo khoác, rất hợp với
nhau. Ở Bắc Triều Tiên, đó là thứ ai cũng mơ ước! Trong các cửa hiệu không làm
sao mua được, họa ra thì ở chợ đen. Đặc biệt là đồ quần áo ni-lông là đồ quý
hiếm, và Maria đã cho tôi đúng những thứ đó. Người phương Tây hẳn sẽ thấy lạ là
tại Bắc Triều Tiên, những đồ này lại mang tính biểu tượng. Năm 1987, Kim Nhật
Thành tặng cho toàn dân một món quà là mọi học sinh trung học và cao đẳng đều
được mua một bộ quần áo pha ni-lông. Mẹ tôi cũng tất bật để mua cho Bamso,
nhưng ít lâu sau em đã qua đời. Mẹ biết con bà không sống được bao nhiêu nữa
nên muốn để cậu được hạnh phúc. Bamso bị quyến rũ bởi món quà, em để bộ quần áo
ở đầu giường để có thể chạm vào nó bất cứ lúc nào. Em mỉm cười với mẹ, vẻ hàm
ơn, mỗi khi tỉnh lại giữa hai lần bất tỉnh nhân sự. Bamso đã ra đi trong khi
vẫn ôm bộ quần áo! Không bao giờ em được mặc nó…
Tóm lại, khi Maria mang cho tôi đúng loại quần
áo ấy, cố nhiên tôi đã biết ơn cô. Đồng thời, tôi đã tính đến chuyện chẳng bao
lâu nữa, tôi sẽ bị tử hình và tôi cho rằng bộ quần áo là cử chỉ cao thượng cuối
cùng trước khi tôi lên đoạn đầu đài. Ở vào một hoàn cảnh như thế, tôi luôn phải
phân tích những “ý đồ’ của những kẻ giam giữ tôi, nhưng mỗi khi tôi muốn suy
nghĩ một cách tỉnh táo và khách quan, nhiều khi tôi bị cuốn vào sự bối rối của
tình cảm.
Trong xe tù, tôi ăn vận bộ quần áo đó và như
thế, tôi sẽ xuống xe tại Hán Thành khi vẫn mặc nó, tôi nghĩ vậy. Lúc ấy, tất cả
có vẻ như đều rất mang tính biểu tượng.
Trên xe, ngoài 4 người lính, còn có Maria. Cô
hay nhìn tôi vẻ thương cảm, nhưng lặng thinh. Chúng tôi đã không còn gì để nói
với nhau, mặc dù tôi muốn cám ơn cô đã thân thiện với tôi. Khi tôi được các y
tá mặc quần áo – tôi thấy họ như sắp khóc -, Maria đứng gần đó, gương mặt vô
cảm. Hẳn là cô thất vọng vô cùng về tôi, nhưng theo tôi cô hiểu được tôi phần
nào…
Sau “sự cố” tại nhà tù, đám lính gác đã không còn tử tế với tôi nữa. Khi xe đến, họ lôi tôi ra ngoài và tống tôi lên xe một cách thô bạo. Tôi thấy còn có hai xe cảnh sát chạy sau, như thế, tôi rời Bahrein với cả một “đoàn” hộ tống!
Sau “sự cố” tại nhà tù, đám lính gác đã không còn tử tế với tôi nữa. Khi xe đến, họ lôi tôi ra ngoài và tống tôi lên xe một cách thô bạo. Tôi thấy còn có hai xe cảnh sát chạy sau, như thế, tôi rời Bahrein với cả một “đoàn” hộ tống!
Khi chúng tôi ra tới phi trường thì trời đã tối. Chúng tôi ra thẳng cửa ra để lên máy bay, giữa những hàng thiết bị bảo dưỡng vì đèn chỉ đường. Khi nghe thấy tiếng động cơ máy bay, tim tôi bắt đầu loạn nhịp, tôi toát mồ hôi lạnh. Thế là hết!
e ngừng lại. Tôi được nhấc ra khỏi xe và trước
tôi, sừng sững chiếc máy bay của Korean Air như một con quái vật bằng thép.
Lòng tôi tràn ngập một cảm giác sợ hãi đến tột cùng, khủng khiếp hơn nhiều so
với những gì tôi đã từng cảm nhận.
Tôi gào thét và tìm cách vật lộn với nhóm lính canh, nhưng họ khỏe hơn tôi nhiều. Tay tôi bị xích, chân tôi cũng không thể cử động. Nhóm lính canh kéo tôi xềnh xệch về phía chiếc thang dẫn tới cửa máy bay. Dưới chân cầu thang là hai điệp viên Nam Hàn đứng chờ đợi, gương mặt không để lộ chút cảm giác nào. Họ khéo léo nhận tôi từ toán lính canh Bahren, nhét vào miệng tôi một thứ gì đó rồi dán miệng tôi bằng băng dính. Đó là một thứ dụng cụ gì đó bằng nhựa để tôi khỏi cắn lưỡi.
Hai điệp viên Nam Hàn tống tôi lên máy bay như một thứ hành lý. Họ lôi tôi đến đoạn giữa máy bay rồi ấn tôi xuống một chiếc ghế. Bên phải tôi là một nam điệp viên, bên trái là một nữ, và cả hai luôn khoác tay tôi. Tôi khóc nức nở và một người thứ ba thì lai nước mắt cho tôi. Anh này nói nho nhỏ gì đó để dỗ dành tôi, thấy vậy, người nữ điệp viên bên trái tôi bảo.
- Kệ cô ta, rồi cô ta sẽ tự khắc im thôi.
“Giá mình có thể chết được!”, tôi nghĩ, không biết rằng những gì xấu nhất còn ở sau lưng tôi...
Trong những phút đầu của vụ giam cầm mới này, tôi đã phạm phải sai lầm đầu tiên và cũng mang tính quyết định. Lại một điệp viên nữa tới chỗ tôi và xem bàn tay tôi.
- Đây là tay của một điệp viên được huấn luyện bài bản – anh ta nói với người ngồi cạnh tôi. – Các cậu thấy cô ta để mở bàn tay không?
Lập tức, tôi nắm chặt tay. Bằng hành động này, tôi đã chứng tỏ - một cách vô ý thức - rằng tôi hiểu tiếng Cao Ly.
Chiếc máy bay cất cánh mà không hề có thông báo gì. Nó chỉ chở mình tôi, nên không hề có đội chiêu đãi viên. Tôi thấy hơi tức cười vì cả một chiếc máy bay chỉ chở một người Bắc Triều Tiên. Đại đa số dân Bắc Triều Tiên không bao giờ được ra nước ngoài. Muốn xuất ngoại, cần có ô dù, hoặc phải có quan hệ đặc biệt với gia đình họ Kim.
Ngoài trời đã tối mịt, trong ca-bin sáng đèn. Chuyến bay này không ai ngủ được, và tôi thì càng không.
Tôi gào thét và tìm cách vật lộn với nhóm lính canh, nhưng họ khỏe hơn tôi nhiều. Tay tôi bị xích, chân tôi cũng không thể cử động. Nhóm lính canh kéo tôi xềnh xệch về phía chiếc thang dẫn tới cửa máy bay. Dưới chân cầu thang là hai điệp viên Nam Hàn đứng chờ đợi, gương mặt không để lộ chút cảm giác nào. Họ khéo léo nhận tôi từ toán lính canh Bahren, nhét vào miệng tôi một thứ gì đó rồi dán miệng tôi bằng băng dính. Đó là một thứ dụng cụ gì đó bằng nhựa để tôi khỏi cắn lưỡi.
Hai điệp viên Nam Hàn tống tôi lên máy bay như một thứ hành lý. Họ lôi tôi đến đoạn giữa máy bay rồi ấn tôi xuống một chiếc ghế. Bên phải tôi là một nam điệp viên, bên trái là một nữ, và cả hai luôn khoác tay tôi. Tôi khóc nức nở và một người thứ ba thì lai nước mắt cho tôi. Anh này nói nho nhỏ gì đó để dỗ dành tôi, thấy vậy, người nữ điệp viên bên trái tôi bảo.
- Kệ cô ta, rồi cô ta sẽ tự khắc im thôi.
“Giá mình có thể chết được!”, tôi nghĩ, không biết rằng những gì xấu nhất còn ở sau lưng tôi...
Trong những phút đầu của vụ giam cầm mới này, tôi đã phạm phải sai lầm đầu tiên và cũng mang tính quyết định. Lại một điệp viên nữa tới chỗ tôi và xem bàn tay tôi.
- Đây là tay của một điệp viên được huấn luyện bài bản – anh ta nói với người ngồi cạnh tôi. – Các cậu thấy cô ta để mở bàn tay không?
Lập tức, tôi nắm chặt tay. Bằng hành động này, tôi đã chứng tỏ - một cách vô ý thức - rằng tôi hiểu tiếng Cao Ly.
Chiếc máy bay cất cánh mà không hề có thông báo gì. Nó chỉ chở mình tôi, nên không hề có đội chiêu đãi viên. Tôi thấy hơi tức cười vì cả một chiếc máy bay chỉ chở một người Bắc Triều Tiên. Đại đa số dân Bắc Triều Tiên không bao giờ được ra nước ngoài. Muốn xuất ngoại, cần có ô dù, hoặc phải có quan hệ đặc biệt với gia đình họ Kim.
Ngoài trời đã tối mịt, trong ca-bin sáng đèn. Chuyến bay này không ai ngủ được, và tôi thì càng không.
Tôi tìm cách sắp xếp lại những gì người ta đã
biết về tôi. Tôi dùng hộ chiếu Nhật giả mạo, tôi muốn tự sát, và tôi thạo võ
thuật. Từ đó, cũng chưa có gì trực tiếp suy ra tôi có liên quan đến vụ nổ máy
bay, tuy nhiên, đã hình thành một bức tranh cho phép kết luận về tội trạng của
tôi một cách xác quyết
.- Cô thấy trong người thế nào? - người nữ
điệp viên ngồi cạnh tôi hỏi, bằng tiếng Nhật.
- Nói với cô ta bằng tiếng Hàn ấy! - người điệp viên ngồi bên phải tôi nói xen vào.
Nhưng khi họ lên tiếng bằng tiếng Cao Ly, tôi giả bộ như không hiểu gì cả; vì vậy người nữ điệp viên đôi lúc nói với tôi bằng tiếng Nhật.
- Nói với cô ta bằng tiếng Hàn ấy! - người điệp viên ngồi bên phải tôi nói xen vào.
Nhưng khi họ lên tiếng bằng tiếng Cao Ly, tôi giả bộ như không hiểu gì cả; vì vậy người nữ điệp viên đôi lúc nói với tôi bằng tiếng Nhật.
Chuyến bay như dài vô tận. Tôi chìm đắm trong
suy nghĩ không biết sẽ bị hành hạ như thế nào khi đến Hán Thành. Dìm trong
nước, dùng kìm búa, hay thanh sắt nung nóng – hình như người Nam Hàn thường sử
dụng những nhục hình như thế. Trên cả chặng đường, tôi run rẩy vì sợ hãi và khi
được đắp lên vai một chiếc chăn, tôi cũng vẫn tiếp tục run như cầy sấy. Giữa
đường, một điệp viên nói:
- Dù cô ta phạm phải tội ác tày trời như thế, nhưng các cậu có thấy cô ấy giống nàng công chúa ngủ trong rừng không?
Tôi thầm nghĩ “hội này chỉ nói nhảm”, và chỉ về sau tôi mới biết tay điệp viên muốn ám chỉ nàng Bạch Tuyết. Đối với tôi, “điển tích” ấy không nói lên điều gì cả, vì tại Bắc Triều Tiên văn học phương Tây bị cấm đoán, và sách vở dành cho trẻ em chỉ độc một đề tài ca ngợi Kim Nhật Thành. Một bận, một điệp viên mang trộm được vào trại huấn luyện cuốn “Ngàn lẻ một đêm” và chúng tôi đọc nó, vừa hồi hộp, vừa sợ hãi.
Để “tiêu” thời gian, và giữ được tinh thần quả cảm, tôi hát thầm nhiều lần bài “Hành khúc những đội xung kích”:
Các đồng chí, hãy chuẩn bị vũ khí
Tiêu diệt quân xâm lược đế quốc
Tiến lên, hãy dũng cảm chỉ tiến chứ không lùi
Dù phải liều thân, cũng phải cho quân xâm lược nếm mùi!
Hãy lao mình vào trận cuối cùng
Để cuộc chiến ngày mai mang lại thắng lợi
Hãy siết chặt vũ khí trong tay
Dù phải liều thân, cũng phải cho quân xâm lược nếm mùi!
Và tôi cũng nhớ đến gia đình. Tôi hồi tưởng lại cảnh bà ngoại đến thăm tôi, nhiều tháng trước khi tôi về thăm nhà lần cuối. Đã 15 năm tôi không được gặp bà và bà khóc òa khi rốt cục hai bà cháu cũng được thấy nhau.
- Ôi, Hyon Hee – bà ôm tôi vào lòng -, bà sống đến giờ cũng bõ vì đã được thấy lại cháu. Bao năm qua, bà luôn mường tượng khuôn mặt cháu!
Tối hôm ấy, chúng tôi ăn món “sinsullo” của Triều Tiên, ai nấy đều vui như hội và chúng tôi lại nhắc đến “những ngày xưa tháng cũ đẹp đẽ”. Hyon Ok, lúc đó vừa lấy chồng, cũng đến.
- Dù cô ta phạm phải tội ác tày trời như thế, nhưng các cậu có thấy cô ấy giống nàng công chúa ngủ trong rừng không?
Tôi thầm nghĩ “hội này chỉ nói nhảm”, và chỉ về sau tôi mới biết tay điệp viên muốn ám chỉ nàng Bạch Tuyết. Đối với tôi, “điển tích” ấy không nói lên điều gì cả, vì tại Bắc Triều Tiên văn học phương Tây bị cấm đoán, và sách vở dành cho trẻ em chỉ độc một đề tài ca ngợi Kim Nhật Thành. Một bận, một điệp viên mang trộm được vào trại huấn luyện cuốn “Ngàn lẻ một đêm” và chúng tôi đọc nó, vừa hồi hộp, vừa sợ hãi.
Để “tiêu” thời gian, và giữ được tinh thần quả cảm, tôi hát thầm nhiều lần bài “Hành khúc những đội xung kích”:
Các đồng chí, hãy chuẩn bị vũ khí
Tiêu diệt quân xâm lược đế quốc
Tiến lên, hãy dũng cảm chỉ tiến chứ không lùi
Dù phải liều thân, cũng phải cho quân xâm lược nếm mùi!
Hãy lao mình vào trận cuối cùng
Để cuộc chiến ngày mai mang lại thắng lợi
Hãy siết chặt vũ khí trong tay
Dù phải liều thân, cũng phải cho quân xâm lược nếm mùi!
Và tôi cũng nhớ đến gia đình. Tôi hồi tưởng lại cảnh bà ngoại đến thăm tôi, nhiều tháng trước khi tôi về thăm nhà lần cuối. Đã 15 năm tôi không được gặp bà và bà khóc òa khi rốt cục hai bà cháu cũng được thấy nhau.
- Ôi, Hyon Hee – bà ôm tôi vào lòng -, bà sống đến giờ cũng bõ vì đã được thấy lại cháu. Bao năm qua, bà luôn mường tượng khuôn mặt cháu!
Tối hôm ấy, chúng tôi ăn món “sinsullo” của Triều Tiên, ai nấy đều vui như hội và chúng tôi lại nhắc đến “những ngày xưa tháng cũ đẹp đẽ”. Hyon Ok, lúc đó vừa lấy chồng, cũng đến.
Một chút sau, có tiếng gõ cửa dồn dập. Mẹ tôi
ra mở. Một thanh niên đầm đìa mồ hôi đứng ở ngoài và kể với giọng run rẩy, rằng
chồng của Hyon Ok vừa qua đời ngày hôm trước bởi một cơn đau tim đột ngột khi
anh đang bơi ở Chhangvanvon.
Bởi, việc đưa khách đến bể bơi lớn nhất của Bắc Triều Tiên cũng là một phần công việc của hướng dẫn viên du lịch. Còn trẻ, nhưng đã từ nhiều ngày nay, anh than phiền vì phải làm việc quá sức, và Hyon Ok thì lại an ủi, bảo “anh đừng lo”.
Và thế là anh ra đi, để lại Hyon Ok mới qua tuổi hai mươi, góa bụa. Trước khi nhận được tin dữ, phòng khách gia đình tôi tràn ngập tiếng cười, từ đó trở đi chỉ còn tiếng than vãn khóc lóc.
Tôi hồi tỉnh. Ánh sáng ban ngày rọi vào cửa sổ máy bay và tôi cảm thấy nó hạ độ cao rất nhanh chóng. Tim tôi lại đập thình thịch khi một giọng nói cất lên:
Bởi, việc đưa khách đến bể bơi lớn nhất của Bắc Triều Tiên cũng là một phần công việc của hướng dẫn viên du lịch. Còn trẻ, nhưng đã từ nhiều ngày nay, anh than phiền vì phải làm việc quá sức, và Hyon Ok thì lại an ủi, bảo “anh đừng lo”.
Và thế là anh ra đi, để lại Hyon Ok mới qua tuổi hai mươi, góa bụa. Trước khi nhận được tin dữ, phòng khách gia đình tôi tràn ngập tiếng cười, từ đó trở đi chỉ còn tiếng than vãn khóc lóc.
Tôi hồi tỉnh. Ánh sáng ban ngày rọi vào cửa sổ máy bay và tôi cảm thấy nó hạ độ cao rất nhanh chóng. Tim tôi lại đập thình thịch khi một giọng nói cất lên:
- Chúng ta sắp tới Hán Thành rồi!
Chiếc máy bay xóc mạnh khi tiếp đất. Khi nó
giảm vận tốc, một điệp viên đến chỗ tôi, tay cầm chiếc áo lông.
- Ngoài kia trời lạnh – anh ta nói. - Mặc vào
đi cô.
Tôi được phép đứng dậy, người ta cởi chiếc
còng trên tay tôi. Sau khi mặc xong áo, tôi lại bị còng.
Máy bay dừng lại. Một cánh cửa được mở ra, không khí lạnh tràn vào. Sau vùng đất Bahrein nhiệt đới, sự khác biệt thật lớn. Có một cái gì đó trong bầu khí quyển khiến tôi liên tưởng đến Bình Nhưỡng, và trong một nháy mắt tôi cứ ngỡ chúng tôi vừa hạ cánh Sân bay Sunan. Nhưng khi vừa đến cửa, nhìn ra ngoài, không phải là Sunan rồi!
Kích thước của phi trường này thật là bề thế. Có hàng chục chiếc máy bay xung quanh chúng tôi, cứ mỗi phút lại có bao máy bay cất và hạ cánh. Phi trường hoành tráng không kém gì ở Châu Âu!
Tôi liếc thấy một đám đông các ký giả chờ đợi phía dưới, tay cầm máy ảnh. Một chiếc thang được lăn tới cửa ra. Tôi nhắm nghiền mắt, như thể nếu làm vậy tôi có thể biến khỏi cái nơi khủng khiếp này.
Tôi được giải ra cầu thang. Đèn máy ảnh chớp lia lịa, nhóm phóng viên hồi hộp thì thào với nhau.
- Cô gái này thật tuyệt! – ai đó kêu lên. - Người đẹp thế mà sao lại đi khủng bố?
Các điệp viên đang đưa tôi ra dừng lại một chút để tốp phóng viên nhiếp ảnh làm việc. Ai cũng hò hét bảo tôi nhìn về phía họ và tôi bối rối đến mức lại òa khóc. Đây không phải lần đầu, khi tôi cảm thấy mình như một món hàng đựng trong tủ kính.
- Ơ kìa, cô em, bình tĩnh nào! - một người khác kêu lên. - Đang ở Hán Thành đấy nhá!
Cuối cùng, tôi được đẩy vào chiếc li-mu-din và xe tôi phóng đi. Tôi đờ đẫn ngồi, đầu cúi gằm, mắt nhắm nghiền, và không làm sao nín được khóc.
- Sao cô không nhìn ngó đó đây? - một điệp viên hỏi. – Cô không tò mò xem Hán Thành thế nào à?
Sao lại không, tôi rất tò mò là đằng khác! Dân Bắc Triều Tiên nghĩ đến Hán Thành với vẻ kính phục sâu sắc, cho dù chúng tôi được nghe là thành phố này nghèo khó, trụy lạc và đầy rẫy tội phạm. Nếu hai miền Nam – Bắc được thống nhất, Hán Thành sẽ là viên kim cương của cả nước. Có điều, tôi mệt mỏi và chua xót đến mức không còn đầu óc đâu mà nhìn ngó nữa.
- Còn ai đi sau chúng ta không nhỉ? - một điệp viên hỏi người lái xe.
- Không, mình vượt hết bọn họ rồi.
- Tuyệt vời! Phóng thẳng tới Namsan nhé!
Mặc dù xe chạy rất nhanh, nhưng cũng có lúc phải dừng. Trong cả khoảng thời gian ấy, tôi nghe thấy tiếng của vô số xe hơi xung quanh chúng tôi. Giả thử nhìn ra ngoài, tôi sẽ phải sững sờ khi thấy tài-xế đều là dân Nam Hàn. Nhưng vì cúi đầu và nhắm nghiền mắt, khi ấy tôi cứ ngỡ sở dĩ tôi nghe thấy tiếng nhiều xe cộ như thế, vì Hán Thành đang bị nước ngoài chiếm đóng.
Tôi cảm thấy mình như con bò bị đưa vào lò sát sinh. Tôi chỉ chờ đợi khi nào đến nơi. Quá mỏi mệt với cuộc đời này, tôi thành thực muốn từ giã nó để vào cõi chết. Và khi đó, có cái gì khiến tôi đau nhói. Người điệp viên vừa nhắc đến cái tên “Namsan”. Đó chỉ có thể là trung tâm hỏi cung khét tiếng, một huyền thoại của giới điệp viên Bắc Triều Tiên. Người ta truyền tụng rằng ở tầng hầm luôn diễn ra những cuộc tra tấn, nhục hình ghê tởm. Không một người Bắc Triều Tiên nào có thể trở về từ Namsan.
Tôi kiệt sức, hình như tôi còn ngất lịm đi. Chỉ khi xe dừng bánh và cửa được mở, tôi mới tỉnh lại.
“Trời ơi, đừng, mình ở đây rồi sao? Rồi mình sẽ thế nào? Trò tra tấn nước, khi dạ dày nạn nhân bị nhồi nước cho đến khi vỡ tung. Hoặc hành hạ tình dục, người ta dùng cái cọc…”
- Đến nơi rồi - người nữ điệp viên ngồi cạnh tôi bảo. – Giờ cô có thể được nghỉ ngơi.
Tôi được đưa vào một căn phòng và họ bảo tôi nằm lên giường. Một bác sĩ khám cho tôi rồi tuyên bố:
Máy bay dừng lại. Một cánh cửa được mở ra, không khí lạnh tràn vào. Sau vùng đất Bahrein nhiệt đới, sự khác biệt thật lớn. Có một cái gì đó trong bầu khí quyển khiến tôi liên tưởng đến Bình Nhưỡng, và trong một nháy mắt tôi cứ ngỡ chúng tôi vừa hạ cánh Sân bay Sunan. Nhưng khi vừa đến cửa, nhìn ra ngoài, không phải là Sunan rồi!
Kích thước của phi trường này thật là bề thế. Có hàng chục chiếc máy bay xung quanh chúng tôi, cứ mỗi phút lại có bao máy bay cất và hạ cánh. Phi trường hoành tráng không kém gì ở Châu Âu!
Tôi liếc thấy một đám đông các ký giả chờ đợi phía dưới, tay cầm máy ảnh. Một chiếc thang được lăn tới cửa ra. Tôi nhắm nghiền mắt, như thể nếu làm vậy tôi có thể biến khỏi cái nơi khủng khiếp này.
Tôi được giải ra cầu thang. Đèn máy ảnh chớp lia lịa, nhóm phóng viên hồi hộp thì thào với nhau.
- Cô gái này thật tuyệt! – ai đó kêu lên. - Người đẹp thế mà sao lại đi khủng bố?
Các điệp viên đang đưa tôi ra dừng lại một chút để tốp phóng viên nhiếp ảnh làm việc. Ai cũng hò hét bảo tôi nhìn về phía họ và tôi bối rối đến mức lại òa khóc. Đây không phải lần đầu, khi tôi cảm thấy mình như một món hàng đựng trong tủ kính.
- Ơ kìa, cô em, bình tĩnh nào! - một người khác kêu lên. - Đang ở Hán Thành đấy nhá!
Cuối cùng, tôi được đẩy vào chiếc li-mu-din và xe tôi phóng đi. Tôi đờ đẫn ngồi, đầu cúi gằm, mắt nhắm nghiền, và không làm sao nín được khóc.
- Sao cô không nhìn ngó đó đây? - một điệp viên hỏi. – Cô không tò mò xem Hán Thành thế nào à?
Sao lại không, tôi rất tò mò là đằng khác! Dân Bắc Triều Tiên nghĩ đến Hán Thành với vẻ kính phục sâu sắc, cho dù chúng tôi được nghe là thành phố này nghèo khó, trụy lạc và đầy rẫy tội phạm. Nếu hai miền Nam – Bắc được thống nhất, Hán Thành sẽ là viên kim cương của cả nước. Có điều, tôi mệt mỏi và chua xót đến mức không còn đầu óc đâu mà nhìn ngó nữa.
- Còn ai đi sau chúng ta không nhỉ? - một điệp viên hỏi người lái xe.
- Không, mình vượt hết bọn họ rồi.
- Tuyệt vời! Phóng thẳng tới Namsan nhé!
Mặc dù xe chạy rất nhanh, nhưng cũng có lúc phải dừng. Trong cả khoảng thời gian ấy, tôi nghe thấy tiếng của vô số xe hơi xung quanh chúng tôi. Giả thử nhìn ra ngoài, tôi sẽ phải sững sờ khi thấy tài-xế đều là dân Nam Hàn. Nhưng vì cúi đầu và nhắm nghiền mắt, khi ấy tôi cứ ngỡ sở dĩ tôi nghe thấy tiếng nhiều xe cộ như thế, vì Hán Thành đang bị nước ngoài chiếm đóng.
Tôi cảm thấy mình như con bò bị đưa vào lò sát sinh. Tôi chỉ chờ đợi khi nào đến nơi. Quá mỏi mệt với cuộc đời này, tôi thành thực muốn từ giã nó để vào cõi chết. Và khi đó, có cái gì khiến tôi đau nhói. Người điệp viên vừa nhắc đến cái tên “Namsan”. Đó chỉ có thể là trung tâm hỏi cung khét tiếng, một huyền thoại của giới điệp viên Bắc Triều Tiên. Người ta truyền tụng rằng ở tầng hầm luôn diễn ra những cuộc tra tấn, nhục hình ghê tởm. Không một người Bắc Triều Tiên nào có thể trở về từ Namsan.
Tôi kiệt sức, hình như tôi còn ngất lịm đi. Chỉ khi xe dừng bánh và cửa được mở, tôi mới tỉnh lại.
“Trời ơi, đừng, mình ở đây rồi sao? Rồi mình sẽ thế nào? Trò tra tấn nước, khi dạ dày nạn nhân bị nhồi nước cho đến khi vỡ tung. Hoặc hành hạ tình dục, người ta dùng cái cọc…”
- Đến nơi rồi - người nữ điệp viên ngồi cạnh tôi bảo. – Giờ cô có thể được nghỉ ngơi.
Tôi được đưa vào một căn phòng và họ bảo tôi nằm lên giường. Một bác sĩ khám cho tôi rồi tuyên bố:
- Cô ấy hoàn toàn bình thường, chỉ mệt mỏi quá thôi. Sẽ để cô ấy ngủ một thời gian.
- Phải! Những trước hết anh tiêm cho cô ta một chút đường nho đi. Chắc chắn mức đường trong máu cô ta bị tụt đấy.
Tôi nhắm nghiền mắt khi người bác sĩ chọc mũi
kim vào tôi. Chắc chắn đây là loại thuốc bắt tôi phải khai sự thật! Tôi hơi mất
bình tĩnh, nhưng rồi chìm vào giấc ngủ chập chờn.
Khi tỉnh dậy, tôi nghe những tiếng nói lọt vào buồng qua cửa ra vào. Cửa đóng nhưng tôi vẫn nghe rõ mồn một.
Khi tỉnh dậy, tôi nghe những tiếng nói lọt vào buồng qua cửa ra vào. Cửa đóng nhưng tôi vẫn nghe rõ mồn một.
- Thế này chỉ tổ mất thời gian thôi! - một
giọng nam gào to. - Phải bỏ cái “rọ” trong miệng cô ta ra và bắt đầu ngay cuộc
hỏi cung!
- Nguy hiểm đấy! - một giọng nữ kêu lên. - Sếp
vẫn chưa cho phép chúng ta mà!
- Cậu ạ, tôi chịu trách nhiệm đấy! - người đàn ông vạc lại. - Thế nào thì cũng phải bắt đầu vào một lúc nào đó chứ.
- Cậu ạ, tôi chịu trách nhiệm đấy! - người đàn ông vạc lại. - Thế nào thì cũng phải bắt đầu vào một lúc nào đó chứ.
Tất cả im lặng rồi vài phút sau, một nam sĩ quan thẩm vấn bước vào phòng và lấy chiếc “rọ” bằng nhựa khỏi miệng tôi. Miệng tôi khô khốc, họng đau rát nhưng đau đớn nhất vẫn là chỗ dán băng dính. Khi người sĩ quan tước nó ra, một mẩu da tôi cũng theo kèm, nhưng tôi cố để không kêu lên. Kể từ khi rời Bahrein, tôi hoàn toàn sụp đổ và giờ thì tôi nghĩ rằng, đã đến lúc phải tỏ ra can trường một chút.
Từ lúc ở phi trường đến giờ tôi mới mở mắt lần đầu. Căn phòng quét vôi trắng này không có cửa sổ. Ngoài chiếc giường, còn hai bàn làm việc, một đi-văng và vài chiếc ghế. Da tôi tím tái khi tôi nhìn quanh và thầm nghĩ, không biết bao nhiêu người ái quốc, bao nhiêu nhà cách mạng Bắc Triều Tiên đã bị sát hại trong căn phòng này.
Ba người bước vào, như thế trong phòng đã có hai đàn ông và hai phụ nữ. Tôi lấy hết nghị lực để bước vào cuốc chiến tâm lý mà tôi đã tính đến. Các điệp viên này đều lịch sự, nhưng không gì qua khỏi con mắt của họ. Đó là những kẻ rất nhà nghề, kiểu như nhân viên KGB hay CIA, của Nam Hàn.
Họ cho tôi uống một thứ nước gì như sữa và chẳng mấy chốc, tôi lại lăn ra ngủ li bì. Khi tôi thức dậy, cả ba người vẫn ở đó như thể không hề động đậy. Bên hai chiếc bàn làm việc là một người đàn ông và một phụ nữ, họ theo dõi tôi và ghi ghi chép chép. Một người phụ nữ khác đứng bên chân giường tôi, còn người thứ tư dựa vào tường cạnh cửa ra vào. Bên ngoài, có những tiếng ồn ào khiến tôi nghĩ rằng có lẽ đang là buổi sáng. Một lúc sau, người phụ nữ đứng bên giường tôi bảo tôi dậy. Tôi cố gắng làm theo lời cô ta, nhưng trong người yếu đến mức phải để cô ta giúp đỡ. Vịn vào cô, tôi ra nhà tắm và tại đó, cô cởi hết quần áo của tôi và tắm rất kỹ cho tôi. Tôi ngượng ngùng vì bị lột truồng như thế, nhưng nước nóng khiến tôi vô cùng dễ chịu. Những kẻ đang giam giữ tôi xử sự với tôi rất tế nhị, nhưng tôi đoán rằng đây chỉ là mẹo để họ chiếm được sự tin tưởng của tôi. Với con mắt soi mói, tôi nhận ra ngay bánh xà phòng là của ngoại. Ở miền Bắc, chúng tôi chỉ dùng đồ nội, cho dù chất lượng không thật tốt.
Tôi được phép chải răng, lần đầu tiên kể từ khi ở Bahrein. Rồi, tôi nhận quần áo sạch tinh tươm. Tất cả quần áo tôi nhận được đều có nhãn Nam Hàn và gần như tôi chưa thấy loại đồ lót và bộ thể thao nào chất lượng hơn những thứ này. Chả hiểu, tại sao người ta phải phí phạm những thứ đắt đỏ đến thế cho một tên tội phạm, tôi nghĩ thầm, chắc hẳn là chỉ để tôi cung khai đây mà.
Tôi trở lại về phòng và được nhận một ly cà phê. Từ bao ngày nay tôi đã thèm cà phê rồi. Ly cà phê nóng vô cùng, tôi buộc phải thổi hơi nước nóng bỏng trên miệng ly. Một điệp viên bảo người bên cạnh:
- Tôi chắc chắn cô ta là người Cao Ly. Chỉ có dân Hàn mới thổi hơi nóng như thế.
Trước khi kịp suy nghĩ, tôi đặt ly cà phê xuống bàn.
“Bọn khốn kiếp!”
Tôi đứng dậy, ra nhà tắm và đổ hết ly cà phê. Đang trong khi rửa chiếc cốc, một nữ điệp viên bưóc vào và bảo tôi cứ vứt cốc đi. Tôi sửng sốt. Chiếc cốc nhựa vẫn nguyên vẹn, hoàn toàn có thể dùng lại được. Tôi coi đây là sự phí phạm kinh khủng và càng tin rằng, vì thế Nam Hàn mới bị nghèo đói, nợ nần.
Rồi tôi có một bữa sáng ê hề: trứng, cơm và kim chi, món ăn “quốc hồn quốc túy” mà cả dân tộc Cao Ly ưa thích. Tôi không muốn ăn, nhưng không thể cưỡng lại sự quyến rũ của những mùi vị thơm ngon: chẳng mấy chốc, tôi đã ăn sạch! Sau đó, tôi hỏi bằng tiếng Nhật rằng hôm nay là mùng mấy? Họ bảo, ngày 17 tháng Chạp, nghĩa là đã 17 ngày trôi đi từ sự kiện đáng tiếc tại Bahrein. Tôi cũng ước lượng gần gần như thế và nghĩ thầm chả hiểu mình còn chịu đựng được đến bao giờ.
Tôi lại phạm phải một sai lầm mang tính quyết
định nữa khi nghe hai nữ điệp viên bàn bạc về… chu kỳ kinh nguyệt của tôi. Vì
cũng phải để ý điều này, tôi viết lên một tờ giấy: “24” - có nghĩa là chừng 24
tháng Chạp tôi sẽ có kinh. Lúc đó, họ không quan tâm lắm đến điều này và tỏ ra
háo hức hơn khi trò chuyện về kỳ bầu cử.
- Cậu bầu cho ai?
- Cậu biết không, gia đình tớ không thống nhất
đâu: đàn ông thì muốn bầu cho X, phụ nữ lại khoái Y. Thành thử tớ cũng sẽ bỏ
phiếu cho Y.
Nghe mà tôi chả hiểu tí gì cả. Tôi xuất thân
từ một xứ sở mà cư dân tại đó coi mình may mắn vì chỉ có một ứng cử viên duy
nhất - Kim Nhật Thành - để chúng tôi bầu làm chủ tịch trong mọi hoàn cảnh. Sáng
kiến “bầu cử tự do” có vẻ là một khái niệm hoàn toàn hỗn loạn, tôi không làm
sao hình dung được dân Nam Hàn có thể đồng thuận với nhau trong bất cứ vấn đề
gì như thế nào.
Tại Bắc Triều Tiên, cứ bốn năm lại có những kỳ
bầu cử. Ở tất cả mọi khu vực, bao giờ cũng chỉ có một ứng cử viên duy nhất do
Đảng Công nhân đề cử, và người dân có thể bầu hoặc không cho người đó.
Nhiều tuần trước kỳ bầu cử, người ta đã tổ
chức những cuộc họp hành, diễn hành, hội thảo để đến khi bỏ phiếu, tỉ lệ đi bầu
phải đạt một trăm phần trăm. Cố nhiên, trên 17 tuổi, luật buộc mọi người đều
phải đi bầu, nên tất cả khẩu hiệu và và lễ lạt chỉ mang tính cổ động.
Đến ngày bầu cử, từ bảy giờ sáng, ai nấy đã xếp hàng rồng rắn
Đến ngày bầu cử, từ bảy giờ sáng, ai nấy đã xếp hàng rồng rắn
tại các
đơn vị bỏ phiếu. Thông thường, gần các phòng phiếu, bao giờ cũng có một đội
nhạc để đảm bảo bầu không khí vui nhộn. Cử tri được kiểm tra, rồi nhận một
phiếu bầu, trên đó có đóng sự lựa chọn “đồng ý”. Sau đó, cử tri bước vào phòng,
nơi có ba viên chức đang ngồi, rồi tiến tới nơi đặt những tấm ảnh các thành
viên gia đình họ Kim, cúi đầu chào. Rồi, cử tri chỉ việc bỏ lá phiếu “đồng ý”
vào hòm phiếu đặt dưới loạt ảnh. Ai không muốn “đồng ý”, kẻ đó chỉ việc không
bỏ phiếu vào hòm. Cố nhiên, tôi không cần phải nói là trước mặt các viên chức
ngồi đó, chả ai dám làm điều đó!
Đến bữa trưa, tôi được ăn cháo và rong biển
phơi khô. Tại Cao Ly, món sau này được coi là “sơn hào hải vị”, nhưng vì nhập
vai người Hoa, tôi phải hỏi những người canh giữ tôi rằng chả lẽ tôi phải ăn
giấy cháy này à? Họ chỉ mỉm cười và không nói năng gì cả. Rồi họ bắt đầu kể
truyện tiếu lâm.
- Ai là người cứ nói hoài, dù được để ý hay là
không?
- Chính khách à?
- Gần đúng. Giáo viên!
Hoặc:
Quan tòa hỏi một tên trộm tại sao lại… ăn trộm. Tên này trả lời, “vì tôi đói”. Nhưng khi vị quan tòa lưu ý tên đạo chích rằng, lần gần nhất, hắn đã cuỗm một đôi giày, nhân vật của chúng ta phẫn nộ:
- Thế quý tòa nghĩ, không lẽ tôi đi chân đất ăn trộm?
Hay:
Một người Nga bị đày đi Siberia vì tội “có thái độ không yêu nước”. Anh ta nói với quan tòa:
- Giời ạ, quý vị cứ hay bảo ở Mỹ tệ lắm, sao không đày tôi sang đó cho tôi nhờ?
Tôi phải chạy ra phòng tắm để họ khỏi thấy tôi phì cười. Đối với cái tai người Bắc Triều Tiên, những câu chuyện tiếu lâm này thật kinh khủng và dù có ở trong hoàn cảnh đáng lo sợ đến thế nào đi nữa, chúng đã tác động đến tôi. Tôi mở vòi cho nước chảy để lấp đi tiếng cười trong cổ họng. Từ bao tuần nay, tôi mới được cười như thế.
Các điệp viên Nam Hàn thực sự nhà nghề, họ đối xử với tôi một cách rất tôn trọng. Họ biết, điều này sẽ mang lại kết quả nhanh hơn là dùng nhục hình hoặc gạn hỏi cụ thể. Chỉ việc cùng sống bên họ, và bản thân tôi cũng là người Hàn, nên tôi đã từng bước đầu hàng!
Một ngày nọ, các nữ điệp viên nảy ta ý kiến: chúng tôi đừng ngồi im lặng như thế, mà hãy hát hò gì đó cho vui. Một cô tên là Pak Lin mở đầu với một bài hát có tựa đề “Chú thỏ con bên núi” mà tôi có nhận ra. Đây là một bài dân ca, đã bị Kim Chính Nhật cấm vì chính quyền muốn chúng tôi hát những ca khúc tuyên truyền ái quốc hơn. Trong khi hồi hộp nghe bài hát, những hồi ức thời thơ ấu lại tràn về trong tôi.
Quan tòa hỏi một tên trộm tại sao lại… ăn trộm. Tên này trả lời, “vì tôi đói”. Nhưng khi vị quan tòa lưu ý tên đạo chích rằng, lần gần nhất, hắn đã cuỗm một đôi giày, nhân vật của chúng ta phẫn nộ:
- Thế quý tòa nghĩ, không lẽ tôi đi chân đất ăn trộm?
Hay:
Một người Nga bị đày đi Siberia vì tội “có thái độ không yêu nước”. Anh ta nói với quan tòa:
- Giời ạ, quý vị cứ hay bảo ở Mỹ tệ lắm, sao không đày tôi sang đó cho tôi nhờ?
Tôi phải chạy ra phòng tắm để họ khỏi thấy tôi phì cười. Đối với cái tai người Bắc Triều Tiên, những câu chuyện tiếu lâm này thật kinh khủng và dù có ở trong hoàn cảnh đáng lo sợ đến thế nào đi nữa, chúng đã tác động đến tôi. Tôi mở vòi cho nước chảy để lấp đi tiếng cười trong cổ họng. Từ bao tuần nay, tôi mới được cười như thế.
Các điệp viên Nam Hàn thực sự nhà nghề, họ đối xử với tôi một cách rất tôn trọng. Họ biết, điều này sẽ mang lại kết quả nhanh hơn là dùng nhục hình hoặc gạn hỏi cụ thể. Chỉ việc cùng sống bên họ, và bản thân tôi cũng là người Hàn, nên tôi đã từng bước đầu hàng!
Một ngày nọ, các nữ điệp viên nảy ta ý kiến: chúng tôi đừng ngồi im lặng như thế, mà hãy hát hò gì đó cho vui. Một cô tên là Pak Lin mở đầu với một bài hát có tựa đề “Chú thỏ con bên núi” mà tôi có nhận ra. Đây là một bài dân ca, đã bị Kim Chính Nhật cấm vì chính quyền muốn chúng tôi hát những ca khúc tuyên truyền ái quốc hơn. Trong khi hồi hộp nghe bài hát, những hồi ức thời thơ ấu lại tràn về trong tôi.
Thời thơ ấu đẹp đẽ, tôi sống trong thung lũng
nở hoa,
Ngàn, vạn cành đào trùm lên tôi,
Dạo ấy, tôi coi làng nhỏ bên núi của tôi như
một tòa cung điện,
Giá giờ
đây, tôi được thấy lại Người, cung điện đầy hoa của tôi!
Trong lòng, tôi nhẩm hát cùng Pak Lin. Tôi nhớ
lại căn nhà nhỏ của bà tôi ở Kesong, ngôi nhà mái gỗ xây theo kiểu cổ giữa
những ngọn núi tuyệt đẹp, trước của nhà có một con suối. Mùa xuân, cả làng tràn
ngập trong biển hoa, hệt như lời bài hát.
Đến lượt tôi phải hát. Tôi chọn “Hoa mận”, một
ca khúc Trung Quốc mà ai cũng biết.
Hoa mận, hoa mận, hoa mận ở mọi nơi,
Hoa mận, hoa mận, hoa mận ở mọi nơi,
Hồn ta mạnh mẽ như cành mận,
Hoa nở khi giá băng giận giữ, hoặc khi nắng
chói chang,
Hoa mận, nhành hoa đẹp đẽ của Trung Hoa.
Vừa kết thúc, một nam điệp viên bảo tôi bằng
tiếng Nhật:
- Sao cô không hát một bài tiếng Hàn có hơn
không, cô đang ở Hàn Quốc mà. Như thế mới là lịch sự!
Mọi người vỗ tay hưởng ứng và khích lệ. Tôi
phản đối, bảo rằng tôi chả thuộc bài hát tiếng Hàn nào cả. Cuối cùng, tôi phải
chịu thua và lẩn nhẩm hát một ca khúc mà tôi đã thấy trong TV. Tôi thấy nên hòa
mình vào trò chơi này thì hơn.
Rồi, một nữ điệp viên cất giọng hát một ca
khúc Hàn vô cùng da diết:
Những
gương mặt mỉm cười, đàn chim cất lời hót,
Chuông giáo đường cất tiếng, những ngành hoa hé nở,
Người yêu tôi bỏ tôi, lên Hán Thành tuyệt đẹp,
Và, tôi mong ước được lên Hán Thành với người tôi thương!
Nghe hát, trong tôi nảy ra một suy nghĩ. Tôi bắt đầu ngẫm nghĩ, phải chăng Hán Thành quả thực đẹp đẽ, và qua lời ca của người nữ điệp viên, tôi đoán là chắc hẳn phải như vậy. Nhưng rồi tôi tự nhủ. Tinh thần cách mạng mà tôi được dạy dỗ ròng rã tám năm nay, đâu rồi? Sự trung thành ở mức cao nhất của tôi, với Tổ quốc, biến đâu? Thế mà tôi để mặc cho những con người này cám dỗ và tôi không còn nghị lực chống lại!
Chuông giáo đường cất tiếng, những ngành hoa hé nở,
Người yêu tôi bỏ tôi, lên Hán Thành tuyệt đẹp,
Và, tôi mong ước được lên Hán Thành với người tôi thương!
Nghe hát, trong tôi nảy ra một suy nghĩ. Tôi bắt đầu ngẫm nghĩ, phải chăng Hán Thành quả thực đẹp đẽ, và qua lời ca của người nữ điệp viên, tôi đoán là chắc hẳn phải như vậy. Nhưng rồi tôi tự nhủ. Tinh thần cách mạng mà tôi được dạy dỗ ròng rã tám năm nay, đâu rồi? Sự trung thành ở mức cao nhất của tôi, với Tổ quốc, biến đâu? Thế mà tôi để mặc cho những con người này cám dỗ và tôi không còn nghị lực chống lại!
Về sau, các nhân viên thẩm vấn đặt cho tôi vài
câu hỏi đời thường về tôi, nhưng về mặt hình thức, tôi không bị hỏi cung. Họ
trò chuyện với tôi như thể tôi là bạn của họ, còn tôi thì thuật lại câu chuyện
cổ tích mà Henderson đã được nghe ở Bahrein. Có vẻ như họ tin tôi, họ không nói
câu nào thô bạo hay khiêu khích, chỉ có điều đôi lúc họ có ghi chép. Đúng là có
một số câu hỏi của họ khiến tôi khó xử khi trả lời.
- Cô có nhớ một tài tử điện ảnh nào mà cô đã xem trên TV ở Ma Cao không?
- Lý Tiểu Long.
- Sở dĩ cô cắn ống thuốc độc vì Shinichi bảo cô phải như thế?
- Vâng…
- Nếu cô là người Hoa, cô phải gặp nhiều người Hàn. Thế mà cô lại bảo cô không hề biết một câu tiếng Hàn nào?
- Thì… có chứ… ganna (con đĩ).
Một điệp viên giơ tấm ảnh Kim Nhật Thành trước mặt tôi:
- Cô thấy người này bao giờ chưa?
Tôi nhìn rất kỹ.
- Có, hình như là trong TV.
- Tên ông ta là gì?
- Chin Le Chung – tôi đáp, nói theo âm tiếng Trung.
Buổi tối, khi tôi cố chợp mắt, tôi nghe được câu chuyện của họ.
- Sử dụng một cô gái như thế vào mục đích chính trị là điều không thể tha thứ được!
- Tôi biết. Tội ác là tội ác, nhưng thực sự, tôi thương cô ta.
- Phải trừng phạt thằng khốn Kim Nhật Thành!
Tôi rất muốn nhào ra khỏi giường để hét vào tai họ: “Đồ chó chết! Sao chúng mày dám gọi Lãnh tụ Vĩ đại là “thằng khốn”?” Ở đất nước tôi, không thể có tội lỗi nào lớn hơn thế. Kim Nhật Thành đối với người dân Bắc Triều Tiên khác chi Trời đối với Đất. Nhưng, cố nhiên, tôi chẳng làm được gì cả…
Hôm sau, ngày 18 tháng Chạp, tôi mới thực sự bắt đầu bị lấy cung. Các nhân viên thẩm cung lịch sự, nhưng họ làm việc rất tỉ mỉ và đòi hỏi ở tôi những chi tiết mà, mặc dù tôi cố đến thế nào đi nữa, cũng không làm sao đáp ứng được. Họ hỏi tên phố xá ở khu vực mà tôi bảo là nơi tôi trưởng thành. Họ hỏi tên các rạp phim mà tôi từng đi xem. Họ đề nghị tôi vẽ lại ngôi nhà của Shinichi và không ngừng nghỉ, họ gạn hỏi tôi về thời gian tôi ở Nhật. Vì đã bao giờ đặt chân tới Nhật đâu, tôi bất lực, không sao đưa ra được những câu trả lời đáng tin một chút. Và giữa chừng, họ thường xuyên trò chuyện về tôi bằng tiếng Hàn, họ đưa ra những nhận xét này nọ.
- Cô gái này ngu lắm, không làm gián điệp được đâu - một người đàn ông nói và anh ta theo dõi xem tôi phản ứng ra sao.
Ngày hôm sau thật kinh hoàng: một nhân viên mới đến hỏi cung tôi. Đó là một người đàn ông điển trai, chạc ngũ tuần, ăn vận Âu phục màu đen lịch sự, hút thuốc lá Mỹ liên hồi. Bằng tiếng Trung, ông ta bảo tôi làm một bảng theo trình tự thời gian về đời tôi, với đủ những tên tuổi, mốc thời gian và các sự kiện quan trọng nhất.
- Chúng tôi biết cô là người Triều Tiên – giữa chừng, ông ta buông lời nhận xét. – Hay hơn cả là cô hãy thú nhận đi.
Tôi không để tâm tới lời nhận xét ấy. Làm xong bảng, tôi đưa cho ông ta. Liếc mắt nhìn, ông ta nhăn trán rồi vò nát tờ giấy và quẳng vào sọt rác.
- Rõ ràng là cô ta nói dối! - ông ta bảo những người còn lại.
Khi ấy, tôi bật ra, bằng tiếng Trung:
- Tôi nói dối gì nào?
Ông ta nheo mắt giễu cợt như thể muốn nói: “Tôi có cần nói tiếp nữa không nào?” Rồi, châm thêm một điếu thuốc, ông ta nhìn tôi: - Cô nói tôi nghe – ông ta thổi khói thuốc theo đường mũi -, ở Nhật cô xem TV gì? Ý tôi là, TV mác gì?
- Azalea.
Ông ta lại nhăn trán, còn các điệp viên khác thì phá lên cười. Azalea là một thương hiệu của Bắc Triều Tiên, có điều tôi bối rối quá nên chả nghĩ trong đầu được cái gì nữa.
- Thế cô thường xem kênh gì? - lại một câu hỏi mới.
- Trời ạ! – tôi đứng dậy -, tôi đã phát ngán cái trò cứ phải trả lời đi trả lời lại những câu hỏi nhàm chán này rồi. Sao các ông cứ đặt đi đặt lại những câu hỏi này thế? Nếu coi tôi là kẻ có tội, các ông giết quách tôi đi cho rồi có hơn không?
Tôi nhào ra giường khóc nức nở. Tôi không xứng đáng để trở thành một điệp viên bí mật. Tôi thiếu sự quyết tâm trong tinh thần, một phẩm chất không thể thiếu được, và óc phân tích của tôi cũng không đủ khéo léo. Tôi thèm được về nhà, với gia đình, muốn vĩnh viễn quên đi rằng đã được đảng lựa chọn. Tôi thầm nghĩ: giá tôi được chết để thay cho em Bamso…
Ngày qua ngày, tôi càng bị tra hỏi ngặt nghèo hơn. Họ hỏi tôi được Shinichi trả bao nhiêu lương, tôi để dành được bao nhiêu, cất ở ngân hàng nào. Họ gạn hỏi tôi đi taxi ở Nhật bao giờ chưa và khi tôi bảo rồi, họ đề nghị tôi vẽ lại chỗ ngồi dành cho khách. Tòa nhà phi trường Narita màu gì, mấy tầng? Ở Quảng Châu, tôi đã đến một địa danh tên là Shaomen chưa?
Rồi họ bắt tôi viết tên mình ra giấy. Tôi viết bằng tiếng Trung: Pai Chui Hui. Họ mang giấy đi rồi vài phút sau, đã trở lại với một tập giấy, trên đó có chữ ký của tôi với đủ kích thước to nhỏ. Đúng, chữ ký của tôi, mà làm sao họ làm nhỏ lại được như hạt vừng, và phóng to như tấm bảng hiệu? Tôi sững người, không thể hiểu được, khi nhìn tập giấy. Phản ứng của tôi khiến các nhân viên thẩm vấn khoái chí, nhưng họ không nói gì cả. Thay vào đó, họ hỏi tôi một điều khiến tôi lạnh gáy.
- Cô đã gặp ai tại phi trường Baghdad? Không phải chỉ một người, phải không? Cái tên Cho có nhắc cô điều gì không?
Câu hỏi này được đặt bằng tiếng Triều Tiên. Nhưng nó làm tôi bất ngờ quá, đến nỗi tôi không phản ứng được gì cả. Tôi tròn mắt và chắc hẳn là mặt mày nhợt nhạt.
- Cô bắt đầu chán rồi phải không? - người đàn ông hỏi cung tôi hỏi bằng tiếng Trung. - Cô bắt đầu chán rồi phải không? – ông ta nhắc lại bằng tiếng Nhật. – CÔ BẮT ĐẦU CHÁN RỒI PHẢI KHÔNG? – ông ta gầm lên bằng tiếng Triều Tiên, và tôi bắt đầu nức nở.
Ông ta quẳng cuốn hộ chiếu tôi lên bàn.
- Ai đây? – ông ta hỏi.
- Làm sao tôi biết được?! - nắm chặt tay, tôi hét lên.
Người sĩ quan thẩm vấn ấn tôi vào tường. Gương mặt rắn rỏi như đá, ông ta gằn giọng bằng tiếng Triều Tiên, lạnh lẽo:
- Một trăm mười lăm người đi trên chiếc máy bay đó. Đại đa số là công nhân, vô tội, chả dính dáng gì đến chính trị. Họ đã làm việc cực nhọc trong cái nóng khủng khiếp nơi sa mạc để nuôi gia đình, để có tiền cho con cái ăn học. Đã xa nhà bao tháng trời, họ mang ít tiền về cho gia đình - số tiền mà họ đã cật lực làm lụng để có nó. Chúng tôi không biết vì sao cô làm như thế, nhưng cô đáng để sét đánh chết! – Ông hít một hơi thuốc và thổi vào mặt tôi. – Tôi biết không phải cô tự ý làm điều này, tôi đoán có lẽ cô đã phải trả giá bằng tính mạng cô. Nhưng, trời tru đất diệt cô đi! Cô nợ những gia đình có người bị hại, ít nhất là một lời khai, để chúng tôi có thể xử lý những kẻ thực sự phải chịu trách nhiệm vì tội ác này. Nếu đánh mất phẩm giá con người, chúng ta còn lại gì, chúng ta khác gì loài cầm thú, điền cuồng và tàn bạo?
Lúc ấy tôi đã khóc không còn biết trời đất là gì nữa, nhưng ông ta vẫn tiếp tục nói.
- Cô đánh mất tính người rồi, cô bé ạ - dùng ngón tay, ông búng về phía tôi. – Làm sao cô mong chúng tôi đối xử với cô như một con người? Sao chúng tôi lại phải làm thế? Tất cả đều có thời điểm của nó, và chẳng mấy chốc cô sẽ đánh mất khả năng sám hối. Nếu để lỡ cơ hội này, có lẽ cô sẽ không còn lần nào nữa đâu!
Ông ta nhìn rất sâu vào mắt tôi, ở khoảng cách gần như vậy, trông ông ta lại không mấy điển trai.
- Chính phủ của cô không mấy để tâm đến tính mạng con người và tôi lấy làm tiếc vì cô đã trở thành công cụ trong tay họ. Giả thử làm được một điều gì cao cả thì cô đáng được trọng. Đằng này, giết hại những người vô tội… Cô không đáng được coi trọng. Đây là một hành động độc ác và ngu xuẩn. Và nếu không hiểu rằng đây là một hành động ngu xuẩn, thì cô cũng là kẻ ngu xuẩn. Cô hiểu tôi chứ? Kẻ nào bỏ qua lẽ phải để kết thân với sự độc ác, kẻ ấy đáng bị gọi là phản bội. Nhưng, nếu ai từ bỏ sự tàn độc đề về với cái tốt lành, đó là người chân chính. Nhồi sọ, tẩy não một thiếu nữ trẻ như cô là một hành động khốn nạn. Nhưng cô vẫn còn thời gian để xin lỗi và sám hối. Tôi chỉ cảnh báo rằng, khoảng thời gian ấy không nhiều! – Ông nhìn trừng trừng vào mắt tôi rồi quay đi. Nhưng đến lúc đó ông ta vẫn chưa chịu thôi. Ra đến cửa, ông còn ngoảnh lại và thêm vài lời với tôi.
- Cô hãy nghĩ mà coi. Nếu cô khai thì đó sẽ là một sự đền bù gì đó đối với những gia đình đã đánh mất người thương của họ. Nhưng nếu muốn, cô sẽ chết một cách bẩn thỉu với máu của một trăm mười lăm con người vô tội, vì một đất nước không hề coi trọng tính mạng cô hơn tính mạng của con nhặng! Nếu vậy, Thượng đế cũng sẽ không rủ lòng nhân từ với cô. – Ông ta đã bước ra hành lang mà tôi vẫn nghe được giọng ông. – Nghĩ về điều này, Chui Hui nhé. Hay phải để tôi nói rằng, Okhva nhé?
Tôi
đã chịu thua cuộc.
Hai tuần liền, tôi chịu đựng những cuộc hỏi cung bất tận ở Bahrein, và còn tàn nhẫn hơn thế nữa trong tám ngày sau ở Hán Thành. Tôi tập trung hết trí óc và dối trá để trung thành với Lãnh tụ Vĩ đại của chúng tôi. Và tôi phải nói dối để che lấp những sự dối trá khác. Nhất là, tôi đã nói dối để cứu vãn gia đình tôi khỏi kết cục không thể tránh khỏi đang chờ họ.
Nhưng tất cả đã kết thúc. Tôi không còn chống cự nổi nữa. Các điệp viên Nam Hàn đã chiến thắng! Không phải bằng vũ lực như tôi từng tính đến, mà bằng sự kiên nhẫn và tỉnh táo vô hạn. Tôi bảo họ rằng tôi là một cô gái người Hoa mồ côi. Rằng ông bác Hachiya Shinchi tốt bụng đã nhận tôi làm con nuôi một cách không chính thức, và hai chúng tôi du ngoạn khắp Châu Âu. Nhưng tôi đã không đánh lừa được họ. Ngay từ khi chưa khai báo, họ đã biết tôi là gián điệp Bắc Triều Tiên. Họ cũng biết tôi phải chịu trách nhiệm về cái chết của 115 con người vô tội và vì thế, sẽ không bao giờ tôi được tha thứ.
Đúng vậy, họ đã thắng. Và cuối cùng, thành phố Hán Thành đã hoàn toàn khiến mọi sự kháng cự của tôi tan tành. Tôi được nuôi dạy với suy nghĩ rằng dân Nam Hàn là thứ bù nhìn khốn cùng, là nô lệ cho thể chế tư bản không kìm hãm. Và khi mới đặt chân tới Hán Thành, tôi cố tìm cách tin tưởng một cách mù quáng vào những gì được dạy dỗ.
Nhưng, tôi đã phục sinh! Đứa trẻ trưởng thành như một đệ tử của Kim Nhật Thành, đã chết ở phi trường Bahrein. Dần dà, từng bước, một con người khác đã thay thế nó. Và trước hết, Hánh Thành là cái nôi của đứa trẻ này.
Trước ngày tôi khai báo, những nhân viên hỏi cung tôi cho biết hôm ấy, sẽ không có thẩm vấn: họ đưa tôi đi dạo và ngắm thành phố.
Tôi được nhận một bộ vét hai phần màu đen. Mặc nó vào, tôi có cảm tưởng mình như một cô trò nhỏ lần đầu tới trường và tôi không hiểu người ta tử tế với tôi như thế làm gì.
Khi ra khỏi căn cứ cảnh sát, chúng tôi đi lên một quả đồi. Cỏ cây đều thân thuộc với tôi, những tảng đá hoa cương, đất đỏ… tất cả đều thật hài hòa. Trên đầu tôi là bầu trời xanh đậm với những áng mây hệt như bầu trời mà chúng tôi sống dưới nó ở Bình Nhưỡng. Nhưng khi đó chúng tôi lên tới đỉnh đồi và trung tâm Hán Thành tọa lưới ở phía dưới như một điều kỳ diệu thực sự! Tôi không còn cảm thấy tôi ở trên xứ Hàn đã quá quen thuộc.
Trên những con lộ rộng rãi, xe hơi chạy như mắc cửi. Ngay ở Tây Âu tôi cũng không thấy có lắm xe như ở đây. Tôi sững sờ nhìn các tài-xế: họ đều là dân Hàn, không phải người ngoại quốc.
Một phút liền, tôi không nói nên lời. Cảnh tượng này khác hẳn những gì tôi hình dung, khiến tôi không biết nói sao.
Hai tuần liền, tôi chịu đựng những cuộc hỏi cung bất tận ở Bahrein, và còn tàn nhẫn hơn thế nữa trong tám ngày sau ở Hán Thành. Tôi tập trung hết trí óc và dối trá để trung thành với Lãnh tụ Vĩ đại của chúng tôi. Và tôi phải nói dối để che lấp những sự dối trá khác. Nhất là, tôi đã nói dối để cứu vãn gia đình tôi khỏi kết cục không thể tránh khỏi đang chờ họ.
Nhưng tất cả đã kết thúc. Tôi không còn chống cự nổi nữa. Các điệp viên Nam Hàn đã chiến thắng! Không phải bằng vũ lực như tôi từng tính đến, mà bằng sự kiên nhẫn và tỉnh táo vô hạn. Tôi bảo họ rằng tôi là một cô gái người Hoa mồ côi. Rằng ông bác Hachiya Shinchi tốt bụng đã nhận tôi làm con nuôi một cách không chính thức, và hai chúng tôi du ngoạn khắp Châu Âu. Nhưng tôi đã không đánh lừa được họ. Ngay từ khi chưa khai báo, họ đã biết tôi là gián điệp Bắc Triều Tiên. Họ cũng biết tôi phải chịu trách nhiệm về cái chết của 115 con người vô tội và vì thế, sẽ không bao giờ tôi được tha thứ.
Đúng vậy, họ đã thắng. Và cuối cùng, thành phố Hán Thành đã hoàn toàn khiến mọi sự kháng cự của tôi tan tành. Tôi được nuôi dạy với suy nghĩ rằng dân Nam Hàn là thứ bù nhìn khốn cùng, là nô lệ cho thể chế tư bản không kìm hãm. Và khi mới đặt chân tới Hán Thành, tôi cố tìm cách tin tưởng một cách mù quáng vào những gì được dạy dỗ.
Nhưng, tôi đã phục sinh! Đứa trẻ trưởng thành như một đệ tử của Kim Nhật Thành, đã chết ở phi trường Bahrein. Dần dà, từng bước, một con người khác đã thay thế nó. Và trước hết, Hánh Thành là cái nôi của đứa trẻ này.
Trước ngày tôi khai báo, những nhân viên hỏi cung tôi cho biết hôm ấy, sẽ không có thẩm vấn: họ đưa tôi đi dạo và ngắm thành phố.
Tôi được nhận một bộ vét hai phần màu đen. Mặc nó vào, tôi có cảm tưởng mình như một cô trò nhỏ lần đầu tới trường và tôi không hiểu người ta tử tế với tôi như thế làm gì.
Khi ra khỏi căn cứ cảnh sát, chúng tôi đi lên một quả đồi. Cỏ cây đều thân thuộc với tôi, những tảng đá hoa cương, đất đỏ… tất cả đều thật hài hòa. Trên đầu tôi là bầu trời xanh đậm với những áng mây hệt như bầu trời mà chúng tôi sống dưới nó ở Bình Nhưỡng. Nhưng khi đó chúng tôi lên tới đỉnh đồi và trung tâm Hán Thành tọa lưới ở phía dưới như một điều kỳ diệu thực sự! Tôi không còn cảm thấy tôi ở trên xứ Hàn đã quá quen thuộc.
Trên những con lộ rộng rãi, xe hơi chạy như mắc cửi. Ngay ở Tây Âu tôi cũng không thấy có lắm xe như ở đây. Tôi sững sờ nhìn các tài-xế: họ đều là dân Hàn, không phải người ngoại quốc.
Một phút liền, tôi không nói nên lời. Cảnh tượng này khác hẳn những gì tôi hình dung, khiến tôi không biết nói sao.
-
Không thể tin được! - rốt cục, tôi cũng thì thầm.
Một điệp viên chỉ làn xe đang chạy.
- Tất cả những xe hơi này đều sản xuất tại Đại Hàn – anh ta nói. - Thời nay, đa số các gia đình đều có xe rồi. Người ta hay nói rằng đến ăn mày cũng đi xe hơi để xin tiền. Tất nhiên, như thế thì hay tắc đường và khó tìm chỗ đậu xe. Đây là những vấn đề xã hội nan giải.
Chiếc xe chúng tôi len lỏi giữa biết bao xe cộ. Tôi vừa kịp hiểu nội dung câu nói cuối cùng của người điệp viên, nhưng những câu trước đó cũng ăn sâu vào óc tôi. Ở Bắc Triều Tiên, chỉ các cán bộ đảng cao cấp và các bộ trưởng mới được đi xe; chúng tôi, lũ học sinh, luôn phải cúi đầu chào mỗi khi xe họ đi ngang qua. Đối với giới trẻ, đặc biệt là con trai, thì nghề lái xe là được chuộng nhất. Phụ nữ chả bao giờ dám mơ đến lái xe. Lái tàu cần thì may ra, nhưng không thể hơn thế!
Còn ở Hán Thành, tôi thấy có nhiều phụ nữ lái xe. Cảnh ấy hấp dẫn tôi đến mức tôi cứ dựa đầu vào cửa xe và ngắm nhìn…
Một điệp viên chỉ làn xe đang chạy.
- Tất cả những xe hơi này đều sản xuất tại Đại Hàn – anh ta nói. - Thời nay, đa số các gia đình đều có xe rồi. Người ta hay nói rằng đến ăn mày cũng đi xe hơi để xin tiền. Tất nhiên, như thế thì hay tắc đường và khó tìm chỗ đậu xe. Đây là những vấn đề xã hội nan giải.
Chiếc xe chúng tôi len lỏi giữa biết bao xe cộ. Tôi vừa kịp hiểu nội dung câu nói cuối cùng của người điệp viên, nhưng những câu trước đó cũng ăn sâu vào óc tôi. Ở Bắc Triều Tiên, chỉ các cán bộ đảng cao cấp và các bộ trưởng mới được đi xe; chúng tôi, lũ học sinh, luôn phải cúi đầu chào mỗi khi xe họ đi ngang qua. Đối với giới trẻ, đặc biệt là con trai, thì nghề lái xe là được chuộng nhất. Phụ nữ chả bao giờ dám mơ đến lái xe. Lái tàu cần thì may ra, nhưng không thể hơn thế!
Còn ở Hán Thành, tôi thấy có nhiều phụ nữ lái xe. Cảnh ấy hấp dẫn tôi đến mức tôi cứ dựa đầu vào cửa xe và ngắm nhìn…
Chúng tôi đi ngang qua cửa quan, tôi được thấy
tòa thị chính, khu nhà của chính phủ, Làng Thế vận và trung tâm thương mại.
Cách cư xử tự nhiên của người dân, gương mặt tươi tắn biểu cảm cũng như trang
phục màu sắc của họ đã rất hấp dẫn tôi.
Nhưng, những người bán hàng ven đường lại khiến tôi sững sờ nhất. Ở miền Bắc, người ta bảo chúng tôi rằng tại Nam Triều Tiên, dân bán rong ở vệ đường là những kẻ cực khổ nhất. Có điều, những gì họ bán không hề là thứ hàng tồi: tôi được thấy ở đây đồng hồ đeo tay loại đắt tiền, những dụng cụ chất lượng tuyệt hảo, quần áo và giày dép lịch sự. Không thể tưởng tượng ra tất cả những mặt hàng này ở Bắc Triều Tiên, nơi mà muốn mua một chiếc đồng hồ đeo tay, một gia đình phải nhịn ăn nhịn thở suốt dăm bảy tháng liền! Tôi mới nghĩ rằng những người bán hàng này phải kiếm được bạc triệu, làm gì có chuyện họ nghèo khó?
Khi trời sẩm tối, chúng tôi lên đỉnh Nam Sơn (Namsan) để tôi được chiêm ngưỡng ánh đèn thành phố phía dưới. Tuyệt vời đến mức tôi đã yêu đô thị này ngay lập tức!
Khi đồng ý đi thăm thú Hán Thành, tôi đã phạm phải sai lầm cuối cùng, nhưng đây đồng thời cũng là sự giải phóng đối với tôi. Những người bắt giữ tôi hẳn đã đoán trước được tác động của ngày hôm ấy đến tôi. Tôi không làm sao thoát khỏi cái cảm giác hai mươi sáu năm đầu của đời tôi chỉ là sự lừa dối!
Đột ngột, tôi thấy căm thù Kim Nhật Thành
trong lòng, khi tôi hiểu trong một khoảnh khắc, rằng tất cả nhiệm vụ của tôi,
mọi kế hoạch và sự học hỏi của tôi, và quả thực là cả cuộc đời tôi đều dựa trên
những sự dối trá…
Sáng hôm sau, tôi lại ngồi bên chiếc bàn làm
việc của người điệp viên trước đây hai ngày từng cho tôi một bài học. Ông ta
lịch thiệp hỏi tôi: tôi có thích chuyến đi “dã ngoại” hôm trước không, và ông
mỉm cười khi tôi lúng túng không biết trả lời ra sao.
- Tôi sẽ vạch trần từng lời khai dối trá của
cô. Hãy để ý những lời tôi nói, hãy suy nghĩ và chớ nói dối nữa. Chỉ có một sự
thật duy nhất và chúng tôi biết sự thật ấy. Cô hiểu không?
Ông ta ngừng lại, châm thuốc rồi nói tiếp.
Ông ta ngừng lại, châm thuốc rồi nói tiếp.
- Cô hoàn toàn không phải người Hoa? Vì sao ư?
Cô bảo cô sống ở Vuchang 15 năm, nhưng làm gì có địa danh nào là Vuchang, chỉ
có Vuchang-hsien thôi. Và nếu quả thực cô trưởng thành ở miền Bắc Trung Quốc
như cô khẳng định, ắt cô phải biết là từ tungsu (trưởng thành) chỉ dùng ở miền
Nam. Nhưng cô lại hay dùng từ này. Cô hay gọi cháo ngũ cốc là vuyimei, cho dù từ
này cũng chỉ được dùng ở miền Nam. Miền Bắc gọi nó là paomei, nhưng cô lại
không dùng từ này bao giờ.
Cô còn kể rằng cô là một đứa trẻ mồ côi lang thang, và đa phần chỉ có bánh mỳ hoppang để ăn. Có điều, loại bánh mỳ này chỉ là món ăn của nhà giàu. Và khi cô thuật lại rằng bà dì của cô bán rong báo và bánh bột mỳ trên đường phố Vuchang, hắn cô không biết rằng ở tỉnh này, người ta không bán báo ngoài phố.
Cô còn kể rằng cô là một đứa trẻ mồ côi lang thang, và đa phần chỉ có bánh mỳ hoppang để ăn. Có điều, loại bánh mỳ này chỉ là món ăn của nhà giàu. Và khi cô thuật lại rằng bà dì của cô bán rong báo và bánh bột mỳ trên đường phố Vuchang, hắn cô không biết rằng ở tỉnh này, người ta không bán báo ngoài phố.
Ông ta lại ngừng đôi chút để tôi có thời gian
“tiêu hóa”.
- Nhưng còn nhiều mâu thuẫn khác – ông ta nói
tiếp. - Tất cả đều chứng tỏ một điều duy nhất: cô không phải người Hoa. Thành
thử, chớ cố đấm ăn xôi làm gì!
Rồi ông ta lại châm thuốc, nhưng không rời mắt
khỏi tôi. Thổi khói thuốc, ông tiếp tục.
- Cô bảo rằng cô sống tại Nhật một năm với ông Hachiya. Nhưng khi được ăn món rong biển nướng, quốc hồn quốc túy của Nhật, cô còn giễu cợt hỏi rằng, không lẽ cô phải ăn giấy cháy? – Cô còn nhớ cô vẽ ngôi nhà ở Nhật của ông Shinichi như thế nào chứ? Cái hình vẽ ấy chẳng hề giống nhà cửa bên Nhật, mà phố xá cô vẽ cũng đâu có giống phố xá Nhật?
Cô khẳng định là cô hay xem TV, nhưng khi chúng tôi hỏi ông Shinichi có TV mác gì, cô bảo “Azalea”. Vô tình, Azalea là một nhãn hiệu TV của Bắc Hàn, hẳn cô cũng biết điều này trong lòng. Hơn nữa, dạo đó, khi cô ở Nhật (như lời cô nói), vô tuyến truyền trực tiếp Á vận hội tại Hán Thành, nhưng cô cũng không biết nước nào thắng cuộc.
- Cô bảo rằng cô sống tại Nhật một năm với ông Hachiya. Nhưng khi được ăn món rong biển nướng, quốc hồn quốc túy của Nhật, cô còn giễu cợt hỏi rằng, không lẽ cô phải ăn giấy cháy? – Cô còn nhớ cô vẽ ngôi nhà ở Nhật của ông Shinichi như thế nào chứ? Cái hình vẽ ấy chẳng hề giống nhà cửa bên Nhật, mà phố xá cô vẽ cũng đâu có giống phố xá Nhật?
Cô khẳng định là cô hay xem TV, nhưng khi chúng tôi hỏi ông Shinichi có TV mác gì, cô bảo “Azalea”. Vô tình, Azalea là một nhãn hiệu TV của Bắc Hàn, hẳn cô cũng biết điều này trong lòng. Hơn nữa, dạo đó, khi cô ở Nhật (như lời cô nói), vô tuyến truyền trực tiếp Á vận hội tại Hán Thành, nhưng cô cũng không biết nước nào thắng cuộc.
Cô nói trong xe taxi của Nhật, chỗ ngồi của
tài-xế là ở bên trái, nhưng kỳ thực nó ở bên phải. Cuối cùng, nếu quả thực ngày
14 tháng Mười một cô và Shinichi rời Nhật Bản, cô phải biết rằng thủ tướng đã
bị bãi chức. Nhưng thay vì Takeshi.ta, cô vẫn nghĩ Nakasone là thủ tướng. Đây
là một sai lầm lớn
.Sau tất cả những khẳng định mâu thuẫn này –
ông dụi điếu thuốc -, và tôi có thể bảo đảm rằng còn nhiều mâu thuẫn hơn thế
nhiều, cô có còn dám khai rằng cô đã từng sống ở Nhật?
Tôi cảm giác như đang có sợi dây thòng lọng thắt ở cổ. Không sao dối trá được nữa, tôi đành cúi đầu. Nhưng người hỏi cung tôi vẫn chưa ngừng.
Tôi cảm giác như đang có sợi dây thòng lọng thắt ở cổ. Không sao dối trá được nữa, tôi đành cúi đầu. Nhưng người hỏi cung tôi vẫn chưa ngừng.
- Cô bảo rằng cô không hiểu tiếng Hàn. Nhưng
khi nhận thấy trong các buổi khảo cung, cô hay gõ gõ ngón tay, chúng tôi đã nói
bằng tiếng Hàn: “Gõ ngón tay như thế là lo lắng lắm đấy”. Lập tức cô ngừng,
không gõ nữa. Nếu chúng tôi bảo nhau bằng tiếng Hàn: “Mình để ý xem, cô ta lại
nói dối đấy”, thế là cô lại càng tìm cách thuyết phục chúng tôi rằng cô khai
thực. Và khi chúng tôi kể chuyện tiếu lâm tiếng Hàn, cô đã phải chạy vào buồng
tắm để khỏi bật cười trước chúng tôi.
Rồi đến thử thách cuối cùng. – Gương mặt ông ta đanh lại, ông cúi đầu và nhìn thẳng vào mắt tôi. – Khi tôi đưa vào tay cô tờ giấy có dòng chữ tiếng Hàn “Cô là gián điệp Bắc Hàn”, tức thì cô lộ rõ vẻ sợ hãi trên mặt. Có cần tôi nói tiếp không?
Rồi đến thử thách cuối cùng. – Gương mặt ông ta đanh lại, ông cúi đầu và nhìn thẳng vào mắt tôi. – Khi tôi đưa vào tay cô tờ giấy có dòng chữ tiếng Hàn “Cô là gián điệp Bắc Hàn”, tức thì cô lộ rõ vẻ sợ hãi trên mặt. Có cần tôi nói tiếp không?
Tôi cảm thấy như mình dần dần bị lột quần áo.
Không, không cần nữa, tôi nghe đủ lắm rồi! Tôi hổ thẹn và cảm thấy vừa giận dữ,
vừa bị hạ nhục, vừa phát khùng… tóm lại tôi đã thất bại hoàn toàn và tôi biết,
tôi không còn thể cưỡng lại được nữa.
Nhưng nếu khai ra điều bí mật thì điều gì sẽ
xảy ra? Tôi, vì là kẻ sát nhân, sẽ phải chết. Thế còn gia đình tôi? Tôi nhớ lại
về Ki Yahyung, một cô bạn học cùng lớp hồi trung học; gia đình có có một chiếc
vô tuyến đen trắng và hầu như bao giờ cũng có kẹo. Nhiều lần tôi ở nhà cô suốt
tối vì chúng tôi được xem TV và giữa chừng thì ngậm kẹo. Các em trai của cô bạn
ấy đều học rất giỏi và là lãnh đạo thanh niên tại trường của họ.
Một ngày nọ năm 1974, Ku Yahyang không tới
trường. Người ta đồn đại là một cậu em trai đã báo cho Cục An ninh Quốc gia
biết, mẹ cậu là gián điệp. Một cuộc điều tra được tiến hành và dẫn đến kết quả
là cha mẹ bọn trẻ và một người bác của chúng cũng là gián điệp. Chẳng mấy chốc,
cả nhà bị đưa đi trại tập trung, nhưng hàng xóm cũng phát hoảng và lo ngại là
họ cũng sẽ bị bắt bớ vì tội có quan hệ với gia đình này.
Tôi có được nghe về những trại tập trung: lao
động khổ sai ngày nọ sang ngày kia, năm nọ sang năm kia. Tôi không muốn cha mẹ
và các em tôi cũng chịu số phận như thế.
Ở Bắc Triều Tiên, nếu chồng uống rượu, người vợ không lo lắng cho sức khỏe chồng như tại các quốc gia khác. Sợ nhất là anh chồng say xỉn và nói ra điều gì ngu xuẩn để những kẻ khác có thể tố giác. Chỉ một lời tệ hại duy nhất cũng đủ làm tan nát một gia đình!
Cuộc sống ở Bắc Hàn là như thế, thành thử nếu tôi khai, nhãn tiền là gia đình tôi sẽ phải chịu hậu quả thế nào. Tôi hình dung trước mắt cảnh mật vụ đến bắt cha mẹ tôi, Hyonso và Hyonok.
Những nỗi nghi ngại cứ dày vò tôi. Quả thực nhiệm vụ của tôi có nghĩa lý gì không? Quả thực hành động tội lỗi của tôi và cái chết của vô số mạng người do nó gây ra có góp phần cho sự nghiệp thống nhất hai miền? Có phải cho dù Hán Thành không được tổ chức Thế vận hội di nữa, thì Triều Tiên cũng vẫn bị chia cắt? Và thử hỏi, làm nổ một chuyến bay duy nhất là đủ để ngăn chặn kỳ Olympic này?
Ở Bắc Triều Tiên, nếu chồng uống rượu, người vợ không lo lắng cho sức khỏe chồng như tại các quốc gia khác. Sợ nhất là anh chồng say xỉn và nói ra điều gì ngu xuẩn để những kẻ khác có thể tố giác. Chỉ một lời tệ hại duy nhất cũng đủ làm tan nát một gia đình!
Cuộc sống ở Bắc Hàn là như thế, thành thử nếu tôi khai, nhãn tiền là gia đình tôi sẽ phải chịu hậu quả thế nào. Tôi hình dung trước mắt cảnh mật vụ đến bắt cha mẹ tôi, Hyonso và Hyonok.
Những nỗi nghi ngại cứ dày vò tôi. Quả thực nhiệm vụ của tôi có nghĩa lý gì không? Quả thực hành động tội lỗi của tôi và cái chết của vô số mạng người do nó gây ra có góp phần cho sự nghiệp thống nhất hai miền? Có phải cho dù Hán Thành không được tổ chức Thế vận hội di nữa, thì Triều Tiên cũng vẫn bị chia cắt? Và thử hỏi, làm nổ một chuyến bay duy nhất là đủ để ngăn chặn kỳ Olympic này?
Dần dần tôi hiểu được rằng nếu một người không
bị thần kinh, thì phải biết ai thực sự có lý trong những câu hỏi trên…
Từ điểm ấy, chỉ còn một điều duy nhất ngăn tôi
khai tất cả, đó là số phận gia đình tôi. Nếu tôi im lặng cho đến chết, gia đình
tôi có thể sống trong danh dự. Bằng không…
Nhưng phải chăng họ có thể được sống yên ổn?
Dù tôi khai hay không, người Nam Hàn cũng đã biết khá nhiều, tự họ cũng đã có
thể lắp ghép được phần còn lại của câu chuyện. Tôi sẽ không thể mặc cả được với
họ: họ sẽ không chịu lặng lẽ tử hình tôi để gia đình tôi khỏi bị hành hạ: thế
nào họ cũng sẽ làm ầm mọi chuyện lên khi nào họ muốn.
Và, còn một điều nữa khiến tôi đau khổ. Tôi có
nợ gia đình các nạn nhân một lời khai này không? Tôi có cần phải thú nhận những
hành động kinh tởm của tôi, hoàn toàn chân thành và hối lỗi, để đừng bị họ coi
là loài quỷ dữ? Vâng, những con người ấy đáng được hưởng điều đó!
Tôi ngẩng lên nhìn người nhân viên hỏi cung. Chầm chậm, tôi ép mình phải mở miệng.
- Xin lỗi ông, tôi thật tiếc vì những gì đã xảy ra. Và tôi sẽ khai tất cả với ông!
Tôi ngẩng lên nhìn người nhân viên hỏi cung. Chầm chậm, tôi ép mình phải mở miệng.
- Xin lỗi ông, tôi thật tiếc vì những gì đã xảy ra. Và tôi sẽ khai tất cả với ông!
Tôi cảm thấy mình trống rỗng!
Sau khi khai, tôi chỉ nằm, đầu óc đờ đẫn. Tôi tê liệt cả về thể xác lẫn tinh thần. Với những gì đã khai, tôi như trút được gánh nặng ghê gớm trên vai, nhưng giờ đây tôi lơ lửng trong chân không và không tìm được nơi bấu víu. Nửa tỉnh nửa mê, tôi uể oải và chán nản. Tôi đã tính rằng tôi chẳng còn được sống bao lâu nữa, nhưng điều đó cũng không khiến tôi tỉnh táo hơn. Tôi không cảm thấy và không quan tâm đến bất cứ điều gì xảy ra với tôi.
Tôi đã khai một mạch, tất cả, trong tám tiếng ròng rã. Hấu như người ta đã biết hết về tôi. Nhìn đồng hồ của người nhân viên hỏi cung, tôi biết rằng tôi đã khai liền tới tận 3 giờ sáng. Giờ đây, bầu không khí trong phòng đã dễ chịu hơn rất nhiều và tôi thoải mái vì cuối cùng cũg được nói tiếng Hàn. Có điều niềm vui này thật hời hợt vì có một giọng thì thầm vào tai tôi: thế này, tôi và gia đình hết đời!
Hai ngày sau khi cung khai, tôi mới hơi cảm thấy trở lại bình thường. Các nhân viên hỏi cung đóng vai trò lớn trong điều này. Họ trò chuyện với tôi, chúng tôi kể cho nhau nghe những nhìn nhận về cuộc đời từng người. Điệp viên điển trai hỏi cung tôi bằng tiếng Trung tên là Nak Yong và cùng ông là một thanh niên tên là Sengju. Còn cô nữ điệp viên xinh đẹp thì tên là Li Ok.
Hán Thành đã chiến thắng, nhưng trong tôi vẫn còn chút hồ nghi. Tôi đã thấy nhiều nhà cửa tuyệt đẹp, nhiều thứ khiến tôi có thể suy ra là niềm hạnh phúc ở đâu đây. Nhưng thực sự người Hánh Thành thế nào? Phải chăng họ sống hạnh phúc sau những tòa nhà mỹ lệ và những hàng hóa đắt đỏ?
Trong hôm ấy, tôi hỏi Li Ok:
- Tôi có thể được thấy thường dân ở đây sống
ra sao không?
Trong các chuyến sang Châu Âu, tôi không thể
có được cái nhìn toàn diện về đời sống tại đó. Trước khi lên đường, các điệp
viên được chỉ thị rằng họ chỉ được trò chuyện với người lạ nếu nhất thiết phải
như thế.
Gánh nặng của nhiệm vụ luôn đè nặng lên vai
chúng tôi, không thể thực sự cảm nhận những xứ sở mà chúng tôi đã qua. Giờ đây,
tôi muốn làm điều này ở Hán Thành. Trước đây, tôi chỉ nhận định một quốc gia
trên cơ sở những quan sát hời hợt. Nếu tôi ra chợ và thấy hàng hóa đầy rẫy, tôi
lập tức rút ra kết luận rằng dân ở đó sống phong lưu hơn tại Bắc Triều Tiên.
Nếu thấy nhiều quán rượu và những nơi tiêu khiển mở đêm, lập tức tôi nhận định
là xứ sở ấy đồi bại và vô đạo đức. Còn nếu hễ cứ thấy người hành khất ngoài
đường, tôi nghĩ ngay rằng đất nước đó nghèo khổ cùng cực, vì không có khả năng
chu cấp cho công dân của họ.
Quá trình chuẩn bị chỉ kéo dài vài phút. Li Ok hỏi: có cái gì mà tôi nhất thiết muốn xem hay không?
- Không… không nhất thiết… - tôi đáp. - Cứ cho tôi đi đâu cũng được. Đến chỗ nào mà… đặc trưng cho Hán Thành ấy.
Quá trình chuẩn bị chỉ kéo dài vài phút. Li Ok hỏi: có cái gì mà tôi nhất thiết muốn xem hay không?
- Không… không nhất thiết… - tôi đáp. - Cứ cho tôi đi đâu cũng được. Đến chỗ nào mà… đặc trưng cho Hán Thành ấy.
Ra ngoài phố, Li Ok đi cạnh tôi, còn Nak Yong
đi sau và Sengju đi trước tôi. Tôi được nhận 25 ngàn Won (tương đương 20 USD)
để tiêu và tôi cảm thấy đó là một khoản tiền thật lớn.
Chúng tôi đi lòng vòng trên những con phố nhỏ và chật chội ở quận Myongjong. Chả mấy chốc, tôi thấy một cửa hàng tên là Lotte và được giải thích rằng nó được đặt theo tên một thi hào Đức là Goethe. Chúng tôi vào cửa hàng. Tôi tò mò muốn biết người ta có bán đồ ngoại ở đây không. Tất cả mọi mặt hàng đều có chất lượng tuyệt hảo, nhưng đều có tên nước ngoài, và tôi đã nhắc điều này cho Li Ok.
Chúng tôi đi lòng vòng trên những con phố nhỏ và chật chội ở quận Myongjong. Chả mấy chốc, tôi thấy một cửa hàng tên là Lotte và được giải thích rằng nó được đặt theo tên một thi hào Đức là Goethe. Chúng tôi vào cửa hàng. Tôi tò mò muốn biết người ta có bán đồ ngoại ở đây không. Tất cả mọi mặt hàng đều có chất lượng tuyệt hảo, nhưng đều có tên nước ngoài, và tôi đã nhắc điều này cho Li Ok.
- Không, các sản phẩm này đều làm ở Hàn Quốc
cả - cô ta đáp. – Nhưng đa số được xuất khẩu ra ngoại quốc, vì vậy chúng mang
tên ngoại. Nhưng sao cô không mua một cái gì đó?
Hơi rụt rè, tôi đến quầy bán mỹ phẩm. Cô bán hàng tại đó rất thân thiện, tôi chưa hề được thấy thái độ ấy bao giờ. Ở miền Bắc, người bán hàng thường cục cằn vì đằng nào cũng chả có gì để bán. Ở đây, dân chúng thực sự rất sẵn lòng giúp đỡ người khác.
Hơi rụt rè, tôi đến quầy bán mỹ phẩm. Cô bán hàng tại đó rất thân thiện, tôi chưa hề được thấy thái độ ấy bao giờ. Ở miền Bắc, người bán hàng thường cục cằn vì đằng nào cũng chả có gì để bán. Ở đây, dân chúng thực sự rất sẵn lòng giúp đỡ người khác.
- Có
thể giúp gì chị không ạ? - cô bán hàng hỏi.
Tôi chỉ một hộp kem bôi mặt, cố gắng để khỏi bị ấp úng.
- Đây là hàng nhập ngoại?
Cô bán hàng đưa tôi xem hộp kem.
- Không, đây là sản phẩm của hãng Lucky của Hán Thành. Chỉ 6.500 Won thôi.
Tôi cứ nghĩ là hộp kem phải đắt đỏ lắm và rất vui vì có đủ tiền để mua được nó. Tôi không thể ước chừng được sức mua của số tiền tôi đang có, nhưng tôi cảm thấy các điệp viên đã cho tôi quá nhiều tiền. Nhưng vì rụt rè, cuối cùng tôi lại không mua kem. Thật khó làm quen với bầu không khí tự do và nhẹ nhõm này.
Li Ok mua cho một một khăn quàng cổ. Quá nhiều hàng hóa nên tôi lại đâm mất tinh thần và không dám mua gì cho mình. Rồi chúng tôi đi tiếp. Đường phố đông nghịt, nhưng dễ thấy là cư dân ở đây không vội vã. Từng nhóm nam, nữ vãng lai cười nói vui vẻ. Chúng tôi thấy một người mặc đồng phục kỳ quặc; tôi nghĩ anh ta đi ăn xin nhưng Li Ok giải thích rằng đó là một thành viên Đạo quân Hồng phúc, chuyên đi quyên góp giúp người nghèo.
- Sắp tới Giáng sinh rồi – Li Ok động viên tôi cũng cho anh ta một chút. - Những dịp thế này nên tỏ ra hào phóng.
Tâm trạng hào hứng của mọi người cũng lan sang tôi, nhưng tôi vẫn thấy bối rối. Miền Bắc không kỷ niệm Giáng sinh và đại đa số các gia đình còn chưa nghe về nó. Tại sao miền Nam có phải là một nước phương Tây đâu mà lại ăn mừng Noel? Cố nhiên, hẳn là vì cư dân ở đây là bù nhìn của đế quốc Mỹ. Nhưng mà, tôi thấy ai nấy đều hạnh phúc thực sự. Họ mua, mang vác quà cáp, có người còn hát “Thánh ca”. Bất chợt tôi thấy buồn vì cảm giác bị ra rìa.
Tôi bất ngờ khi thấy các chủ hiệu ra ngoài phố, đứng trước cửa hàng của họ và mời chào khách. Phải mất thời gian, tôi mới hiểu rằng ở đây, cạnh tranh là động lực thúc đẩy thương mại, vì thế Hán Thành mới phát triển đến vậy.
- Tôi đói rồi – tôi bảo mọi người. – Mình có thể ăn cái gì không?
- Tất nhiên rồi - Li Ok đáp. Cô dẫn chúng tôi vào một khu phố nhỏ, chi chít hàng quán. Những món ăn bày trong tủ kính thật ngon lành: cơm nướng, tempura, giò thủ, dồi, và cả món ăn chop-chiao của Triều Tiên làm từ mỳ, các loại rau xanh và thịt - tôi chợt nhận ra là từ mười năm nay, ở miền Bắc không hề có giò thủ. Và rằng mẹ tôi đã mừng rỡ biết chừng nào khi có bận bà mua được một trái dưa hấu đã thối đến một nửa…
Giá tôi đưa được gia đình sang đây… Khi trước mặt tôi có bao nhiêu đồ ăn thức uống thế này, thật đau lòng khi nghĩ đến những khó khăn mà cha mẹ, các em tôi phải chịu đựng.
Tôi chỉ một hộp kem bôi mặt, cố gắng để khỏi bị ấp úng.
- Đây là hàng nhập ngoại?
Cô bán hàng đưa tôi xem hộp kem.
- Không, đây là sản phẩm của hãng Lucky của Hán Thành. Chỉ 6.500 Won thôi.
Tôi cứ nghĩ là hộp kem phải đắt đỏ lắm và rất vui vì có đủ tiền để mua được nó. Tôi không thể ước chừng được sức mua của số tiền tôi đang có, nhưng tôi cảm thấy các điệp viên đã cho tôi quá nhiều tiền. Nhưng vì rụt rè, cuối cùng tôi lại không mua kem. Thật khó làm quen với bầu không khí tự do và nhẹ nhõm này.
Li Ok mua cho một một khăn quàng cổ. Quá nhiều hàng hóa nên tôi lại đâm mất tinh thần và không dám mua gì cho mình. Rồi chúng tôi đi tiếp. Đường phố đông nghịt, nhưng dễ thấy là cư dân ở đây không vội vã. Từng nhóm nam, nữ vãng lai cười nói vui vẻ. Chúng tôi thấy một người mặc đồng phục kỳ quặc; tôi nghĩ anh ta đi ăn xin nhưng Li Ok giải thích rằng đó là một thành viên Đạo quân Hồng phúc, chuyên đi quyên góp giúp người nghèo.
- Sắp tới Giáng sinh rồi – Li Ok động viên tôi cũng cho anh ta một chút. - Những dịp thế này nên tỏ ra hào phóng.
Tâm trạng hào hứng của mọi người cũng lan sang tôi, nhưng tôi vẫn thấy bối rối. Miền Bắc không kỷ niệm Giáng sinh và đại đa số các gia đình còn chưa nghe về nó. Tại sao miền Nam có phải là một nước phương Tây đâu mà lại ăn mừng Noel? Cố nhiên, hẳn là vì cư dân ở đây là bù nhìn của đế quốc Mỹ. Nhưng mà, tôi thấy ai nấy đều hạnh phúc thực sự. Họ mua, mang vác quà cáp, có người còn hát “Thánh ca”. Bất chợt tôi thấy buồn vì cảm giác bị ra rìa.
Tôi bất ngờ khi thấy các chủ hiệu ra ngoài phố, đứng trước cửa hàng của họ và mời chào khách. Phải mất thời gian, tôi mới hiểu rằng ở đây, cạnh tranh là động lực thúc đẩy thương mại, vì thế Hán Thành mới phát triển đến vậy.
- Tôi đói rồi – tôi bảo mọi người. – Mình có thể ăn cái gì không?
- Tất nhiên rồi - Li Ok đáp. Cô dẫn chúng tôi vào một khu phố nhỏ, chi chít hàng quán. Những món ăn bày trong tủ kính thật ngon lành: cơm nướng, tempura, giò thủ, dồi, và cả món ăn chop-chiao của Triều Tiên làm từ mỳ, các loại rau xanh và thịt - tôi chợt nhận ra là từ mười năm nay, ở miền Bắc không hề có giò thủ. Và rằng mẹ tôi đã mừng rỡ biết chừng nào khi có bận bà mua được một trái dưa hấu đã thối đến một nửa…
Giá tôi đưa được gia đình sang đây… Khi trước mặt tôi có bao nhiêu đồ ăn thức uống thế này, thật đau lòng khi nghĩ đến những khó khăn mà cha mẹ, các em tôi phải chịu đựng.
Cô muốn ăn gì? – Li Ok hỏi tôi. – Chúng ta có
thể vào bất cứ hiệu nào mà cô muốn.
Tôi rất mê món dồi nên tôi chỉ một tiệm ăn nhỏ là dồi là món đặc sản của họ. Quán ăn này chật những khách là khách và đa số đều nhâm nhi sojut, loại rượu mạnh làm từ gạo của Triều Tiên. Chúng tôi đặt món rồi ngồi xuống bàn. Cạnh chúng tôi, vài thương gia trung niên đang tranh luận về kỳ bầu cử gần nhất.
Tôi rất mê món dồi nên tôi chỉ một tiệm ăn nhỏ là dồi là món đặc sản của họ. Quán ăn này chật những khách là khách và đa số đều nhâm nhi sojut, loại rượu mạnh làm từ gạo của Triều Tiên. Chúng tôi đặt món rồi ngồi xuống bàn. Cạnh chúng tôi, vài thương gia trung niên đang tranh luận về kỳ bầu cử gần nhất.
- Chúng ta không thể chỉ bắt lỗi chính phủ -
một người nói. – Không thể chờ đợi gì nhiều, nếu ai cũng chỉ nghĩa đến bản
thân.
- Theo tôi, nếu các đảng nhỏ liên minh với
nhau thì họ đã có thể thắng trong kỳ bầu cử vừa rồi…
Tôi nhìn sang những người đang canh giữ tôi, chờ xem bao giờ mấy vị kia bị bắt vì họ dám công khai phê phán chính phủ. Có điều, các điệp viên, nếu có nghe thấy cuộc tranh luận đi nữa, cũng không có vẻ gì là quan tâm cả. Họ ăn uống khoái khẩu, chả để ý gì đến những việc khác.
Trên đường trở về Nam Sơn, càng ngày tôi càng thấy mất bình tĩnh; rồi tôi phải lên tiếng hỏi các điệp viên rằng tạo sao ở đây cư dân lại có thể phê bình chính phủ thẳng thừng như thế. Họ phá lên cười.
Tôi nhìn sang những người đang canh giữ tôi, chờ xem bao giờ mấy vị kia bị bắt vì họ dám công khai phê phán chính phủ. Có điều, các điệp viên, nếu có nghe thấy cuộc tranh luận đi nữa, cũng không có vẻ gì là quan tâm cả. Họ ăn uống khoái khẩu, chả để ý gì đến những việc khác.
Trên đường trở về Nam Sơn, càng ngày tôi càng thấy mất bình tĩnh; rồi tôi phải lên tiếng hỏi các điệp viên rằng tạo sao ở đây cư dân lại có thể phê bình chính phủ thẳng thừng như thế. Họ phá lên cười.
- Đây là một xứ dân chủ - Li Ok giải thích cho
tôi, sau khi đã nhịn được cười. - Ở đây có tự do ngôn luận. Không luật nào cấm
chúng tôi phê bình chính phủ cả.
- Không thể hiểu nổi – tôi nói, vì câu trả lời
của Li Ok không làm tôi thỏa mãn. – Tôi chỉ ngạc nhiên rằng ở đất nước này, như
thế mà vẫn có thể làm được bất cứ cái gì. Nhưng tôi cũng nhận ra thêm vài điều
khác nữa. Khi đi nang qua một công trường xây dựng, tôi thấy rất ít công nhân.
Họ đi đâu hết rồi? Hay họ làm việc buổi tối
- Tại sao vậy? – Nak Yong ngạc nhiên vì câui
hỏi của tôi -, thế ở miền Bắc người ta xây dựng như thế nào?
- Tất cả đều được huy động – tôi đáp. - Bộ
đội, thanh thiếu niên ở độ tuổi đến trường và thành viên các hội đồng nhân dân,
tất cả cùng nhau đào đất, trộn xi-măng, khuân vác gạch, rất nhịp nhàng. – Tôi
tự hào kể, tôi luôn thấy dễ chịu nếu được tham gia xây dựng một tòa nhà và
những lúc ấy, người dân Bắc Triều Tiên làm việc rất cần mẫn.
- Tôi hiểu rồi – Nak Yong đáp. - Ở đây thì
không có chuyện ấy. Đại đa số công việc đều do máy thực hiện hết.
Khi đó, tôi mới hiểu được rằng sự phát triển
kỹ thuật của đất nuớc này đã ở mức mà tôi không thể mường tượng nổi. Như thể họ
ở một hành tinh khác. Chả hiểu sao miền Bắc chúng tôi lại không hiện đại hóa công
nghiệp xây dựng như thế?
Tôi có biết bao điều muốn hỏi. Chỉ không biết được, tôi còn sống ngần ấy thời gian để có được lời đáp cho tất cả những gì tôi muốn?
Vài bữa sau, chúng tôi đi xe ngao du một vùng
quê, tới thăm cung Duksu. Tôi được học là người Mỹ đã hủy diệt hoàn toàn văn
hóa Nam Hàn, nhưng cung điện này chính là một di tích được gìn giữ vô cùng hoàn
hảo của nền văn hóa Triều Tiên. Ở đó, tôi được thấy pho tượng vị vua Sedjong,
người làm ra bảng chữ cái Triều Tiên. Tôi vui vì được ra khỏi bốn bức tường,
nhưng từ khi chấp nhận khai báo, nỗi sợ hãi và cảm giác mệt mỏi luôn hành hạ
tôi. Vậy mà bức tượng vẫn khiến tôi thích thú vì tôi chả biết gì về lịch sử
bảng chữ cái Triều Tiên.
Chúng tôi đi tiếp đến một làng nhỏ, coi bộ cũng không khác gì mấy những làng bản ở miền Bắc, mặc dầu cảnh vật mùa đông khiến nó có vẻ hoang vu.
Chúng tôi đi tiếp đến một làng nhỏ, coi bộ cũng không khác gì mấy những làng bản ở miền Bắc, mặc dầu cảnh vật mùa đông khiến nó có vẻ hoang vu.
- Đây là Vondang – Li Ok bảo tôi. – Ngày càng nhiều người lao động thích đến đây vì không khí đây rất trong sạch.
Chúng tôi dừng lại trước một khu lán trại xiêu
vẹo. Vườn không có cổng nên chúng tôi đi thẳng tới cửa ra vào để xem có ai
trong nhà hay không. Không có ai cả, cứ thế chúng tôi vào nhà. Thật ngạc nhiên
là trong nhà có hai tủ lạnh và một điện thoại. Ở miền Bắc, ở làng xã chả bao
giờ có tiện nghi như thế.
Khu lán trại hoàn toàn thu hút sự để tâm của
những người đi cùng tôi, họ trò chuyện với nhau.
- Thú vị thật! – Sengju nói. – Ngay ở đây mà
cũng có đầy đủ tiện nghi: điện, tivi. Theo tôi, chỗ này cũng không còn là lán
trại thực sự nữa rồi.
- Đúng vậy! – Nak Yong đồng tình. - Ở đây cũng
chả còn lãng mạn nữa rồi! Ngồi bên bếp lửa và nướng khoai mới thật là sướng.
- Các anh có thấy là cửa không khóa? – Li Ok
hỏi. - Thử hỏi Hán Thành có bao nhiêu người không khóa cửa nhà mình?
Chúng tôi ở lại làng một lát rồi trở lại Hán
Thành. Li Ok bảo, hay chúng tôi ra khu chợ ở Cửa quan phía Đông. Đây là nơi có
nhiều cửa hiệu và tiệm ăn. Chúng tôi vào một cửa hàng dệt may và lập tức, được
các cô bán hàng ra mời chào. Họ vui vẻ, ăn mặc quần áo màu sắc và khiến tôi hơi
bối rối vì quá tận tình. Rồi một cô nói một câu khiến tôi đứng tim:
- Chờ chút nào, cô là Kim Hyun Hee phải không?
- Chờ chút nào, cô là Kim Hyun Hee phải không?
Im lặng kéo dài. Tôi chết đứng, trong khi đó
mọi khách hàng bao quanh chúng tôi và thì thào.
- Là ai vậy?
- Là ai vậy?
- Kim Hyun Hee. Chị không biết à, cái con làm
nổ máy bay ấy!
Đám khách hàng hưng phấn, chen lấn nhau để
nhìn rõ tôi. Tức thì, các điệp viên bao quanh tôi và dẫn tôi khỏi cửa hàng
trước khi xảy ra rắc rối. Khi ra đến cửa, một cô bán hàng còn nói với theo:
- Hyun Hee à, khi nào muốn cô cứ trở lại đây. Tôi sẽ tặng cô một bộ quần áo!
- Hyun Hee à, khi nào muốn cô cứ trở lại đây. Tôi sẽ tặng cô một bộ quần áo!
Mặc dầu hoảng sợ, nhưng chưa muốn trở về Nam
Sơn nên tôi đề nghị được ở lại chợ một lúc nữa. Vừa đi, tôi vừa hỏi Li Ok:
- Chả hiểu sao, tôi chưa thấy có cửa hiệu nào
ở đây bán quần áo ni-lông. Không có loại hàng ấy à?
Tôi nghĩ rằng Nam Hàn vẫn chưa đạt đến tầm có
thể sản xuất hàng ni-lông, vốn là đồ sang trọng ở Bắc Triều Tiên.
- Chúng tôi ít dùng đồ ni-lông lắm – Li Ok đáp
trong khi chúng tôi len lỏi trong đám đông buổi chiều hôm ấy. - Gần đây, người
ta phát hiện ra rằng quần áo có ni-lông có hại cho sức khỏe. Chúng tôi thích
dùng đồ làm từ vật liệu len hơn, những thứ này ít nhất cũng bền như ni-lông.
Ngày nay, ni-lông bị coi là vật liệu chất lượng tồi.
Tôi muốn bật cười mà không được.
- Không thể tưởng tượng được! Tất cả mọi thứ
đều trái ngược với Bắc Triều Tiên. Ở nước tôi, người dân không có điều kiện
quan tâm đến sức khỏe của họ. Chúng tôi mà có quần áo ni-lông thì mừng phải
biết!
Chúng
tôi đến chợ Jungbu, nơi chủ yếu bán cá khô. Cá mực, cá biển, tảo biển… được xếp
thành đống tướng. Cuối chợ, có một tiệm ăn ngoài trời với một chiếc bàn dài duy
nhất, hai bên có nhiều ghế dài. Tôi tò mò đến gần.
- Những ai đến ăn ở đây?
- Đa phần là công nhân
- Những ai đến ăn ở đây?
- Đa phần là công nhân
Li Ok đáp.
- Dân bán hàng rong, công nhân xưởng đóng tàu,
tài xế xe tải…, đại loại thế.
- Thế thì họ còn ăn sướng hơn gia đình tôi – tôi nhìn qua những món cơm, mỳ, già thủ và canh mỳ. – Chúng ta có thể ăn ở đây được không?
Li Ok nhìn những người còn lại, ai nấy đều lắc đầu.
- Chúng ta mà ăn ở đây thì quá lộ liễu, dễ trở thành đối tượng tấn công. Người ta dễ nhận ra lắm. Tốt nhất là mình đến một tiệm nangmyon đi.
Chúng tôi quay lại bên kia chợ và Li Ok giải thích cho tôi hiểu rằng các tiệm nangmyong (đây là ten một loại xúp mỳ lạnh) nổi tiếng khắp Hán Thành. Tiệm đầu tiên chúng tôi đến quả thực có lẽ khá nổi tiếng: những chiếc xe đắt tiền nối đuôi nhau trước tiệm và hàng thực khách cũng rồng rắn như vậy. Chúng tôi cũng đứng vào hàng và nhích khá chậm chạp. Một lần nữa, tôi có ấn tượng bởi sự giản dị và nhẹ nhõm của Hán Thành. Ngược lại, miền Bắc thì rất “vô khuẩn”. Người ít, ô tô hầu như không có, người lạ chả bao giờ bắt chuyện với nhau ngoài phố. Về căn bản, cuộc sống thường nhật rất thiếu sự hóm hỉnh. Nhưng Hán Thành thì rất sống động và đầy năng lượng.
Vài phút sau, chúng tôi vào được trong tiệm và người giúp việc đưa chúng tôi vào một bàn ở góc. Tôi chỉ còn biết nhìn và ngạc nhiên. Không có chuyện tương tự như thế ở miền Bắc. Tiệm ăn chật ních thực khách, ai nấy trò chuyện vui vẻ, bồi bàn nhanh thoăn thoắt với vô số đĩa thức ăn trên tay. Tất cả chúng tôi đều đặt nangmyon và khi món này được đưa ra, chúng tôi đã “chiếu cố” rất tận tình!
Ở bàn cạnh chúng tôi, một nhóm đàn ông ăn vận sang trọng nói chuyện khá to. Không thể không nghe những gì họ nói, vì vậy trong khi ăn, tôi bất giác để ý câu chuyện của họ.
- Các cậu thử nghĩ đến Lee Vungpyong mà xem! - một người bảo. - Hắn giàu sụ chỉ vì đã di tản.
- Thực ra thì cái máy bay Liên Xô mà hắn bay sang đây cũng có chút giá trị gì đó chứ. Nhưng đúng là chính phủ có lẽ đã bỏ ra hàng núi tiền cho hội di tản này.
- Đã nói đến dân miền Bắc, các cậu thấy ảnh Kim Hyun Hee chưa?
- À, ừ. Có thể là loại con gái lăng nhăng hám sex thực sự đấy, nhìn cái mặt là biết. Hình như cô ta “chơi” ghê lắm, với cả tá đàn ông một lúc.
- Sở dĩ lắm người đồng cảm với cô ta vì cô ta thật xinh. Chứ nếu ma chê quỷ hờn, hẳn cô ta bị bắn từ lâu rồi.
- Theo các cậu, cô ta còn trinh không?
- Giời biết! Xinh thế, tớ cũng thèm!
Tôi đang giơ tay và thức ăn lên miệng, thì bắt đầu run lên vì tức giận. Những sợi mì nhảy nhót một cách nực cười trên đôi đũa tôi đang cầm. Các điệp viên nhận thấy tôi nổi khùng, họ cố gắng trấn an tôi.
- Thôi mà, không sao đâu. Lẽ ra mình không nên vào đây – Li OK cố làm tôi dịu đi. – Đi thôi, mình rời đây thôi.
Nhưng không thể dễ dàng khiến tôi nguôi giận. Chầm chậm, tôi đặt đũa xuống bàn và nâng đĩa canh lên. Tôi đứng dậy, quay lại và hắt cả chỗ canh còn lại vào nhóm đàn ông nọ. Họ sững sờ ôm đầu! Tôi điên tiết đến nỗi không còn tự chủ nổi.
- Đồ chó chết! – tôi nói, giọng lạnh lùng. – Chúng mày nói ai thế hả?
- Trời ơi! - một người ngạc nhiên nhìn chằm chằm vào tôi. – Cô ta đấy!
- Đúng vậy, tao đây! – tôi nhảy dựng lên. – Và chúng mày có thể mừng là tao còn chưa cho chúng mày vãi đái ra!
Nhóm đàn ông sững người im lặng nhìn tôi. Lúc đó đã nhiều người để ý chúng tôi và Li Ok đẩy tôi ra phí cửa. Hai điệp viên khác che cho tôi, còn Sengju thì để lại chút tiền “boa” ở bàn ăn. Tôi bối rối vì bị nhìn ngó và bàn tán, và mừng rỡ khi thoát ra đến đường.
Li Ok vẫy chiếc taxi đầu tiên và chúng tôi vào xe. Sengju còn ngoái lại sau xem có ai theo chúng tôi không.
- Thế thì họ còn ăn sướng hơn gia đình tôi – tôi nhìn qua những món cơm, mỳ, già thủ và canh mỳ. – Chúng ta có thể ăn ở đây được không?
Li Ok nhìn những người còn lại, ai nấy đều lắc đầu.
- Chúng ta mà ăn ở đây thì quá lộ liễu, dễ trở thành đối tượng tấn công. Người ta dễ nhận ra lắm. Tốt nhất là mình đến một tiệm nangmyon đi.
Chúng tôi quay lại bên kia chợ và Li Ok giải thích cho tôi hiểu rằng các tiệm nangmyong (đây là ten một loại xúp mỳ lạnh) nổi tiếng khắp Hán Thành. Tiệm đầu tiên chúng tôi đến quả thực có lẽ khá nổi tiếng: những chiếc xe đắt tiền nối đuôi nhau trước tiệm và hàng thực khách cũng rồng rắn như vậy. Chúng tôi cũng đứng vào hàng và nhích khá chậm chạp. Một lần nữa, tôi có ấn tượng bởi sự giản dị và nhẹ nhõm của Hán Thành. Ngược lại, miền Bắc thì rất “vô khuẩn”. Người ít, ô tô hầu như không có, người lạ chả bao giờ bắt chuyện với nhau ngoài phố. Về căn bản, cuộc sống thường nhật rất thiếu sự hóm hỉnh. Nhưng Hán Thành thì rất sống động và đầy năng lượng.
Vài phút sau, chúng tôi vào được trong tiệm và người giúp việc đưa chúng tôi vào một bàn ở góc. Tôi chỉ còn biết nhìn và ngạc nhiên. Không có chuyện tương tự như thế ở miền Bắc. Tiệm ăn chật ních thực khách, ai nấy trò chuyện vui vẻ, bồi bàn nhanh thoăn thoắt với vô số đĩa thức ăn trên tay. Tất cả chúng tôi đều đặt nangmyon và khi món này được đưa ra, chúng tôi đã “chiếu cố” rất tận tình!
Ở bàn cạnh chúng tôi, một nhóm đàn ông ăn vận sang trọng nói chuyện khá to. Không thể không nghe những gì họ nói, vì vậy trong khi ăn, tôi bất giác để ý câu chuyện của họ.
- Các cậu thử nghĩ đến Lee Vungpyong mà xem! - một người bảo. - Hắn giàu sụ chỉ vì đã di tản.
- Thực ra thì cái máy bay Liên Xô mà hắn bay sang đây cũng có chút giá trị gì đó chứ. Nhưng đúng là chính phủ có lẽ đã bỏ ra hàng núi tiền cho hội di tản này.
- Đã nói đến dân miền Bắc, các cậu thấy ảnh Kim Hyun Hee chưa?
- À, ừ. Có thể là loại con gái lăng nhăng hám sex thực sự đấy, nhìn cái mặt là biết. Hình như cô ta “chơi” ghê lắm, với cả tá đàn ông một lúc.
- Sở dĩ lắm người đồng cảm với cô ta vì cô ta thật xinh. Chứ nếu ma chê quỷ hờn, hẳn cô ta bị bắn từ lâu rồi.
- Theo các cậu, cô ta còn trinh không?
- Giời biết! Xinh thế, tớ cũng thèm!
Tôi đang giơ tay và thức ăn lên miệng, thì bắt đầu run lên vì tức giận. Những sợi mì nhảy nhót một cách nực cười trên đôi đũa tôi đang cầm. Các điệp viên nhận thấy tôi nổi khùng, họ cố gắng trấn an tôi.
- Thôi mà, không sao đâu. Lẽ ra mình không nên vào đây – Li OK cố làm tôi dịu đi. – Đi thôi, mình rời đây thôi.
Nhưng không thể dễ dàng khiến tôi nguôi giận. Chầm chậm, tôi đặt đũa xuống bàn và nâng đĩa canh lên. Tôi đứng dậy, quay lại và hắt cả chỗ canh còn lại vào nhóm đàn ông nọ. Họ sững sờ ôm đầu! Tôi điên tiết đến nỗi không còn tự chủ nổi.
- Đồ chó chết! – tôi nói, giọng lạnh lùng. – Chúng mày nói ai thế hả?
- Trời ơi! - một người ngạc nhiên nhìn chằm chằm vào tôi. – Cô ta đấy!
- Đúng vậy, tao đây! – tôi nhảy dựng lên. – Và chúng mày có thể mừng là tao còn chưa cho chúng mày vãi đái ra!
Nhóm đàn ông sững người im lặng nhìn tôi. Lúc đó đã nhiều người để ý chúng tôi và Li Ok đẩy tôi ra phí cửa. Hai điệp viên khác che cho tôi, còn Sengju thì để lại chút tiền “boa” ở bàn ăn. Tôi bối rối vì bị nhìn ngó và bàn tán, và mừng rỡ khi thoát ra đến đường.
Li Ok vẫy chiếc taxi đầu tiên và chúng tôi vào xe. Sengju còn ngoái lại sau xem có ai theo chúng tôi không.
- Báo chí cũng có thể viết về vụ này đây! –
anh nhận xét khi nhìn ngó phố phường.
- Thây kệ! – tôi giận dữ đáp. – Làm sao các vị lại cho phép chúng nó ăn nói bỉ ổi như thế?
Li Ok cố gắng làm tôi dịu đi.
- Hyun Hee, có phải chúng ta đang ở miền Bắc đâu? Chúng tôi không thể bắt bớ cho dù người ta có nói năng giời biển gì đi nữa. Chúng tôi đâu có làm được gì đâu? Nhưng mà cô thì chỉ thiếu chút nữa, đã gây bê bối lớn!
Taxi để chúng tôi xuống ở khu chợ ở Cửa quan phía Đông, nơi chúng tôi để xe. Trên đường về Nam Sơn, Li Ok hỏi tôi:
- Đi dã ngoại hôm nay cô có thấy thích không? Ngoại trừ đụng độ vừa rồi thì cũng dễ chịu, phải không?
- Không bao giờ tôi đi nữa! – tôi nói, rất tức giận và gần như phát khóc.
- Tại sao? Cô sợ sẽ bị nhận ra? Cô sợ người ta xì xào về cô?
- Có thể - tôi lau mắt -, nhưng không chỉ vì vậy. Cứ mỗi lần ra ngoài này, thật tuyệt vời khi tôi cảm nhận bầu không khí tự do và được dạo chơi thành phố. Nhưng cái thế giới này – tôi chỉ ra cửa sổ - chả có chút gì liên quan đến tôi cả. Ý tôi nói rằng, đằng nào tôi cũng sắp chết rồi, mọi thứ này có nghĩa lý gì đâu? – Và tôi bắt đầu nức nở.
Li Ok tìm cách an ủi tôi.
- Hyun Hee, chúng ta có làm chủ được đời mình đâu. Cái đó nằm trong tay tòa án rồi. Nhưng từ giờ đến lúc ấy, chúng tôi sẽ cố để cô được vui vẻ.
- Tôi không muốn vui! – tôi đáp. – Tôi muốn chết càng nhanh càng tốt!
Sau đó là những ngày tồi tệ hơn. Sáng 15 tháng Giêng, Li Ok bảo tôi rằng tôi phải đưa ra những lời khai của mình trong một cuộc họp báo. Tôi như muốn khuỵu xuống.
- Tôi chả khai tất cả rồi đấy ư? Chán chê rồi! Sao cứ phải làm đi làm lại mãi thế này? Giết tôi đi còn hơn!
- Cô nghe tôi nói này – Nak Yong bảo tôi. - Chuyện cô sống hay chết không phụ thuộc vào cô, mà cũng chả phụ thuộc vào chúng tôi. Cô hiểu chưa? Cô chỉ có khả năng hối lỗi. Nếu cô thương thân nhân những nạn nhân, cô hãy cố gắng cộng tác với chúng tôi càng mật thiết càng tốt. Và tôi không muốn nghe thêm cái câu “giết tôi đi!” một lần nữa. Nó quá thảm hại!
Tự nhiên ông ta phát khùng và thái độ không mấy đặc trưng này của ông khiến tôi im bặt. Nak Yong luôn thân thiện với tôi, cũng như Li Ok và Sengju. Thành thử sự tức giận của ông giờ lại càng có hiệu quả.
- Vâng, tôi sai – tôi đáp khẽ. – Tôi sẽ làm tất cả những gì có thể.
Ngày 15 tháng Giêng 1988.
Nhóm hỏi cung đã làm việc nhiều ngày liền để đưa ra một tuyên bố tổng kết mọi kết quả của đợt điều tra. Cuộc họp báo được tổ chức tại đại sảnh của Cục An ninh; đại diện báo chí quốc tế cũng được mời tới dự.
Đó là một buổi sáng mưa tầm tã và lạnh lẽo – chúng tôi đi ngang thành phố mà tôi vẫn không thấy có chút hứng gì. Khi chúng tôi dừng lại trước tòa nhà, một nhóm phóng viên nhiếp ảnh vây ngay lấy chiếc xe. Ngoài ba điệp viên, còn hai vệ sĩ đi kèm tôi và cảnh sát cũng biểu dương lực lượng khá hùng hậu.
Cửa xe mở, tôi được dẫn đi giữa đám đông. Ai nấy xô đẩy, thiếu chút nữa tôi ngã nhào, tên tôi bị kêu gào. Đèn máy ánh nhấp nháy như điên. Được những người đi kèm “dọn đường”, tôi vào được trong tòa nhà. Li Ok và một nữ điệp viên khác khoác tay tôi, còn Nak Yong đi ngay sau tôi.
Vừa bước vào đại sảnh, chúng tôi lóa mắt vì ánh đèn của vô vàn máy chụp. Tôi hoa mày chóng mắt, lại phải được dìu đi. Rồi tôi được đưa tới một chiếc ghế và người ta bảo tôi nhìn lên. Đèn chụp ảnh lại lóe lên, rồi tôi lại phải nhìn xuống.
Toi không thể nhắc lại từng chi tiết của cuộc họp báo. Người ta liên hồi đặt những câu hỏi, và tôi cố gắng trả lời thật tốt theo những gì tôi biết. Tôi không giấu giếm gì cả, cho dù trong tôi luôn đè nặng suy nghĩ rằng với lời khai được đưa ra trước thanh thiên bạch nhật thế này, tôi đã vĩnh viễn khiến gia đình tôi tan nát. Khi họp báo chấm dứt, tôi mệt mỏi và chỉ muốn được trở về Nam Sơn.
Vài ngày sau, những người giam giữ tôi muốn làm tôi vui bằng cách đưa tôi đến một công viên kiểu Anh ở Nam Hàn, tại đó có đủ thứ máy chuyển động và quay tròn, và khi những máy móc này quẳng tôi lên hay xô đẩy tôi, tôi lại phá lên cuời, hoặc rú lên vì thích thú. Sự mệt mỏi, rã rời của tôi biến mất hoàn toàn, trong vài giờ ngắn ngủi tôi chỉ sống với hiện tại. Có lẽ tôi trẻ con lắm khi gào rú lên, nhưng cũng có lẽ - cả đời tôi - đến giờ tôi mới được một lần tham gia một trò vui như thế.
Sự thay đổi tâm trạng ấy của tôi khiến những người bắt giữ tôi hứng chí. Từ buổi họp báo, họ còn lịch sự và sẵn sàng với tôi hơn nữa, cả TV cũng được đua vào phòng tôi. Tôi sửng sốt vì bản tin thời sự ở đây rất đa dạng và sâu sắc, và tôi rất để ý theo dõi vì thông thường chương trình này cũng nói về tôi. Đôi lúc, những người đưa tin lại nói một điều gì đó, hoặc là hoàn toàn sai sự thật, hoặc là những chi tiết không đáng kể lại bị phóng đại một cách quá trớn. Những khi ấy, tôi bực dọc than phiền với Li Ok và cô thì luôn tìm cách trấn an tôi.
- Hyun Hee, không cần để tâm đến điều đó – cô nói. – Cô phải trấn tĩnh trước những gì mà người ta nói về cô. Ở miền Bắc báo chí còn tệ hơn, phải không?
- Có thể - tôi đáp. – Nhưng miền Bắc không có lệ vu cáo ai đó, rằng anh ta hành hung kẻ khác.
- Chắc chắn là không rồi – Nak Yong nói chen vào. - Ở đấy, người ta chỉ bắt và tử hình thôi.
- Bắn chết ấy – Sengju nói thêm.
Trước những khẳng định như thế, theo bản năng, tôi tìm cách bào chữa. Hán Thành đã chinh phục tôi, nhưng không thể tẩy xóa sự giáo dục mà tôi được phần suốt phần đời đã qua. Những nhận xét của họ khiến tôi nổi khùng.
- Thây kệ! – tôi giận dữ đáp. – Làm sao các vị lại cho phép chúng nó ăn nói bỉ ổi như thế?
Li Ok cố gắng làm tôi dịu đi.
- Hyun Hee, có phải chúng ta đang ở miền Bắc đâu? Chúng tôi không thể bắt bớ cho dù người ta có nói năng giời biển gì đi nữa. Chúng tôi đâu có làm được gì đâu? Nhưng mà cô thì chỉ thiếu chút nữa, đã gây bê bối lớn!
Taxi để chúng tôi xuống ở khu chợ ở Cửa quan phía Đông, nơi chúng tôi để xe. Trên đường về Nam Sơn, Li Ok hỏi tôi:
- Đi dã ngoại hôm nay cô có thấy thích không? Ngoại trừ đụng độ vừa rồi thì cũng dễ chịu, phải không?
- Không bao giờ tôi đi nữa! – tôi nói, rất tức giận và gần như phát khóc.
- Tại sao? Cô sợ sẽ bị nhận ra? Cô sợ người ta xì xào về cô?
- Có thể - tôi lau mắt -, nhưng không chỉ vì vậy. Cứ mỗi lần ra ngoài này, thật tuyệt vời khi tôi cảm nhận bầu không khí tự do và được dạo chơi thành phố. Nhưng cái thế giới này – tôi chỉ ra cửa sổ - chả có chút gì liên quan đến tôi cả. Ý tôi nói rằng, đằng nào tôi cũng sắp chết rồi, mọi thứ này có nghĩa lý gì đâu? – Và tôi bắt đầu nức nở.
Li Ok tìm cách an ủi tôi.
- Hyun Hee, chúng ta có làm chủ được đời mình đâu. Cái đó nằm trong tay tòa án rồi. Nhưng từ giờ đến lúc ấy, chúng tôi sẽ cố để cô được vui vẻ.
- Tôi không muốn vui! – tôi đáp. – Tôi muốn chết càng nhanh càng tốt!
Sau đó là những ngày tồi tệ hơn. Sáng 15 tháng Giêng, Li Ok bảo tôi rằng tôi phải đưa ra những lời khai của mình trong một cuộc họp báo. Tôi như muốn khuỵu xuống.
- Tôi chả khai tất cả rồi đấy ư? Chán chê rồi! Sao cứ phải làm đi làm lại mãi thế này? Giết tôi đi còn hơn!
- Cô nghe tôi nói này – Nak Yong bảo tôi. - Chuyện cô sống hay chết không phụ thuộc vào cô, mà cũng chả phụ thuộc vào chúng tôi. Cô hiểu chưa? Cô chỉ có khả năng hối lỗi. Nếu cô thương thân nhân những nạn nhân, cô hãy cố gắng cộng tác với chúng tôi càng mật thiết càng tốt. Và tôi không muốn nghe thêm cái câu “giết tôi đi!” một lần nữa. Nó quá thảm hại!
Tự nhiên ông ta phát khùng và thái độ không mấy đặc trưng này của ông khiến tôi im bặt. Nak Yong luôn thân thiện với tôi, cũng như Li Ok và Sengju. Thành thử sự tức giận của ông giờ lại càng có hiệu quả.
- Vâng, tôi sai – tôi đáp khẽ. – Tôi sẽ làm tất cả những gì có thể.
Ngày 15 tháng Giêng 1988.
Nhóm hỏi cung đã làm việc nhiều ngày liền để đưa ra một tuyên bố tổng kết mọi kết quả của đợt điều tra. Cuộc họp báo được tổ chức tại đại sảnh của Cục An ninh; đại diện báo chí quốc tế cũng được mời tới dự.
Đó là một buổi sáng mưa tầm tã và lạnh lẽo – chúng tôi đi ngang thành phố mà tôi vẫn không thấy có chút hứng gì. Khi chúng tôi dừng lại trước tòa nhà, một nhóm phóng viên nhiếp ảnh vây ngay lấy chiếc xe. Ngoài ba điệp viên, còn hai vệ sĩ đi kèm tôi và cảnh sát cũng biểu dương lực lượng khá hùng hậu.
Cửa xe mở, tôi được dẫn đi giữa đám đông. Ai nấy xô đẩy, thiếu chút nữa tôi ngã nhào, tên tôi bị kêu gào. Đèn máy ánh nhấp nháy như điên. Được những người đi kèm “dọn đường”, tôi vào được trong tòa nhà. Li Ok và một nữ điệp viên khác khoác tay tôi, còn Nak Yong đi ngay sau tôi.
Vừa bước vào đại sảnh, chúng tôi lóa mắt vì ánh đèn của vô vàn máy chụp. Tôi hoa mày chóng mắt, lại phải được dìu đi. Rồi tôi được đưa tới một chiếc ghế và người ta bảo tôi nhìn lên. Đèn chụp ảnh lại lóe lên, rồi tôi lại phải nhìn xuống.
Toi không thể nhắc lại từng chi tiết của cuộc họp báo. Người ta liên hồi đặt những câu hỏi, và tôi cố gắng trả lời thật tốt theo những gì tôi biết. Tôi không giấu giếm gì cả, cho dù trong tôi luôn đè nặng suy nghĩ rằng với lời khai được đưa ra trước thanh thiên bạch nhật thế này, tôi đã vĩnh viễn khiến gia đình tôi tan nát. Khi họp báo chấm dứt, tôi mệt mỏi và chỉ muốn được trở về Nam Sơn.
Vài ngày sau, những người giam giữ tôi muốn làm tôi vui bằng cách đưa tôi đến một công viên kiểu Anh ở Nam Hàn, tại đó có đủ thứ máy chuyển động và quay tròn, và khi những máy móc này quẳng tôi lên hay xô đẩy tôi, tôi lại phá lên cuời, hoặc rú lên vì thích thú. Sự mệt mỏi, rã rời của tôi biến mất hoàn toàn, trong vài giờ ngắn ngủi tôi chỉ sống với hiện tại. Có lẽ tôi trẻ con lắm khi gào rú lên, nhưng cũng có lẽ - cả đời tôi - đến giờ tôi mới được một lần tham gia một trò vui như thế.
Sự thay đổi tâm trạng ấy của tôi khiến những người bắt giữ tôi hứng chí. Từ buổi họp báo, họ còn lịch sự và sẵn sàng với tôi hơn nữa, cả TV cũng được đua vào phòng tôi. Tôi sửng sốt vì bản tin thời sự ở đây rất đa dạng và sâu sắc, và tôi rất để ý theo dõi vì thông thường chương trình này cũng nói về tôi. Đôi lúc, những người đưa tin lại nói một điều gì đó, hoặc là hoàn toàn sai sự thật, hoặc là những chi tiết không đáng kể lại bị phóng đại một cách quá trớn. Những khi ấy, tôi bực dọc than phiền với Li Ok và cô thì luôn tìm cách trấn an tôi.
- Hyun Hee, không cần để tâm đến điều đó – cô nói. – Cô phải trấn tĩnh trước những gì mà người ta nói về cô. Ở miền Bắc báo chí còn tệ hơn, phải không?
- Có thể - tôi đáp. – Nhưng miền Bắc không có lệ vu cáo ai đó, rằng anh ta hành hung kẻ khác.
- Chắc chắn là không rồi – Nak Yong nói chen vào. - Ở đấy, người ta chỉ bắt và tử hình thôi.
- Bắn chết ấy – Sengju nói thêm.
Trước những khẳng định như thế, theo bản năng, tôi tìm cách bào chữa. Hán Thành đã chinh phục tôi, nhưng không thể tẩy xóa sự giáo dục mà tôi được phần suốt phần đời đã qua. Những nhận xét của họ khiến tôi nổi khùng.
Này, cô có thấy Kim Nhật Thành là tay thế nào
không? - một lần, Sengju bảo tôi. – Già cóc đế rồi mà vẫn ham quyền.
- Thì người ta chả nói những kẻ xấu thường sống lâu là gì? – Nak Yong bồi thêm.
- Có phải ông ấy có lỗi đâu! – tôi bật dậy. – Ông ấy bị thủ hạ đánh lạc hướng, hoặc là người ta không thực hiện đúng những chỉ thị của ông.
Tất cả đều ôm bụng cười rộ lên, còn tôi thì uất ức. Nhưng tồi tệ nhất là khi những điệp viên Nam Hàn bêu xấu cả dân tộc Bắc Triều Tiên. Điều này làm tôi căy đắng vô cùng. Tôi muốn giải thích rằng dân miền Bắc cũng là những con người thực sự, có tâm tư tình cảm. Tôi có cảm giác khủng khiếp khi nhận thấy, cả hai phía đều biết rất ít về bên kia, khiến một dân tộc có chung nền văn hóa bị chia cắt đến thế. Có cùng tiếng nói, cùng phong tục tập quán, cùng lịch sử, ấy thế mà chúng tôi vẫn xâu xé lẫn nhau.
Tuy nhiên, tất cả mọi sự gắn bó của tôi với miền Bắc đều tiêu tan một lần, khi sáng hôm ấy, tôi xem thời sự. Trong những ngày qua, người ta kể rằng thời nhỏ, tôi từng được tặng hoa một phái đoàn Nam Hàn và tôi còn nhớ rõ một số tấm ảnh chụp cảnh ấy. Nhưng rồi giờ đây, Bắc Triều Tiên đưa ra một đoạn băng video về một phụ nữ tên là Chhung Hisun, cô này khẳng định rằng chính cô ta là người thời trước đã tặng hoa phái đoàn miền Nam. Rồi cô ta vung vẩy tuyên bố: chuyện bảo tôi là cháu bé trong ảnh chỉ là trò tuyên truyền của Nam Hàn!
Nhưng đây cũng chưa phải điều tồi tệ nhất. Nam Hàn có lý khi họ khẳng định rằng đứa bé trong ảnh, khi lớn lên, đã làm nổ một chiếc máy bay. Xuất phát từ một giả thiết sai trái rằng điều này là sự thật, Hisun cáo buộc Nam Hàn rằng, Nam Hàn đang buộc tội cô ta đã tiêu hủy chiếc máy bay. Nói cách khác: vì cháu bé trong ảnh là cô ta, và vì cháu bé với tên khủng bố là một, như thế làm sao cô ta có thể đặt bom làm nổ máy bay, trong khi cô ta chỉ là một giáo viên trung học bình thường ở Bình Nhưỡng? Và thế là người dân miền Bác, với tầm hiểu biết trung bình, xem tấn kịch đã được nhào nặn nhuần nhuyễn này và tin tường rằng Tổ quốc họ quả thực không hề liên quan gì đến vụ nổ, và Nam Hàn lại một lần nữa vu cáo miền Bắc. Và vì tên tôi không bao giờ được nhắc đến, tôi biến thành một nhân vật bịa đặt, chỉ do miền Nam bày ra để thực hiện mưu đồ của họ.
Tôi sững sờ xem TV. Vì Tổ quốc, tôi đã giết 115 con người và chỉ thiếu chút nữa tôi đã thiệt mạng, vậy mà nay Tổ quốc ấy đã quay mặt với tôi. Thoạt tiên, họ lợi dụng tôi, để rồi vứt bỏ. Tôi cảm thấy trống rỗng ghê gớm, chỉ ngồi thừ ra trước màn hình và lắc đầu quầy quậy. Đến giận dữ tôi cũng không còm hơi nữa.
- Cô thấy chuyện này thế nào? – tôi hỏi, nhưng là một lời tự nhủ thì đúng hơn.
- Chuyện gì cơ? – Li OK hỏi lại.
- Con mụ kia ấy…
- À! Chiến thuật điển hình của Bắc Hàn thôi mà.
- Nó có giống tôi không?
- Giống cô bé trong ảnh, nhưng không mấy giống cô bây giờ. Nhưng cô chớ quên rằng người ta đã lựa chọn một cách kỹ lưỡng để cho giống cô mà. Hoàn toàn chỉ là trò tuyên truyền!
- Lũ khốn nạn! – dán mắt vào TV, tôi gằn giọng trong họng. – Chúng ta có cần công bố một lời phản bác không?
- Không được đâu! Họ tính đến điều này mà. Họ muốn đánh lạc hướng về vụ nổ, bằng cách hướng sự chú ý vào một chuyện vô nghĩa gì đó. Giờ họ đang bị dồn vào góc tường và phải tìm lối thoát. Tốt nhất là kệ xác họ. Rồi cô sẽ thấy…
Tôi không thể ghi lại cảm giác khi con người nhận ra mình bị phản bội. Như thể tôi đã sống hai mươi sáu năm chẳng để làm gì. Và tại Bắc Triều Tiên, quả thực tôi đã không tồn tại. Tôi trở thành một-kẻ-không-tồn-tại. Và cùng với tôi là các thành viên trong gia đình tôi!
Không bao giờ tôi quên họ, không bao giờ tôi từ bỏ hy vọng có lẽ người ta sẽ tha tính mạng cho họ. Đồng thời, tôi không thể tiếp tục coi mình là người miền Bắc vì khi đưa độc dược vào miệng tại phi trường Bahrein, tôi đã được tái sinh. Tôi phải thanh toán với thời thơ ấu, những năm tháng đi học, và cả đời tôi cho đến khoảnh khắc khi tôi lịm đi tại sân bay Bahrein. Và, cho dù điều này khiến tôi đau lòng khôn tả, tôi vẫn tuyên bố với sự hồi hộp dâng tràn:
- Tôi, Kim Hyun Hee, Nam Hàn!
Tôi tưởng rằng sau khi đã khai báo, mọi thứ sẽ đơn giản hơn nhiều và tôi sẽ bị tử hình nhanh chóng. Nhưng chừng một tuần sau, Nak Yong bảo rằng chẳng mấy chốc, tôi sẽ phải ra trước vành móng ngựa và tại đó, số phận tôi sẽ được định đoạt.
- Xét xử? – tôi hỏi. – Tôi đã khai tất cả cho các vị rồi! Tôi có tội. Còn có thể tranh luận gì ở đây được nữa?
- Tôi sợ rằng không thể tránh được phiên tòa đâu – Nak Yong đáp. – Cô có thể biết ơn vì người ta đã không sả súng bắn chết cô ngay, như kiểu Bắc Hàn. Ở Nam Hàn, mọi nghi can đều có quyền tham gia một phiên xử công bằng, tại đó, người ta sẽ nhận định đương sự có tội hay không và sẽ đưa ra bản án phù hợp. Chúng tôi gọi đó là tư pháp.
- Tôi thì cho rằng thật nực cười. Chỉ phí thời gian, vì tôi đã nhận sạch mọi tội rồi.
Không có vẻ là tình thế của tôi sẽ thay đổi nhanh chóng, tôi buộc phải ở dài hạn tại Nam Sơn. Về sau, tôi đọc được một báo cáo của Nak Yong mà ông để lại trong phòng. Tờ trình ấy chủ yếu nói về cách cư xử của tôi từ khi tôi bị đưa về Nam Sơn, nhưng trong đó cũng có cả những chi tiết của cuộc điều tra do Nak Yong tiến hành. Tuy nhiên, khi đọc đến mục “Ý kiến”, tôi phải ngồi bật dậy và sững người:
“Vì có đủ bằng cứ cho thấy Kim Hyun Hee có tội trong tất cả các điểm buộc tội, tôi có ý kiến rằng hình phạt đang là đối tượng của sự cân nhắc là hoàn toàn hợp lý”.
“Lưu manh!” – tôi nghĩ thầm. “Đồ dối trá, khốn nạn, bẩn thỉu!” Tôi cảm thấy như kẻ hai lần bị phản bội và lăn ra khóc. Sao Nak Yong lại tỏ ra thân thiện với tôi trong khi ông đề nghị tử hình tôi? Mọi sự thân mật đều là lừa đảo! Cứ mỗi lần đưa tôi đi Hán Thành mua bán hay xem xét, là người ta lại muốn khiến tôi đau khổ bằng cách cho tôi được nhìn ngó vào một cuộc sống mà không bao giờ tôi được sống ở đó. Nhưng điều làm tôi đau nhất là tôi cứ nghĩ, Nak Yong đứng về phía tôi. Tôi nghĩ, chỉ mình ông hiểu được nỗi đau của tôi, và ủng hộ tôi. Rõ ràng là tôi đã nhầm to.
Phải đến một năm sau, phiên tòa mới được mở vào ngày 7 tháng Ba năm 1989.
Giữa chừng, tháng ngày trôi đi chầm chậm. Sau khi xem bản báo cáo của Nak Yong, nhiều tuần liền tôi không trò chuyện với nhóm điệp viên và tôi cũng không chịu vào thành phố. Mọi người lo lắng về sự thay đổi ấy, họ mời bác sĩ đến khám cho tôi. Bác sĩ nhận định rằng tôi khỏe mạnh, ngoại trừ sự trầm cảm dai dẳng dễ hiểu đối với những kẻ ở tình cảnh như tôi. Tôi tiêu thời gian bằng cách xem TV, đọc báo. Các điệp viên mang sách vở phương Tây cho tôi đọc. Nhưng cuộc sống của tôi không hề có chút niềm vui nào. Tôi đã phục sinh ở Hán Thành, nhưng rồi trở thành một đứa mồ côi.
Rốt cục thì phiên tòa cũng được mở và khi ấy, mọi thứ trôi đi rất nhanh. Không cần đến Bồi thẩm đoàn vì tôi nhận tất cả các tội bị buộc. Tôi phải nhắc lại một lần nữa tất cả những gì đã khai với nhóm điệp viên, nhưng đây chỉ là hình thức. Ngày 27 tháng Ba, phán quyết được công bố: đúng như tôi dự đoán, tôi bị án tử hình.
Thời điểm thi hành bản án không được đưa ra và như thế, tôi buộc phải về lại Nam Sơn và tiếp tục chờ đợi. Cái chết đã là chắc chắn, thành thử tôi không làm sao thoát khỏi suy nghĩ về nó. Nhiều ngày liền, tôi chỉ nằm và ngắm trần nhà. Tôi muốn chết, nhưng điều đó khác với việc tôi được thông báo rằng chẳng bao lâu nữa, tôi sẽ phải từ giã cõi đời. Như thế, cuộc sống mới của tôi ở Hán Thành sẽ chỉ còn một khoảng thời gian rất ngắn ngủi. Tôi được phục sinh, được nếm thử cuộc sống mới mà lẽ ra tôi có thể được sống. Nhưng giờ đây, cái chết lạnh lẽo đang chờ tôi.
Tôi không để ý mấy đến các bài xã luận trên báo chí bàn luận về khả năng chính phủ vẫn có thể ân xá cho tôi. Thân nhân của các nạn nhân lên tiếng đòi hỏi chớ ân xá cho tôi, và không ai có thể trách họ vì điều đó. Không ai có thể trả lại người thương cho họ, và cho dù chỉ là một sự an ủi nhỏ nhặt đến mấy, hậu quả duy nhất mang tính báo thù phải là cái chết của tôi. Chỉ điều này mới có thể đem lại cho họ chút bình an trong tinh thần, để họ tiếp tục sống.
Tháng ngày trôi đi vô nghĩa và thừa thãi. Tôi được biết bản án phải được thi hành trong vòng sáu tháng, như thế ít nhất tôi còn có thể tính được cái gì đó. Tôi rơi vào trạng thái trầm cảm nặng nề và không chịu trò chuyện gì với nhóm điệp viên. Tôi tự nhủ lẽ ra tôi phải chết ngay tại phi trường Bahrein, việc tôi sống sót chỉ là sự may mắn vô tình. Nhưng, theo bản năng, ai mà chẳng bám riết lấy cuộc sống? Thân xác tôi khiến tôi không thể không để tâm đến cuộc sống. Tôi sợ…
Tất cả chúng ta, trong đời mình, hẳn đã nhìn thấy kẻ khác gặp hoạn nạn, và cho dù chúng ta có đồng cảm với họ bao nhiêu đi nữa, trong thâm tâm, chúng ta vẫn mừng thầm rằng họ, chứ không phải chúng ta, đang gặp họa. Ai cũng có thể bị thương, bệnh tật hay chết. Nhưng bây giờ tôi giữ vai trò ấy. Lần này, người khác có thể ngồi trong cảnh an bình xem tôi bị tử hình.
Một bữa nọ, Nak Yong buông một nhận xét khiến tôi bất ngờ: ông hy vọng tôi sẽ được ân xá. Tôi lao vào suy nghĩ. Có thể Nak Yong đề xuất tuyên án tử hình đối với tôi hoàn toàn chỉ trên phưong diện tư pháp, trong khi ông đã biết rằng thế nào tôi cũng sẽ được ân xá? Có lẽ phán quyết chỉ mang tính hình thức, có lẽ tổng thống - chứ không phải tòa án – có quyền đưa ra lệnh ân xá? Hay là đơn thuần chỉ vì Nak Yong đã nghĩ lại? Dầu sao đi nữa, tôi cũng thấy dễ chịu vì ông lo lắng cho tôi.
Một bận sau đó, Li Ok trò chuyện với mẹ qua điện thoại ở phòng tôi, Cô tán gẫu vui vẻ như thể một kẻ vô tư lự, và tôi rất ghen tị với cô về điều đó. Nếu tôi được sinh ra là người miền Nam, trong giờ phút ấy tôi cũng đã có thể trò chuyện điện thoại với mẹ tôi, ngay từ nhà tôi, nơi tôi và chồng con sinh sống. Tôi chỉ mong ước một điều mà chưa bao giờ tôi có được: sống một cuộc sống bình thường!
Tôi lại nhớ mẹ tôi từng bảo kể từ khi tôi được Đảng chọn, đêm nào mẹ cũng khóc. Rằng, mẹ tìm lại tập ảnh tôi và cứ thế, bà âm thầm nhỏ lệ đến chừng nào chưa ngủ được. Đây là điều tuyệt nhiên bị cấm: kể từ khoảnh khắc tôi trở thành điệp viên mật, lẽ ra bà phải hủy tất cả ảnh của tôi. Nhưng bà không thể làm được điều đó! Còn em gái tôi lại thầm thì với bà: cô hy vọng rằng một ngày nào đó, tôi lại được Đảng cho phép lấy chồng.
Ít nhất, tôi muốn mẹ tôi được biết sự thật. Thử hỏi bà có tin được không?
Trong thời gian ấy, một thay đổi lớn đã diễn ra với tôi: tôi bắt đầu cầu nguyện Đức Chúa trời! Tín ngưỡng phương Tây không phải là xa lạ tại Triều Tiên và qua sách vở, TV, cũng như qua những cuộc trò chuyện quanh tôi, tôi đã thu thập được nhiều kiến thức này nọ. Tôi cầu nguyện Đức Chúa trời cho tôi sửa chữa mọi tội lỗi đã phạm phải. Tôi xin Người cho tôi cơ hội để sống thêm nữa, và phục vụ mọi người. Giá không có chỗ dựa là những bài kinh cầu, tôi đã hoàn toàn đánh mất mọi hy vọng!
Mùa xuân đến và trong khi cả thành phố háo hức chờ đợi đông tàn, tôi vẫn nằm trong nhà tù lạnh lẽo. Tôi đợi chờ…
- Thì người ta chả nói những kẻ xấu thường sống lâu là gì? – Nak Yong bồi thêm.
- Có phải ông ấy có lỗi đâu! – tôi bật dậy. – Ông ấy bị thủ hạ đánh lạc hướng, hoặc là người ta không thực hiện đúng những chỉ thị của ông.
Tất cả đều ôm bụng cười rộ lên, còn tôi thì uất ức. Nhưng tồi tệ nhất là khi những điệp viên Nam Hàn bêu xấu cả dân tộc Bắc Triều Tiên. Điều này làm tôi căy đắng vô cùng. Tôi muốn giải thích rằng dân miền Bắc cũng là những con người thực sự, có tâm tư tình cảm. Tôi có cảm giác khủng khiếp khi nhận thấy, cả hai phía đều biết rất ít về bên kia, khiến một dân tộc có chung nền văn hóa bị chia cắt đến thế. Có cùng tiếng nói, cùng phong tục tập quán, cùng lịch sử, ấy thế mà chúng tôi vẫn xâu xé lẫn nhau.
Tuy nhiên, tất cả mọi sự gắn bó của tôi với miền Bắc đều tiêu tan một lần, khi sáng hôm ấy, tôi xem thời sự. Trong những ngày qua, người ta kể rằng thời nhỏ, tôi từng được tặng hoa một phái đoàn Nam Hàn và tôi còn nhớ rõ một số tấm ảnh chụp cảnh ấy. Nhưng rồi giờ đây, Bắc Triều Tiên đưa ra một đoạn băng video về một phụ nữ tên là Chhung Hisun, cô này khẳng định rằng chính cô ta là người thời trước đã tặng hoa phái đoàn miền Nam. Rồi cô ta vung vẩy tuyên bố: chuyện bảo tôi là cháu bé trong ảnh chỉ là trò tuyên truyền của Nam Hàn!
Nhưng đây cũng chưa phải điều tồi tệ nhất. Nam Hàn có lý khi họ khẳng định rằng đứa bé trong ảnh, khi lớn lên, đã làm nổ một chiếc máy bay. Xuất phát từ một giả thiết sai trái rằng điều này là sự thật, Hisun cáo buộc Nam Hàn rằng, Nam Hàn đang buộc tội cô ta đã tiêu hủy chiếc máy bay. Nói cách khác: vì cháu bé trong ảnh là cô ta, và vì cháu bé với tên khủng bố là một, như thế làm sao cô ta có thể đặt bom làm nổ máy bay, trong khi cô ta chỉ là một giáo viên trung học bình thường ở Bình Nhưỡng? Và thế là người dân miền Bác, với tầm hiểu biết trung bình, xem tấn kịch đã được nhào nặn nhuần nhuyễn này và tin tường rằng Tổ quốc họ quả thực không hề liên quan gì đến vụ nổ, và Nam Hàn lại một lần nữa vu cáo miền Bắc. Và vì tên tôi không bao giờ được nhắc đến, tôi biến thành một nhân vật bịa đặt, chỉ do miền Nam bày ra để thực hiện mưu đồ của họ.
Tôi sững sờ xem TV. Vì Tổ quốc, tôi đã giết 115 con người và chỉ thiếu chút nữa tôi đã thiệt mạng, vậy mà nay Tổ quốc ấy đã quay mặt với tôi. Thoạt tiên, họ lợi dụng tôi, để rồi vứt bỏ. Tôi cảm thấy trống rỗng ghê gớm, chỉ ngồi thừ ra trước màn hình và lắc đầu quầy quậy. Đến giận dữ tôi cũng không còm hơi nữa.
- Cô thấy chuyện này thế nào? – tôi hỏi, nhưng là một lời tự nhủ thì đúng hơn.
- Chuyện gì cơ? – Li OK hỏi lại.
- Con mụ kia ấy…
- À! Chiến thuật điển hình của Bắc Hàn thôi mà.
- Nó có giống tôi không?
- Giống cô bé trong ảnh, nhưng không mấy giống cô bây giờ. Nhưng cô chớ quên rằng người ta đã lựa chọn một cách kỹ lưỡng để cho giống cô mà. Hoàn toàn chỉ là trò tuyên truyền!
- Lũ khốn nạn! – dán mắt vào TV, tôi gằn giọng trong họng. – Chúng ta có cần công bố một lời phản bác không?
- Không được đâu! Họ tính đến điều này mà. Họ muốn đánh lạc hướng về vụ nổ, bằng cách hướng sự chú ý vào một chuyện vô nghĩa gì đó. Giờ họ đang bị dồn vào góc tường và phải tìm lối thoát. Tốt nhất là kệ xác họ. Rồi cô sẽ thấy…
Tôi không thể ghi lại cảm giác khi con người nhận ra mình bị phản bội. Như thể tôi đã sống hai mươi sáu năm chẳng để làm gì. Và tại Bắc Triều Tiên, quả thực tôi đã không tồn tại. Tôi trở thành một-kẻ-không-tồn-tại. Và cùng với tôi là các thành viên trong gia đình tôi!
Không bao giờ tôi quên họ, không bao giờ tôi từ bỏ hy vọng có lẽ người ta sẽ tha tính mạng cho họ. Đồng thời, tôi không thể tiếp tục coi mình là người miền Bắc vì khi đưa độc dược vào miệng tại phi trường Bahrein, tôi đã được tái sinh. Tôi phải thanh toán với thời thơ ấu, những năm tháng đi học, và cả đời tôi cho đến khoảnh khắc khi tôi lịm đi tại sân bay Bahrein. Và, cho dù điều này khiến tôi đau lòng khôn tả, tôi vẫn tuyên bố với sự hồi hộp dâng tràn:
- Tôi, Kim Hyun Hee, Nam Hàn!
Tôi tưởng rằng sau khi đã khai báo, mọi thứ sẽ đơn giản hơn nhiều và tôi sẽ bị tử hình nhanh chóng. Nhưng chừng một tuần sau, Nak Yong bảo rằng chẳng mấy chốc, tôi sẽ phải ra trước vành móng ngựa và tại đó, số phận tôi sẽ được định đoạt.
- Xét xử? – tôi hỏi. – Tôi đã khai tất cả cho các vị rồi! Tôi có tội. Còn có thể tranh luận gì ở đây được nữa?
- Tôi sợ rằng không thể tránh được phiên tòa đâu – Nak Yong đáp. – Cô có thể biết ơn vì người ta đã không sả súng bắn chết cô ngay, như kiểu Bắc Hàn. Ở Nam Hàn, mọi nghi can đều có quyền tham gia một phiên xử công bằng, tại đó, người ta sẽ nhận định đương sự có tội hay không và sẽ đưa ra bản án phù hợp. Chúng tôi gọi đó là tư pháp.
- Tôi thì cho rằng thật nực cười. Chỉ phí thời gian, vì tôi đã nhận sạch mọi tội rồi.
Không có vẻ là tình thế của tôi sẽ thay đổi nhanh chóng, tôi buộc phải ở dài hạn tại Nam Sơn. Về sau, tôi đọc được một báo cáo của Nak Yong mà ông để lại trong phòng. Tờ trình ấy chủ yếu nói về cách cư xử của tôi từ khi tôi bị đưa về Nam Sơn, nhưng trong đó cũng có cả những chi tiết của cuộc điều tra do Nak Yong tiến hành. Tuy nhiên, khi đọc đến mục “Ý kiến”, tôi phải ngồi bật dậy và sững người:
“Vì có đủ bằng cứ cho thấy Kim Hyun Hee có tội trong tất cả các điểm buộc tội, tôi có ý kiến rằng hình phạt đang là đối tượng của sự cân nhắc là hoàn toàn hợp lý”.
“Lưu manh!” – tôi nghĩ thầm. “Đồ dối trá, khốn nạn, bẩn thỉu!” Tôi cảm thấy như kẻ hai lần bị phản bội và lăn ra khóc. Sao Nak Yong lại tỏ ra thân thiện với tôi trong khi ông đề nghị tử hình tôi? Mọi sự thân mật đều là lừa đảo! Cứ mỗi lần đưa tôi đi Hán Thành mua bán hay xem xét, là người ta lại muốn khiến tôi đau khổ bằng cách cho tôi được nhìn ngó vào một cuộc sống mà không bao giờ tôi được sống ở đó. Nhưng điều làm tôi đau nhất là tôi cứ nghĩ, Nak Yong đứng về phía tôi. Tôi nghĩ, chỉ mình ông hiểu được nỗi đau của tôi, và ủng hộ tôi. Rõ ràng là tôi đã nhầm to.
Phải đến một năm sau, phiên tòa mới được mở vào ngày 7 tháng Ba năm 1989.
Giữa chừng, tháng ngày trôi đi chầm chậm. Sau khi xem bản báo cáo của Nak Yong, nhiều tuần liền tôi không trò chuyện với nhóm điệp viên và tôi cũng không chịu vào thành phố. Mọi người lo lắng về sự thay đổi ấy, họ mời bác sĩ đến khám cho tôi. Bác sĩ nhận định rằng tôi khỏe mạnh, ngoại trừ sự trầm cảm dai dẳng dễ hiểu đối với những kẻ ở tình cảnh như tôi. Tôi tiêu thời gian bằng cách xem TV, đọc báo. Các điệp viên mang sách vở phương Tây cho tôi đọc. Nhưng cuộc sống của tôi không hề có chút niềm vui nào. Tôi đã phục sinh ở Hán Thành, nhưng rồi trở thành một đứa mồ côi.
Rốt cục thì phiên tòa cũng được mở và khi ấy, mọi thứ trôi đi rất nhanh. Không cần đến Bồi thẩm đoàn vì tôi nhận tất cả các tội bị buộc. Tôi phải nhắc lại một lần nữa tất cả những gì đã khai với nhóm điệp viên, nhưng đây chỉ là hình thức. Ngày 27 tháng Ba, phán quyết được công bố: đúng như tôi dự đoán, tôi bị án tử hình.
Thời điểm thi hành bản án không được đưa ra và như thế, tôi buộc phải về lại Nam Sơn và tiếp tục chờ đợi. Cái chết đã là chắc chắn, thành thử tôi không làm sao thoát khỏi suy nghĩ về nó. Nhiều ngày liền, tôi chỉ nằm và ngắm trần nhà. Tôi muốn chết, nhưng điều đó khác với việc tôi được thông báo rằng chẳng bao lâu nữa, tôi sẽ phải từ giã cõi đời. Như thế, cuộc sống mới của tôi ở Hán Thành sẽ chỉ còn một khoảng thời gian rất ngắn ngủi. Tôi được phục sinh, được nếm thử cuộc sống mới mà lẽ ra tôi có thể được sống. Nhưng giờ đây, cái chết lạnh lẽo đang chờ tôi.
Tôi không để ý mấy đến các bài xã luận trên báo chí bàn luận về khả năng chính phủ vẫn có thể ân xá cho tôi. Thân nhân của các nạn nhân lên tiếng đòi hỏi chớ ân xá cho tôi, và không ai có thể trách họ vì điều đó. Không ai có thể trả lại người thương cho họ, và cho dù chỉ là một sự an ủi nhỏ nhặt đến mấy, hậu quả duy nhất mang tính báo thù phải là cái chết của tôi. Chỉ điều này mới có thể đem lại cho họ chút bình an trong tinh thần, để họ tiếp tục sống.
Tháng ngày trôi đi vô nghĩa và thừa thãi. Tôi được biết bản án phải được thi hành trong vòng sáu tháng, như thế ít nhất tôi còn có thể tính được cái gì đó. Tôi rơi vào trạng thái trầm cảm nặng nề và không chịu trò chuyện gì với nhóm điệp viên. Tôi tự nhủ lẽ ra tôi phải chết ngay tại phi trường Bahrein, việc tôi sống sót chỉ là sự may mắn vô tình. Nhưng, theo bản năng, ai mà chẳng bám riết lấy cuộc sống? Thân xác tôi khiến tôi không thể không để tâm đến cuộc sống. Tôi sợ…
Tất cả chúng ta, trong đời mình, hẳn đã nhìn thấy kẻ khác gặp hoạn nạn, và cho dù chúng ta có đồng cảm với họ bao nhiêu đi nữa, trong thâm tâm, chúng ta vẫn mừng thầm rằng họ, chứ không phải chúng ta, đang gặp họa. Ai cũng có thể bị thương, bệnh tật hay chết. Nhưng bây giờ tôi giữ vai trò ấy. Lần này, người khác có thể ngồi trong cảnh an bình xem tôi bị tử hình.
Một bữa nọ, Nak Yong buông một nhận xét khiến tôi bất ngờ: ông hy vọng tôi sẽ được ân xá. Tôi lao vào suy nghĩ. Có thể Nak Yong đề xuất tuyên án tử hình đối với tôi hoàn toàn chỉ trên phưong diện tư pháp, trong khi ông đã biết rằng thế nào tôi cũng sẽ được ân xá? Có lẽ phán quyết chỉ mang tính hình thức, có lẽ tổng thống - chứ không phải tòa án – có quyền đưa ra lệnh ân xá? Hay là đơn thuần chỉ vì Nak Yong đã nghĩ lại? Dầu sao đi nữa, tôi cũng thấy dễ chịu vì ông lo lắng cho tôi.
Một bận sau đó, Li Ok trò chuyện với mẹ qua điện thoại ở phòng tôi, Cô tán gẫu vui vẻ như thể một kẻ vô tư lự, và tôi rất ghen tị với cô về điều đó. Nếu tôi được sinh ra là người miền Nam, trong giờ phút ấy tôi cũng đã có thể trò chuyện điện thoại với mẹ tôi, ngay từ nhà tôi, nơi tôi và chồng con sinh sống. Tôi chỉ mong ước một điều mà chưa bao giờ tôi có được: sống một cuộc sống bình thường!
Tôi lại nhớ mẹ tôi từng bảo kể từ khi tôi được Đảng chọn, đêm nào mẹ cũng khóc. Rằng, mẹ tìm lại tập ảnh tôi và cứ thế, bà âm thầm nhỏ lệ đến chừng nào chưa ngủ được. Đây là điều tuyệt nhiên bị cấm: kể từ khoảnh khắc tôi trở thành điệp viên mật, lẽ ra bà phải hủy tất cả ảnh của tôi. Nhưng bà không thể làm được điều đó! Còn em gái tôi lại thầm thì với bà: cô hy vọng rằng một ngày nào đó, tôi lại được Đảng cho phép lấy chồng.
Ít nhất, tôi muốn mẹ tôi được biết sự thật. Thử hỏi bà có tin được không?
Trong thời gian ấy, một thay đổi lớn đã diễn ra với tôi: tôi bắt đầu cầu nguyện Đức Chúa trời! Tín ngưỡng phương Tây không phải là xa lạ tại Triều Tiên và qua sách vở, TV, cũng như qua những cuộc trò chuyện quanh tôi, tôi đã thu thập được nhiều kiến thức này nọ. Tôi cầu nguyện Đức Chúa trời cho tôi sửa chữa mọi tội lỗi đã phạm phải. Tôi xin Người cho tôi cơ hội để sống thêm nữa, và phục vụ mọi người. Giá không có chỗ dựa là những bài kinh cầu, tôi đã hoàn toàn đánh mất mọi hy vọng!
Mùa xuân đến và trong khi cả thành phố háo hức chờ đợi đông tàn, tôi vẫn nằm trong nhà tù lạnh lẽo. Tôi đợi chờ…
Tháng Tư đã về trên đường phố Hán Thành, vạn
vật đều mang hương vị mùa xuân. Những nhành hoa đủ màu sắc đỏ, tím, vàng phủ
kín những rặng núi xung quanh Nam Sơn. Hoa tràn ngập đỉnh núi như những trận
mưa vàng. Những nụ đào tuyệt vời dường như phủ nhận rằng đã có một mùa đông.
Hán Thánh trở mình.
Càng ngày càng có nhiều người bảo rằng tôi sẽ được ân xá và tôi, từ trầm cảm ê chề, chuyển sang trạng thái chờ đợi bồn chồn. Mặc dù tôi lưỡng lự, đôi lúc các điệp viên vẫn bảo nếu muốn tôi có thể ra thành phố đi dạo. Và làm sao có thể cưỡng lại được mùa xuân!
Như thế, tôi được tắm trong ánh nắng ấm áp tràn trề, tôi được chiêm ngưỡng phong cảnh diệu kỳ. Nam Hàn – cũng như Bắc Triều Tiên – là một quốc gia đẹp tuyệt vời! Có biết bao thung lũng rậm rạp, rặng núi cao vời và cao nguyên màu mỡ. Tôi hy vọng rằng sẽ còn được ngắm vẻ đẹp của miền Nam một lần nữa…
Khi trở về Nam Sơn, tôi tung giày và xem bản tin lúc bảy giờ.
- Lại thêm một ngày vô tích sự! – tôi bảo Li Ok khi cô còn phải trực hai giờ nữa. Nhưng Li Ok im lặng, cô nhìn chăm chăm vào màn hình TV.
- Chính phủ đã quyết định ân xá cho Kim Hyun Hee, kẻ bị kết án tử hình mới đây vì tội làm nổ chiếc máy bay số 858 của Hàng không Hàn Quốc. Tổng thống tuyên bố rằng không phải Kim Hyun Hee là thủ phạm đích thực, thực chất cô ta cũng là một nạn nhân vô can của một xã hội mà ở đó nhân quyền không được coi trọng, nơi sự khủng bố bao trùm. Theo tổng thống, Kim Nhật Thành mới là kẻ…
Nhưng tôi không còn nghe thêm được gì nữa. Li Ok bật dậy và gào lên:
- CÔ ĐƯỢC ÂN XÁ RỒI!
Cô nhào đến ôm chầm lấy tôi, siết chặt tôi trong vòng tay. Chẳng mấy chốc, tin này lan nhanh khắp Nam Sơn và tất cả mọi người đều đến chúc mừng tôi. Tôi thấy ai nấy đều thành thực mừng cho tôi, và Nak Yong cũng vậy.
Cảm động quá, tôi không thể nói được gì và trong khi mọi người bàn tán về quyết định của tổng thống, tôi lao vào giường và òa lên khóc nức nở. Tôi không làm sao nói lên được những tình cảm trào dâng trong lòng: sự biết ơn chính phủ đã ân xá cho tôi, nỗi phiền muộn khi nghĩ đến gia đình và niềm hy vọng cho tương lai phía trước. Tôi cảm thấy sự cô đơn của tôi ít nhất cũng lớn như niềm vui, nhưng khi đó và tại nơi ấy, tôi đã nói lời tri ân Đức Chúa trời.
“Lạy Chúa tôi, con cám ơn Người đã cho con, một kẻ tội đồ, được một khả năng sống. Cầu xin Người hãy mang tin này cho gia đình con và hãy phù hộ cho họ nữa”
Nak Yong mỉm cười tiến đến chúc mừng tôi. Ông hơi ngạc nhiên khi thấy tôi khóc, nhưng hẳn là ông cũng cảm nhận được những tình cảm phức tạp trong lòng tôi, nên ông không gạn hỏi gì.
- Hyun Hee, hôm nay là một ngày hạnh phúc. Đã đến lúc cô phải dự kiến cho cuộc sống mới của cô tại đây, đất Hán Thành. Ngày mai tôi sẽ trở lại và ta sẽ cùng bàn.
Tôi gật đầu. Mắt đẫm lệ, tôi hầu như không thấy gương mặt ông.
- Cám ơn ông nhiều lắm. Tôi đã tưởng ông quay lưng lại với tôi rồi.
Nak Yong sửng sốt, ông không tìm được từ ngữ thích hợp.
- Đây là khoảng thời gian nặng nề đối với tất cả chúng ta, Hyun Hee ạ. Lâu rồi chúng tôi không có vụ nào tương tự. Tôi phải thú thực rằng, tôi đã phải đấu tranh giữa lương tâm và những tình cảm của tôi. Nhưng cô cũng biết đấy, đây chưa bao giờ là một vụ đen - trắng rõ ràng. Và một phần những lý do của tổng thống cũng có thể mang tính chính trị, chứ không chỉ là về mặt đạo đức. Cô là một ví dụ tuyệt vời cho cái gọi là tấn thảm kịch Bắc Triều Tiên, và tất cả mọi người đều sẽ hiểu điều này.
Đồng thời, tôi không hề tin rằng tử hình cô là điều có nhiều ý nghĩa. Bản án không khiến những nạn nhân được sống lại, và không giáng một đòn vào những kẻ thâm độc thực sự, Kim Nhật Thành và Kim Chính Nhật. Trong xã hội ấy, Hyun Hee ạ, cô không có chút cơ hội nào, và nếu chúng tôi tử hình cô thì quả là một mạng người đã bị tiêu vong một cách vô nghĩa. Không giải quyết được gì, và tôi biết là cô đã thực sự hối hận về điều cô làm. Bên cạnh đó, tôi không tin rằng giờ đây, cô còn có chút nguy hiểm gì đối với xã hội chúng tôi. – Ông cười. – Cho dù được huấn luyện kỹ càng thế nào đi nữa, theo tôi, cô không hề có chút đường gân thớ thịt nào của một tên sát thủ. Tôi tin rằng nếu bị đặt vào địa vị của cô, bất cứ ai trong số chúng tôi cũng đã phải làm như thế.
- Đúng vậy, tôi cũng nghĩ thế - Li Ok nói, khi đó cô cũng đến gần tôi và nắm chặt tay tôi. – Cô biết không, tôi cho rằng người ngoài cuộc không thể hiểu nổi quyết định này. Con người ta phải trải qua nỗi đau chia cắt của Triều Tiên để có thể hiểu được. Những kẻ sống ở nơi khác, làm sao cảm nhận được cảm giác khi Tổ quốc chúng ta bị phân đôi và ở một miền, một kẻ độc tài tàn bạo trị vì. Nhiều người trong số chúng tôi có thân nhân ở miền Bắc và chúng tôi chưa bao giờ được gặp. Chưa bao giờ được biết về họ. Phải chăng, cái nhiệm vụ kinh tởm này, biết đâu, lại chẳng giúp đất nước ta được thống nhất?
Tuy nhiên, giờ đây, điều quan trọng nhất là cô đã được ân xá, Hyun Hee ạ. Từ giờ phút này, cô là người tự do!
Như ánh sáng ban ngày thay màn đêm tăm tối, buổi sáng hôm sau cũng đến với tôi như thế. Tôi được chuyển sang phòng khác, có cửa sổ và những tia nắng sớm rạng rỡ tràn vào phòng. Tôi mở cánh cửa sổ, cho bầu không khí mùa xuân trong trẻo vào phòng. Trước cửa sổ là một thung lũng sâu, dựng đứng về phía đối diện. Buổi sáng hôm ấy, hoa lá mới màu sắc làm sao!
Xa xa, tôi thấy những người leo núi, gió đưa tiếng trò chuyện của họ vọng đến nơi tôi. Tôi thèm hét lên với họ, nhưng rồi thôi vì không muốn làm Li Ok tỉnh giấc.
Một xấp báo buổi sáng được nhét qua cửa ra vào cho tôi. Tôi xem các trang đầu. KIM HYUN HEE ĐƯỢC ÂN XÁ!, những tựa đề báo được in hoa như thế. Tôi rất mừng vì như thế, tin tôi được ân xá đã được củng cố. Nhưng tôi sợ, không dám đọc các bài báo.
Ngày hôm ấy, chúng tôi tới Công viên Lớn tại Hán Thành, nơi đông nghịt học sinh và các đoàn du khách. Bữa nay, tôi cảm thấy vui vẻ khi được hòa mình vào đoàn người. Tôi không còn cảm thấy lạc lõng ở đây. Tôi đã thuộc về nơi này. Đó là một cảm giác hạnh phúc không thể tả nổi!
Gần chỗ chúng tôi, một nhóm các bé gái đang chơi đùa. Tôi ghen tỵ nhìn các em, rồi quay sang bảo Li Ok:
- Thời xưa, tôi cũng từng chơi những trò như thế này đây…
Có điều, về sau, Kim Chính Nhật đã cấm tiệt những trò chơi ấy, mặc dù chúng vui nhộn hơn rất nhiều so với khi chúng tôi vừa chơi vừa phải hát những bài hành khúc kiểu “Tiến lên! Tiến lên! Đội quân Triều Tiên! Giết sạch lính Mỹ!”
Chúng tôi vào một viện bảo tàng. Đúng như tôi chờ đợi, bảo tàng ở đây khác hẳn ở miền Bắc. Già nửa số tác phẩm được trưng bày đều có đề tài đặc tả thân thể khỏa thân, và điều là điều cấm kỵ ở Bắc Triều Tiên. Tôi nhớ lại một bộ phim được chiếu cho chúng tôi, những điệp viên, để giới thiệu nền văn hóa đồi trụy, bệnh hoạn phương Tây. Các nghệ sĩ đổ màu vẽ lên thân thể không còn mảnh vải của họ rồi nằm lăn ra vải. Khi chiếu những cảnh tượng như thế, người ta chờ đợi ở chúng tôi những nhận xét kiểu: “Quả thực, đây là thứ thế giới chó má!”
Nhưng bảo tàng này thì thật là muôn vẻ và thú vị. Chẳng mấy chốc, Li Ok và những người khác đã mệt mỏi và ra ngồi trên một chiếc ghế, nhưng tôi còn thích thú đi xem phải đến ba tiếng nữa. Tôi muốn xem hết tất cả!
Cuộc sống mới của tôi bắt đầu hình thành, từng bước một. Mặc dù, sự thật là tôi được “tự do”, nhưng tôi vẫn phải ở lại Nam Sơn trong một thời gian. Tình báo Nam Hàn phát hiện ra rằng các điệp viên miền Bắc ở Hán Thành được lệnh phải giết tôi, nghĩ là tôi sẽ gặp nguy hiểm nếu không có ai bảo vệ. Và tôi cũng muốn điều này. Tôi chuyển sang phòng mới, có TV và nhóm Nak Yong, Sengju và Li Ok vẫn ở cùng tôi. Hơn nữa, tôi bắt đầu học Thần học cùng cha Han, trong thời gian diễn ra vụ án ông đã tìm gặp tôi vài lần và dạy tôi một số đoạn “Thánh Kinh”.
- Con ạ, một cuộc sống mới đang mở ra với con - một bữa, ông nói với tôi khi chúng tôi đi dạo bên sườn đồi gần Nam Sơn. Nhóm điệp viên đi sau chúng tôi vài bước để phòng hậu họa. - Tại sao con không tuyên thệ trong Hội Thánh của cha? Chúng ta rất vui mừng được có thêm con.
- Ôi, cha ơi, con không làm được điều đó đâu! – tôi bối rối đáp. – Con không xứng đáng. Cho dù được ân xá, nhưng cả cha và con đều biết rằng con tội lỗi mà…
- Tất cả chúng ta đều có tội, Hyun Hee ạ. Mặt khác, theo cha, con chính là một bằng chứng sống về những phép màu của Đức Chúa trời, nếu con muốn biết sự thật.
- Nhưng, cha ơi… làm sao để tuyên thệ?
- Đơn giản, con chỉ việc tuyên bố trước mọi người, rằng con trở về với Đức Chúa trời, ơn Chúa, người đã chỉ cho con sự tha thứ. Con hãy nói với mọi người rằng con muốn theo Thiên Chúa giáo và con tin vào sự khoan dung của Đức Chúa trời. Rất đơn giản!
Tôi ngẫm nghĩ trong khi đi dạo. Như tôi đã nói, ở miền Bắc, tôn giáo bị khinh thị và giễu cợt. Nhưng đối với tôi, những đoạn “Thánh Kinh” mà cha Han dạy cho tôi đã vô cùng có ý nghĩa. Tôi biết rõ rằng can bản của Thiên Chúa giáo không phải là khoa học, mà là đức tin, nhưng “Thánh Kinh” đã đi vào lòng tôi, cho dù tôi không phải người phương Tây. Bắt đầu, tôi cảm thấy bàn tay Chúa trong tất cả những gì xung quanh tôi, và tôi dễ chịu khi được gọi mình là người Thiên Chúa.
Bên cạnh đó, tôi cảm thấy mình không xứng đáng với tình yêu thương của Đức Chúa và dù thế nào đi nữa, tôi cảm thấy không đủ sức lực để nói trước một cử tọa. Có điều, cha Han đối xử rất tốt với tôi. Không bao giờ ông phán xét, mà luôn cho tôi hy vọng. Hơi sợ sệt, nhưng tôi nhận với cha rằng sẽ tuyên thệ.
Cha Han mừng lắm và chúng tôi chọn ngày 16 tháng Năm. Đến hôm ấy, Li Ok ra ngoài và mua cho tôi một bộ vét nữ hợp thời trang, nhưng thoạt đầu tôi không dám mặc vì chiếc váy hơi ngắn. Nhiều lần tôi đã được nghe mọi người bảo rằng tôi đẹp, nhưng không bao giờ tôi tin. Tôi không tin mấy vào tính dục của tôi, vì tôi đã phải bóp nghẹt nó trong đa phần khoảng đời đã sống. Sự hấp dẫn thể xác, với tôi, là hoàn toàn bí ẩn.
Càng ngày càng có nhiều người bảo rằng tôi sẽ được ân xá và tôi, từ trầm cảm ê chề, chuyển sang trạng thái chờ đợi bồn chồn. Mặc dù tôi lưỡng lự, đôi lúc các điệp viên vẫn bảo nếu muốn tôi có thể ra thành phố đi dạo. Và làm sao có thể cưỡng lại được mùa xuân!
Như thế, tôi được tắm trong ánh nắng ấm áp tràn trề, tôi được chiêm ngưỡng phong cảnh diệu kỳ. Nam Hàn – cũng như Bắc Triều Tiên – là một quốc gia đẹp tuyệt vời! Có biết bao thung lũng rậm rạp, rặng núi cao vời và cao nguyên màu mỡ. Tôi hy vọng rằng sẽ còn được ngắm vẻ đẹp của miền Nam một lần nữa…
Khi trở về Nam Sơn, tôi tung giày và xem bản tin lúc bảy giờ.
- Lại thêm một ngày vô tích sự! – tôi bảo Li Ok khi cô còn phải trực hai giờ nữa. Nhưng Li Ok im lặng, cô nhìn chăm chăm vào màn hình TV.
- Chính phủ đã quyết định ân xá cho Kim Hyun Hee, kẻ bị kết án tử hình mới đây vì tội làm nổ chiếc máy bay số 858 của Hàng không Hàn Quốc. Tổng thống tuyên bố rằng không phải Kim Hyun Hee là thủ phạm đích thực, thực chất cô ta cũng là một nạn nhân vô can của một xã hội mà ở đó nhân quyền không được coi trọng, nơi sự khủng bố bao trùm. Theo tổng thống, Kim Nhật Thành mới là kẻ…
Nhưng tôi không còn nghe thêm được gì nữa. Li Ok bật dậy và gào lên:
- CÔ ĐƯỢC ÂN XÁ RỒI!
Cô nhào đến ôm chầm lấy tôi, siết chặt tôi trong vòng tay. Chẳng mấy chốc, tin này lan nhanh khắp Nam Sơn và tất cả mọi người đều đến chúc mừng tôi. Tôi thấy ai nấy đều thành thực mừng cho tôi, và Nak Yong cũng vậy.
Cảm động quá, tôi không thể nói được gì và trong khi mọi người bàn tán về quyết định của tổng thống, tôi lao vào giường và òa lên khóc nức nở. Tôi không làm sao nói lên được những tình cảm trào dâng trong lòng: sự biết ơn chính phủ đã ân xá cho tôi, nỗi phiền muộn khi nghĩ đến gia đình và niềm hy vọng cho tương lai phía trước. Tôi cảm thấy sự cô đơn của tôi ít nhất cũng lớn như niềm vui, nhưng khi đó và tại nơi ấy, tôi đã nói lời tri ân Đức Chúa trời.
“Lạy Chúa tôi, con cám ơn Người đã cho con, một kẻ tội đồ, được một khả năng sống. Cầu xin Người hãy mang tin này cho gia đình con và hãy phù hộ cho họ nữa”
Nak Yong mỉm cười tiến đến chúc mừng tôi. Ông hơi ngạc nhiên khi thấy tôi khóc, nhưng hẳn là ông cũng cảm nhận được những tình cảm phức tạp trong lòng tôi, nên ông không gạn hỏi gì.
- Hyun Hee, hôm nay là một ngày hạnh phúc. Đã đến lúc cô phải dự kiến cho cuộc sống mới của cô tại đây, đất Hán Thành. Ngày mai tôi sẽ trở lại và ta sẽ cùng bàn.
Tôi gật đầu. Mắt đẫm lệ, tôi hầu như không thấy gương mặt ông.
- Cám ơn ông nhiều lắm. Tôi đã tưởng ông quay lưng lại với tôi rồi.
Nak Yong sửng sốt, ông không tìm được từ ngữ thích hợp.
- Đây là khoảng thời gian nặng nề đối với tất cả chúng ta, Hyun Hee ạ. Lâu rồi chúng tôi không có vụ nào tương tự. Tôi phải thú thực rằng, tôi đã phải đấu tranh giữa lương tâm và những tình cảm của tôi. Nhưng cô cũng biết đấy, đây chưa bao giờ là một vụ đen - trắng rõ ràng. Và một phần những lý do của tổng thống cũng có thể mang tính chính trị, chứ không chỉ là về mặt đạo đức. Cô là một ví dụ tuyệt vời cho cái gọi là tấn thảm kịch Bắc Triều Tiên, và tất cả mọi người đều sẽ hiểu điều này.
Đồng thời, tôi không hề tin rằng tử hình cô là điều có nhiều ý nghĩa. Bản án không khiến những nạn nhân được sống lại, và không giáng một đòn vào những kẻ thâm độc thực sự, Kim Nhật Thành và Kim Chính Nhật. Trong xã hội ấy, Hyun Hee ạ, cô không có chút cơ hội nào, và nếu chúng tôi tử hình cô thì quả là một mạng người đã bị tiêu vong một cách vô nghĩa. Không giải quyết được gì, và tôi biết là cô đã thực sự hối hận về điều cô làm. Bên cạnh đó, tôi không tin rằng giờ đây, cô còn có chút nguy hiểm gì đối với xã hội chúng tôi. – Ông cười. – Cho dù được huấn luyện kỹ càng thế nào đi nữa, theo tôi, cô không hề có chút đường gân thớ thịt nào của một tên sát thủ. Tôi tin rằng nếu bị đặt vào địa vị của cô, bất cứ ai trong số chúng tôi cũng đã phải làm như thế.
- Đúng vậy, tôi cũng nghĩ thế - Li Ok nói, khi đó cô cũng đến gần tôi và nắm chặt tay tôi. – Cô biết không, tôi cho rằng người ngoài cuộc không thể hiểu nổi quyết định này. Con người ta phải trải qua nỗi đau chia cắt của Triều Tiên để có thể hiểu được. Những kẻ sống ở nơi khác, làm sao cảm nhận được cảm giác khi Tổ quốc chúng ta bị phân đôi và ở một miền, một kẻ độc tài tàn bạo trị vì. Nhiều người trong số chúng tôi có thân nhân ở miền Bắc và chúng tôi chưa bao giờ được gặp. Chưa bao giờ được biết về họ. Phải chăng, cái nhiệm vụ kinh tởm này, biết đâu, lại chẳng giúp đất nước ta được thống nhất?
Tuy nhiên, giờ đây, điều quan trọng nhất là cô đã được ân xá, Hyun Hee ạ. Từ giờ phút này, cô là người tự do!
Như ánh sáng ban ngày thay màn đêm tăm tối, buổi sáng hôm sau cũng đến với tôi như thế. Tôi được chuyển sang phòng khác, có cửa sổ và những tia nắng sớm rạng rỡ tràn vào phòng. Tôi mở cánh cửa sổ, cho bầu không khí mùa xuân trong trẻo vào phòng. Trước cửa sổ là một thung lũng sâu, dựng đứng về phía đối diện. Buổi sáng hôm ấy, hoa lá mới màu sắc làm sao!
Xa xa, tôi thấy những người leo núi, gió đưa tiếng trò chuyện của họ vọng đến nơi tôi. Tôi thèm hét lên với họ, nhưng rồi thôi vì không muốn làm Li Ok tỉnh giấc.
Một xấp báo buổi sáng được nhét qua cửa ra vào cho tôi. Tôi xem các trang đầu. KIM HYUN HEE ĐƯỢC ÂN XÁ!, những tựa đề báo được in hoa như thế. Tôi rất mừng vì như thế, tin tôi được ân xá đã được củng cố. Nhưng tôi sợ, không dám đọc các bài báo.
Ngày hôm ấy, chúng tôi tới Công viên Lớn tại Hán Thành, nơi đông nghịt học sinh và các đoàn du khách. Bữa nay, tôi cảm thấy vui vẻ khi được hòa mình vào đoàn người. Tôi không còn cảm thấy lạc lõng ở đây. Tôi đã thuộc về nơi này. Đó là một cảm giác hạnh phúc không thể tả nổi!
Gần chỗ chúng tôi, một nhóm các bé gái đang chơi đùa. Tôi ghen tỵ nhìn các em, rồi quay sang bảo Li Ok:
- Thời xưa, tôi cũng từng chơi những trò như thế này đây…
Có điều, về sau, Kim Chính Nhật đã cấm tiệt những trò chơi ấy, mặc dù chúng vui nhộn hơn rất nhiều so với khi chúng tôi vừa chơi vừa phải hát những bài hành khúc kiểu “Tiến lên! Tiến lên! Đội quân Triều Tiên! Giết sạch lính Mỹ!”
Chúng tôi vào một viện bảo tàng. Đúng như tôi chờ đợi, bảo tàng ở đây khác hẳn ở miền Bắc. Già nửa số tác phẩm được trưng bày đều có đề tài đặc tả thân thể khỏa thân, và điều là điều cấm kỵ ở Bắc Triều Tiên. Tôi nhớ lại một bộ phim được chiếu cho chúng tôi, những điệp viên, để giới thiệu nền văn hóa đồi trụy, bệnh hoạn phương Tây. Các nghệ sĩ đổ màu vẽ lên thân thể không còn mảnh vải của họ rồi nằm lăn ra vải. Khi chiếu những cảnh tượng như thế, người ta chờ đợi ở chúng tôi những nhận xét kiểu: “Quả thực, đây là thứ thế giới chó má!”
Nhưng bảo tàng này thì thật là muôn vẻ và thú vị. Chẳng mấy chốc, Li Ok và những người khác đã mệt mỏi và ra ngồi trên một chiếc ghế, nhưng tôi còn thích thú đi xem phải đến ba tiếng nữa. Tôi muốn xem hết tất cả!
Cuộc sống mới của tôi bắt đầu hình thành, từng bước một. Mặc dù, sự thật là tôi được “tự do”, nhưng tôi vẫn phải ở lại Nam Sơn trong một thời gian. Tình báo Nam Hàn phát hiện ra rằng các điệp viên miền Bắc ở Hán Thành được lệnh phải giết tôi, nghĩ là tôi sẽ gặp nguy hiểm nếu không có ai bảo vệ. Và tôi cũng muốn điều này. Tôi chuyển sang phòng mới, có TV và nhóm Nak Yong, Sengju và Li Ok vẫn ở cùng tôi. Hơn nữa, tôi bắt đầu học Thần học cùng cha Han, trong thời gian diễn ra vụ án ông đã tìm gặp tôi vài lần và dạy tôi một số đoạn “Thánh Kinh”.
- Con ạ, một cuộc sống mới đang mở ra với con - một bữa, ông nói với tôi khi chúng tôi đi dạo bên sườn đồi gần Nam Sơn. Nhóm điệp viên đi sau chúng tôi vài bước để phòng hậu họa. - Tại sao con không tuyên thệ trong Hội Thánh của cha? Chúng ta rất vui mừng được có thêm con.
- Ôi, cha ơi, con không làm được điều đó đâu! – tôi bối rối đáp. – Con không xứng đáng. Cho dù được ân xá, nhưng cả cha và con đều biết rằng con tội lỗi mà…
- Tất cả chúng ta đều có tội, Hyun Hee ạ. Mặt khác, theo cha, con chính là một bằng chứng sống về những phép màu của Đức Chúa trời, nếu con muốn biết sự thật.
- Nhưng, cha ơi… làm sao để tuyên thệ?
- Đơn giản, con chỉ việc tuyên bố trước mọi người, rằng con trở về với Đức Chúa trời, ơn Chúa, người đã chỉ cho con sự tha thứ. Con hãy nói với mọi người rằng con muốn theo Thiên Chúa giáo và con tin vào sự khoan dung của Đức Chúa trời. Rất đơn giản!
Tôi ngẫm nghĩ trong khi đi dạo. Như tôi đã nói, ở miền Bắc, tôn giáo bị khinh thị và giễu cợt. Nhưng đối với tôi, những đoạn “Thánh Kinh” mà cha Han dạy cho tôi đã vô cùng có ý nghĩa. Tôi biết rõ rằng can bản của Thiên Chúa giáo không phải là khoa học, mà là đức tin, nhưng “Thánh Kinh” đã đi vào lòng tôi, cho dù tôi không phải người phương Tây. Bắt đầu, tôi cảm thấy bàn tay Chúa trong tất cả những gì xung quanh tôi, và tôi dễ chịu khi được gọi mình là người Thiên Chúa.
Bên cạnh đó, tôi cảm thấy mình không xứng đáng với tình yêu thương của Đức Chúa và dù thế nào đi nữa, tôi cảm thấy không đủ sức lực để nói trước một cử tọa. Có điều, cha Han đối xử rất tốt với tôi. Không bao giờ ông phán xét, mà luôn cho tôi hy vọng. Hơi sợ sệt, nhưng tôi nhận với cha rằng sẽ tuyên thệ.
Cha Han mừng lắm và chúng tôi chọn ngày 16 tháng Năm. Đến hôm ấy, Li Ok ra ngoài và mua cho tôi một bộ vét nữ hợp thời trang, nhưng thoạt đầu tôi không dám mặc vì chiếc váy hơi ngắn. Nhiều lần tôi đã được nghe mọi người bảo rằng tôi đẹp, nhưng không bao giờ tôi tin. Tôi không tin mấy vào tính dục của tôi, vì tôi đã phải bóp nghẹt nó trong đa phần khoảng đời đã sống. Sự hấp dẫn thể xác, với tôi, là hoàn toàn bí ẩn.
Nhưng Li Ok khích lệ tôi cứ mặc bộ vét đó đi.
Khi thay xong, Nak Yong bước vào và ông kinh ngạc nhìn tôi.
- Cô làm tôi hoa mày chóng mặt đấy! – Nak Yong nói đùa. Tôi mỉm cười. Nak Yong năm mươi tuổi, điển trai và hiện độc thân. Ngoài ra tôi không biết gì mấy về ông. Lời khen của ông khiến tôi dễ chịu, nhưng cũng làm tôi bối rối và không biết phải trả lời ra sao.
Chúng tôi tới nhà thờ. Đường đông nghịt, chỉ thiếu chút nữa là chúng tôi đến chậm. Cha Han bảo tôi chờ ở ngoài, trong một căn phòng, để ông giới thiệu tôi trước với mọi người đã, và ông còn cỗ vũ tôi một chút trước khi tôi bước vào nhà thờ.
Rồi tôi cũng được giới thiệu và được chào đón bằng những tràng vỗ tay nồng nhiệt, khiến tôi ngạc nhiên thực sự. Nhiều ký giả cũng có mặt tại nhà thờ, nhưng tôi không cảm thấy khó xử. Đứng trước bục, cổ họng khô rang, tôi hắng giọng và mãi mới cất được lời.
- Xin chào quý vị.
Câu nói của tôi vang vọng trong nhà thờ và đột nhiên, tôi cảm thấy như mình được nhân lên gấp bội.
- Đức Chúa trời đã cho tôi thấy những công việc trọng đại và những phép màu của Người – tôi mở đầu và sau đó, đọc bài phát biểu đã viết sẵn cho dịp này. Khi tôi kết thúc, cử tọa cùng đồng thanh nói “Amen”, và nhiều thành viên Hội Thánh đã bật khóc. Tôi bị lôi cuốn khi chứng kiến sự tha thứ như thế và trong lòng tôi, rộn lên một sự biết ơn: Đức Chúa trời đã cho tôi đến được Hội Thánh của Người và trở thành chỗ dựa cho tôi trong cuộc đời mới.
Sự kiện khiến tôi kinh ngạc nhất – và cũng vui mừng nhất đối với tôi - kể từ ngày tôi bị bắt, đã diễn ra chỉ sau đó vài bữa. Một tối nọ, Nak Yong nhào vào phòng tôi khi tôi đang mê mải ngắm cảnh hoàng hôn trong ánh trời tím ngắt và thích thú với làn gió đang mơn man khuôn mặt tôi. Mặt trời đang xuống bao phủ sườn đồi đầy hoa phía đối diện trong vầng sáng ấm áp của nó và tôi cảm thấy vui mừng vì được sống.
- Cô xem tấm ảnh này nhé – ông ấn vào tay tôi một bức ảnh. – Có nhận ra ai ở đó không?
Tôi xem kỹ tấm ảnh đen trắng và sửng sốt.
- Trời ơi! Ông kiếm được nó ở đâu vậy?
- Nghĩ là cô có nhận ra? – Nak Yong mừng rỡ.
- Tất nhiên rồi! - tôi nói. Đó là tấm ảnh lớp mẹ tôi, chụp khi bà còn học phổ thông; tôi đã được thấy nó nhiều lần khi ở nhà. Ngay lập tức, ánh mắt tôi tìm mẹ và tôi hình dung như chúng tôi lại sum họp cùng nhau. Mắt tôi ứa lệ. Tôi nhớ mẹ biết chừng nào! – Ông kiếm tấm ảnh này ở đâu? – tôi hỏi lại Nak Yong, lòng rưng rưng.
- Đây, đây – Nak Yong cười. - Một câu chuyện thú vị đấy. Có lẽ cô có họ hàng ở Hán Thành đấy, Kim tiểu thư ạ!
Ngày 21 tháng 7 năm 1989.
Chúng tôi đến dự một cuộc hội họp tại Nhà Hội đồng Năm tỉnh phía Bắc. Sẽ có nhiều nhà báo tham dự, nhưng tôi không quan tâm. Người ta tìm thấy một người đàn ông tên là Im Qanho, dường như là em họ của ông ngoại tôi.
Khi tới nơi, tim tôi đập loạn xạ. Vào phòng, tôi không hề để tâm đến nhóm phóng viên đang ở đó, và cũng không buồn đáp những câu họ hỏi. Tôi chỉ chủ tâm tìm kiếm ông.
Và khi ấy, tôi đã thấy ông. Trong một khoảnh khắc, tôi tưởng tôi thấy bác Qan Shik, em trai của ông tôi. Ông cũng nhận ra tôi, vẫy tôi, nhưng dễ thấy là chúng tôi còn chưa được tự do trò chuyện với nhau, nhiều cảnh sát cũng có mặt trong phòng và họ muốn chắc chắn rằng Im Qan Ho quả thực là thân nhân của tôi. Một vài câu hỏi về tung tích gia đình chúng tôi được đặt ra, nhưng tôi chả cần một bằng cứ nào khác nữa, Qan Ho giống hệt bác Qan Shik của tôi!
Khi đã xong các thủ tục hình thức, tôi chạy đến và ôm chặt ông.
- Ông, sao ông lại tìm cháu? – tôi khóc nức nở. - Ông biết là lẽ ra, ông không cần phải thế mà. Ông sẽ bị dư luận xì xào, sao ông lại làm thế?
Ông đang rơi nước mắt, nhưng rồi bật cười khi nghe tôi hỏi.
- Làm sao ông làm khác được?
Chúng tôi được đưa sang phòng khác để khỏi bị nhóm ký giả quấy rầy. Qan Ho giới thiệu người chị gái và các con ông, lúc đó đang đứng đấy chờ. Sau khi chào hỏi, chúng tôi ngồi xuống ghế và Qan Ho bắt đầu câu chuyện.
- Hyun Hee, ông ngoại cháu là một nhà văn có tiếng, đồng thời cũng là một trong những người khá giả nhất vùng Kaesong. Nhà của ông có tới bảy mươi phòng. Cháu cũng biết đấy, sau chiến tranh, Kaesong bị miền Bắc chiếm và cố nhiên, người ta tước hết tài sản của ông ngoại cháu. Nhưng có mấy người trong gia đình chạy được xuống miền Nam.
Mẹ cháu, vốn là một vũ nữ tuyệt vời, theo học Trường Trung học Houston, là một trường nữ thục Thiên Chúa giáo. Tấm ảnh mà cháu được thấy là do cô Kim Bong Suk, một bạn học cũ của mẹ cháu, còn giữ được.
Tôi rất ngạc nhiên khi nghe chuyện. Cố nhiên tôi hiểu ngay rằng tại sao mẹ tôi lại giấu kín những điều này. Tất cả những gì ông tôi kể, đều là tội lỗi trong mắt chính quyền miền Bắc: Đạo Thiên Chúa, của nả, trốn xuống miền Nam… Nhưng tôi cảm động vì mẹ tôi cũng từng theo Thiên Chúa giáo. Tôi nhớ, hồi còn nhỏ xíu, tôi bị một căn bệnh truyền nhiễm có thể gây liệt ở trẻ em, nhưng rồi kỳ diệu thay, tôi khỏi bệnh. Trong nhiều ngày liền, mẹ tôi đã cầu nguyện:
- Đức Chúa trời đã giúp con. Đức Chúa trời đã rủ lòng thương chúng ta!
Chỉ đến giờ tôi mới hiểu bà muốn nói điều gì!
Chúng tôi trò chuyện nhiều giờ liền về cuộc sống của nhau. Ông tôi mừng rỡ khi được tin về cha mẹ tôi và chị em tôi, còn tôi thì hạnh phúc vì tìm được thân nhân tại xứ sở tôi lựa chọn (và cưu mang tôi). Cố nhiên, những bóng mây u ám vẫn bao quanh cuộc hạnh ngộ vì gia đình tôi còn sống ở miền Bắc, trong ách nô dịch của một thể chế độc tài.
Hôm ấy, tôi quyết định sẽ tận dụng sự tự do mà tôi vừa được hưởng cho mục đích cao cả nhất. Ở mọi nơi và vào mọi thời điểm có thể, tôi sẽ lên tiếng vạch trần Kim Nhật Thành và Kim Chính Nhật. Tôi sẽ làm tất cả những gì có thể cho sự nghiệp thống nhất Triều Tiên – nhưng từ một phía khác. Tôi sẽ đi nói chuyện, trả lời phỏng vấn, sẽ vạch trần Bắc Triều Tiên và những ông chủ của nó. Tôi đã đi nhiều nước: Nga, Hungary, Ý, Trung Quốc và những nơi khác. Và không ở đâu, tôi thấy người dân cùng khổ như tại Bắc Triều Tiên.
Kim Nhật Thành và gia đình ông ta đã dùng bạo lực để chế ngự người dân miền Bắc, tước đoạt của họ nền văn hóa dân tộc, cũng như cơ hội được sống tự do và hạnh phúc. Họ đã chia cắt dân tộc và gây ra những tổn thất không gì bù đắp nổi cho nhân dân. Đây quả thực là một tấn thảm kịch ở mức độ khủng khiếp!
Như vậy, trong ngày hôm ấy, tại Hán Thành, tôi đã được ngồi bên những người thân bằng xương bằng thịt. Chúng tôi trào nước mắt vì sung sướng và sầu muộn. Bởi lẽ, gặp được nhau, nhưng đại gia đình vẫn chưa toàn vẹn. Chúng tôi không thể ngồi yên, một khi vẫn còn vực thẳm ngăn đôi Bắc và Nam. Chỉ có thể gắng sức và hy vọng, rằng sẽ có một ngày, gia đình chúng tôi – cũng như mọi gia đình Triều Tiên - rốt cục sẽ đoàn tụ bên nhau.
LỜI BẠT
BA MẸ YÊU QUÝ CỦA CON!
Lá thư này con Hyun Hee viết cho ba mẹ đây ạ. Vâng, con vẫn sống và khỏe mạnh, cho dù khó tin bao nhiêu đi nữa, chắc hẳn ba mẹ đã nhận ra chữ của con. Con hình dung được rằng ba mẹ sẽ ngạc nhiên đến mức nào nếu (và khi) ba mẹ đọc lá thư này.
Đã ba năm trôi qua kể từ ngày con được thấy ba mẹ lần cuối. Từ dạo ấy, ngày nào con cũng khóc khi nghĩ đến ba mẹ.
Nhiều lần con tỉnh giấc và đầm đìa nước mắt vì trong giấc mơ, con được sum họp cùng ba mẹ, và rồi con lại phải đối mặt với hiện thực, rằng con vẫn phải xa ba mẹ.
Ba mẹ yêu thương! Con biết rằng là con gái đầu lòng của ba mẹ, con đã không phải là đứa con ngoan. Con đã phạm nhiều sai lầm. Sau khi chia tay với ba mẹ và con sang Quảng Châu, Trung Quốc, con đã được nhận một nhiệm vụ được coi là vô cùng quan trọng đối với đất nước ta. Vì thế, không bao giờ con được về thăm ba mẹ. Ngay cả rời sân trại huấn luyện con cũng không được phép.
Sau khi đưọc Đảng lựa chọn, trong nhiều năm con được dạy dỗ để trở thành một điệp viên mật của cơ quan do thám. Trong vai trò ấy, con đã khi cả nửa vòng địa cầu. Và sau lần ở Quảng Châu, con được nhận nhiệm vụ làm nổ một chiếc máy bay Nam Hàn. Mục đích của chiến dịch này là để Hán Thành không được tổ chức Thế vận hội 1988 và đất nước được thống nhất. Như ba mẹ cũng biết, chúng ta đã không đạt được một mục tiêu nào trong số hai mục tiêu trên.
Cái nhiệm vụ mà người ta làm con tin rằng vô cùng quan trọng đối với đất nước chúng ta, rốt cục, đã khiến con xiết bao hổ thẹn và để lại cảm giác tội lỗi trong con chừng nào con còn sống. Bởi lẽ, một phần của nhiệm vụ ấy đã thành công: máy bay bị nổ và 115 hành khách thiệt mạng.
Vài ngày sau, con bị các điệp viên Nam Hàn bắt giữ và đưa về Hán Thành. Ở đây, con đã khai hết và bị ra tòa, rồi bị tuyên án tử hình.
Thật như một phép màu, nhưng mới đây con được biết rằng, con đã được ân xá. Và bây giờ, như người ta nói, con là “người tự do”.
Làm sao con giải thích được điều này cho ba mẹ? Làm sao con giải thích được rằng tất cả những gì con từng được học tại miền Bắc đều là dối trá? Nam Hàn là một xứ sở tuyệt vời và nền kinh tế của đất nước này có thể chạy đua với Hoa Kỳ, Nhật và Châu Âu bất cứ lúc nào? Và, cho dù có cố gắng thế nào đi nữa, con cũng không thể phác thảo nổi về tầm phát triển ở đây. Ở miền Nam, bất cứ hộ gia đình bình thường nhất cũng có tivi màu, video, điện thoại, tủ lạnh và nhiều gia đình thì có xe hơi.
Rất khó tìm được gia đình nào tại đây mà việc đảm bảo ba bữa ăn hàng ngày lại gặp khó khăn, như điều thường thấy ở miền Bắc!
Tại đây, người dân sống tự do đến nỗi thoạt đầu, con không sao hiểu nổi làm sao có thể lãnh đạo được một đất nước mà tại đó, lại có ngần ấy ý kiến và hệ tư tưởng đồng thời tồn tại bên cạnh nhau. Vậy mà đất nước ấy lại vẫn hoạt động!
Con nghe các du khách Nga bảo rằng Nam Hàn là thiên đường hạ giới. Và tại đây, mọi người đều mong ước thống nhất đất nước và dân tộc. Bản thân con mong mỏi điều ấy đến nỗi đã để mình bị dắt mũi, đã thực hiện một hành động sát nhân và kinh tởm và giờ đây, đến cuối đời, tay con đã dính máu của 115 con người vô tội.
Tại mảnh đất này, người dân rất cảm thông với con, họ bảo: “Đây không chỉ là tội của cô. Kim Nhật Thành và Kim Chính Nhật, những kẻ đã đưa ra chỉ thị, mới phải chịu trách nhiệm”. Vâng, con không thể trả lại những người đã qua đời cho thân nhân của họ, nhưng cách đối xử thân tình của người dân ở đây giúp con hiểu rằng, cho dù con đã nói và dã làm nhiều việc khủng khiếp, nhưng con không phải loại ác quỷ nhẫn tâm.
Con vừa được đọc về một người tên là Kim Manchol, đã cùng gia đình trốn từ miền Bắc bằng thuyền ỏ vĩ tuyến 38. Con ghen tị với họ và con muốn, ba mẹ cũng sẽ ở đây cùng con.
Mẹ ạ, con có một bất ngờ dành cho mẹ. Con đã gặp họ hàng đằng ngoại mình.
Mới đây, con được gặp ông Qan Ho và làm quen với Hwang In Suk, Hwang Mun Suk, Hwang Yun Suk và Kim Bong Suk. Con được quý mến như thành viên trong gia đình và từ hôm ấy, con thường qua thăm họ. Như thế, con đỡ cảm thấy cô đơn hơn, và gia đình ông cũng rất mong được gặp ba mẹ.
Giờ đây, hai nước Đức đã thống nhất, con rất hy vọng rằng thời của dân tộc mình cũng không còn xa xôi. Và nếu ngày ấy đến, con sẽ hạnh phúc chừng nào khi được gặp lại ba mẹ, khi cả gia đình lại đoàn tụ. Bên trên những áng mây tăm tối luôn là những vì sao lấp lánh, và những hạt giống sống động trong lòng đất đóng băng cũng luôn chờ dịp để đâm chồi. Chúng ta không được đánh mất niềm hy vọng.
Có cả ngàn điều muốn kể với ba mẹ, nhưng con phải dừng bút ở đây. Nhớ ba mẹ vô cùng!
Gửi ba mẹ bao tình thương từ Hán Thành,
Con gái đầu lòng của ba mẹ,
Kim Hyun Hee.
Tháng Năm năm 1991
HẾT
- Cô làm tôi hoa mày chóng mặt đấy! – Nak Yong nói đùa. Tôi mỉm cười. Nak Yong năm mươi tuổi, điển trai và hiện độc thân. Ngoài ra tôi không biết gì mấy về ông. Lời khen của ông khiến tôi dễ chịu, nhưng cũng làm tôi bối rối và không biết phải trả lời ra sao.
Chúng tôi tới nhà thờ. Đường đông nghịt, chỉ thiếu chút nữa là chúng tôi đến chậm. Cha Han bảo tôi chờ ở ngoài, trong một căn phòng, để ông giới thiệu tôi trước với mọi người đã, và ông còn cỗ vũ tôi một chút trước khi tôi bước vào nhà thờ.
Rồi tôi cũng được giới thiệu và được chào đón bằng những tràng vỗ tay nồng nhiệt, khiến tôi ngạc nhiên thực sự. Nhiều ký giả cũng có mặt tại nhà thờ, nhưng tôi không cảm thấy khó xử. Đứng trước bục, cổ họng khô rang, tôi hắng giọng và mãi mới cất được lời.
- Xin chào quý vị.
Câu nói của tôi vang vọng trong nhà thờ và đột nhiên, tôi cảm thấy như mình được nhân lên gấp bội.
- Đức Chúa trời đã cho tôi thấy những công việc trọng đại và những phép màu của Người – tôi mở đầu và sau đó, đọc bài phát biểu đã viết sẵn cho dịp này. Khi tôi kết thúc, cử tọa cùng đồng thanh nói “Amen”, và nhiều thành viên Hội Thánh đã bật khóc. Tôi bị lôi cuốn khi chứng kiến sự tha thứ như thế và trong lòng tôi, rộn lên một sự biết ơn: Đức Chúa trời đã cho tôi đến được Hội Thánh của Người và trở thành chỗ dựa cho tôi trong cuộc đời mới.
Sự kiện khiến tôi kinh ngạc nhất – và cũng vui mừng nhất đối với tôi - kể từ ngày tôi bị bắt, đã diễn ra chỉ sau đó vài bữa. Một tối nọ, Nak Yong nhào vào phòng tôi khi tôi đang mê mải ngắm cảnh hoàng hôn trong ánh trời tím ngắt và thích thú với làn gió đang mơn man khuôn mặt tôi. Mặt trời đang xuống bao phủ sườn đồi đầy hoa phía đối diện trong vầng sáng ấm áp của nó và tôi cảm thấy vui mừng vì được sống.
- Cô xem tấm ảnh này nhé – ông ấn vào tay tôi một bức ảnh. – Có nhận ra ai ở đó không?
Tôi xem kỹ tấm ảnh đen trắng và sửng sốt.
- Trời ơi! Ông kiếm được nó ở đâu vậy?
- Nghĩ là cô có nhận ra? – Nak Yong mừng rỡ.
- Tất nhiên rồi! - tôi nói. Đó là tấm ảnh lớp mẹ tôi, chụp khi bà còn học phổ thông; tôi đã được thấy nó nhiều lần khi ở nhà. Ngay lập tức, ánh mắt tôi tìm mẹ và tôi hình dung như chúng tôi lại sum họp cùng nhau. Mắt tôi ứa lệ. Tôi nhớ mẹ biết chừng nào! – Ông kiếm tấm ảnh này ở đâu? – tôi hỏi lại Nak Yong, lòng rưng rưng.
- Đây, đây – Nak Yong cười. - Một câu chuyện thú vị đấy. Có lẽ cô có họ hàng ở Hán Thành đấy, Kim tiểu thư ạ!
Ngày 21 tháng 7 năm 1989.
Chúng tôi đến dự một cuộc hội họp tại Nhà Hội đồng Năm tỉnh phía Bắc. Sẽ có nhiều nhà báo tham dự, nhưng tôi không quan tâm. Người ta tìm thấy một người đàn ông tên là Im Qanho, dường như là em họ của ông ngoại tôi.
Khi tới nơi, tim tôi đập loạn xạ. Vào phòng, tôi không hề để tâm đến nhóm phóng viên đang ở đó, và cũng không buồn đáp những câu họ hỏi. Tôi chỉ chủ tâm tìm kiếm ông.
Và khi ấy, tôi đã thấy ông. Trong một khoảnh khắc, tôi tưởng tôi thấy bác Qan Shik, em trai của ông tôi. Ông cũng nhận ra tôi, vẫy tôi, nhưng dễ thấy là chúng tôi còn chưa được tự do trò chuyện với nhau, nhiều cảnh sát cũng có mặt trong phòng và họ muốn chắc chắn rằng Im Qan Ho quả thực là thân nhân của tôi. Một vài câu hỏi về tung tích gia đình chúng tôi được đặt ra, nhưng tôi chả cần một bằng cứ nào khác nữa, Qan Ho giống hệt bác Qan Shik của tôi!
Khi đã xong các thủ tục hình thức, tôi chạy đến và ôm chặt ông.
- Ông, sao ông lại tìm cháu? – tôi khóc nức nở. - Ông biết là lẽ ra, ông không cần phải thế mà. Ông sẽ bị dư luận xì xào, sao ông lại làm thế?
Ông đang rơi nước mắt, nhưng rồi bật cười khi nghe tôi hỏi.
- Làm sao ông làm khác được?
Chúng tôi được đưa sang phòng khác để khỏi bị nhóm ký giả quấy rầy. Qan Ho giới thiệu người chị gái và các con ông, lúc đó đang đứng đấy chờ. Sau khi chào hỏi, chúng tôi ngồi xuống ghế và Qan Ho bắt đầu câu chuyện.
- Hyun Hee, ông ngoại cháu là một nhà văn có tiếng, đồng thời cũng là một trong những người khá giả nhất vùng Kaesong. Nhà của ông có tới bảy mươi phòng. Cháu cũng biết đấy, sau chiến tranh, Kaesong bị miền Bắc chiếm và cố nhiên, người ta tước hết tài sản của ông ngoại cháu. Nhưng có mấy người trong gia đình chạy được xuống miền Nam.
Mẹ cháu, vốn là một vũ nữ tuyệt vời, theo học Trường Trung học Houston, là một trường nữ thục Thiên Chúa giáo. Tấm ảnh mà cháu được thấy là do cô Kim Bong Suk, một bạn học cũ của mẹ cháu, còn giữ được.
Tôi rất ngạc nhiên khi nghe chuyện. Cố nhiên tôi hiểu ngay rằng tại sao mẹ tôi lại giấu kín những điều này. Tất cả những gì ông tôi kể, đều là tội lỗi trong mắt chính quyền miền Bắc: Đạo Thiên Chúa, của nả, trốn xuống miền Nam… Nhưng tôi cảm động vì mẹ tôi cũng từng theo Thiên Chúa giáo. Tôi nhớ, hồi còn nhỏ xíu, tôi bị một căn bệnh truyền nhiễm có thể gây liệt ở trẻ em, nhưng rồi kỳ diệu thay, tôi khỏi bệnh. Trong nhiều ngày liền, mẹ tôi đã cầu nguyện:
- Đức Chúa trời đã giúp con. Đức Chúa trời đã rủ lòng thương chúng ta!
Chỉ đến giờ tôi mới hiểu bà muốn nói điều gì!
Chúng tôi trò chuyện nhiều giờ liền về cuộc sống của nhau. Ông tôi mừng rỡ khi được tin về cha mẹ tôi và chị em tôi, còn tôi thì hạnh phúc vì tìm được thân nhân tại xứ sở tôi lựa chọn (và cưu mang tôi). Cố nhiên, những bóng mây u ám vẫn bao quanh cuộc hạnh ngộ vì gia đình tôi còn sống ở miền Bắc, trong ách nô dịch của một thể chế độc tài.
Hôm ấy, tôi quyết định sẽ tận dụng sự tự do mà tôi vừa được hưởng cho mục đích cao cả nhất. Ở mọi nơi và vào mọi thời điểm có thể, tôi sẽ lên tiếng vạch trần Kim Nhật Thành và Kim Chính Nhật. Tôi sẽ làm tất cả những gì có thể cho sự nghiệp thống nhất Triều Tiên – nhưng từ một phía khác. Tôi sẽ đi nói chuyện, trả lời phỏng vấn, sẽ vạch trần Bắc Triều Tiên và những ông chủ của nó. Tôi đã đi nhiều nước: Nga, Hungary, Ý, Trung Quốc và những nơi khác. Và không ở đâu, tôi thấy người dân cùng khổ như tại Bắc Triều Tiên.
Kim Nhật Thành và gia đình ông ta đã dùng bạo lực để chế ngự người dân miền Bắc, tước đoạt của họ nền văn hóa dân tộc, cũng như cơ hội được sống tự do và hạnh phúc. Họ đã chia cắt dân tộc và gây ra những tổn thất không gì bù đắp nổi cho nhân dân. Đây quả thực là một tấn thảm kịch ở mức độ khủng khiếp!
Như vậy, trong ngày hôm ấy, tại Hán Thành, tôi đã được ngồi bên những người thân bằng xương bằng thịt. Chúng tôi trào nước mắt vì sung sướng và sầu muộn. Bởi lẽ, gặp được nhau, nhưng đại gia đình vẫn chưa toàn vẹn. Chúng tôi không thể ngồi yên, một khi vẫn còn vực thẳm ngăn đôi Bắc và Nam. Chỉ có thể gắng sức và hy vọng, rằng sẽ có một ngày, gia đình chúng tôi – cũng như mọi gia đình Triều Tiên - rốt cục sẽ đoàn tụ bên nhau.
LỜI BẠT
BA MẸ YÊU QUÝ CỦA CON!
Lá thư này con Hyun Hee viết cho ba mẹ đây ạ. Vâng, con vẫn sống và khỏe mạnh, cho dù khó tin bao nhiêu đi nữa, chắc hẳn ba mẹ đã nhận ra chữ của con. Con hình dung được rằng ba mẹ sẽ ngạc nhiên đến mức nào nếu (và khi) ba mẹ đọc lá thư này.
Đã ba năm trôi qua kể từ ngày con được thấy ba mẹ lần cuối. Từ dạo ấy, ngày nào con cũng khóc khi nghĩ đến ba mẹ.
Nhiều lần con tỉnh giấc và đầm đìa nước mắt vì trong giấc mơ, con được sum họp cùng ba mẹ, và rồi con lại phải đối mặt với hiện thực, rằng con vẫn phải xa ba mẹ.
Ba mẹ yêu thương! Con biết rằng là con gái đầu lòng của ba mẹ, con đã không phải là đứa con ngoan. Con đã phạm nhiều sai lầm. Sau khi chia tay với ba mẹ và con sang Quảng Châu, Trung Quốc, con đã được nhận một nhiệm vụ được coi là vô cùng quan trọng đối với đất nước ta. Vì thế, không bao giờ con được về thăm ba mẹ. Ngay cả rời sân trại huấn luyện con cũng không được phép.
Sau khi đưọc Đảng lựa chọn, trong nhiều năm con được dạy dỗ để trở thành một điệp viên mật của cơ quan do thám. Trong vai trò ấy, con đã khi cả nửa vòng địa cầu. Và sau lần ở Quảng Châu, con được nhận nhiệm vụ làm nổ một chiếc máy bay Nam Hàn. Mục đích của chiến dịch này là để Hán Thành không được tổ chức Thế vận hội 1988 và đất nước được thống nhất. Như ba mẹ cũng biết, chúng ta đã không đạt được một mục tiêu nào trong số hai mục tiêu trên.
Cái nhiệm vụ mà người ta làm con tin rằng vô cùng quan trọng đối với đất nước chúng ta, rốt cục, đã khiến con xiết bao hổ thẹn và để lại cảm giác tội lỗi trong con chừng nào con còn sống. Bởi lẽ, một phần của nhiệm vụ ấy đã thành công: máy bay bị nổ và 115 hành khách thiệt mạng.
Vài ngày sau, con bị các điệp viên Nam Hàn bắt giữ và đưa về Hán Thành. Ở đây, con đã khai hết và bị ra tòa, rồi bị tuyên án tử hình.
Thật như một phép màu, nhưng mới đây con được biết rằng, con đã được ân xá. Và bây giờ, như người ta nói, con là “người tự do”.
Làm sao con giải thích được điều này cho ba mẹ? Làm sao con giải thích được rằng tất cả những gì con từng được học tại miền Bắc đều là dối trá? Nam Hàn là một xứ sở tuyệt vời và nền kinh tế của đất nước này có thể chạy đua với Hoa Kỳ, Nhật và Châu Âu bất cứ lúc nào? Và, cho dù có cố gắng thế nào đi nữa, con cũng không thể phác thảo nổi về tầm phát triển ở đây. Ở miền Nam, bất cứ hộ gia đình bình thường nhất cũng có tivi màu, video, điện thoại, tủ lạnh và nhiều gia đình thì có xe hơi.
Rất khó tìm được gia đình nào tại đây mà việc đảm bảo ba bữa ăn hàng ngày lại gặp khó khăn, như điều thường thấy ở miền Bắc!
Tại đây, người dân sống tự do đến nỗi thoạt đầu, con không sao hiểu nổi làm sao có thể lãnh đạo được một đất nước mà tại đó, lại có ngần ấy ý kiến và hệ tư tưởng đồng thời tồn tại bên cạnh nhau. Vậy mà đất nước ấy lại vẫn hoạt động!
Con nghe các du khách Nga bảo rằng Nam Hàn là thiên đường hạ giới. Và tại đây, mọi người đều mong ước thống nhất đất nước và dân tộc. Bản thân con mong mỏi điều ấy đến nỗi đã để mình bị dắt mũi, đã thực hiện một hành động sát nhân và kinh tởm và giờ đây, đến cuối đời, tay con đã dính máu của 115 con người vô tội.
Tại mảnh đất này, người dân rất cảm thông với con, họ bảo: “Đây không chỉ là tội của cô. Kim Nhật Thành và Kim Chính Nhật, những kẻ đã đưa ra chỉ thị, mới phải chịu trách nhiệm”. Vâng, con không thể trả lại những người đã qua đời cho thân nhân của họ, nhưng cách đối xử thân tình của người dân ở đây giúp con hiểu rằng, cho dù con đã nói và dã làm nhiều việc khủng khiếp, nhưng con không phải loại ác quỷ nhẫn tâm.
Con vừa được đọc về một người tên là Kim Manchol, đã cùng gia đình trốn từ miền Bắc bằng thuyền ỏ vĩ tuyến 38. Con ghen tị với họ và con muốn, ba mẹ cũng sẽ ở đây cùng con.
Mẹ ạ, con có một bất ngờ dành cho mẹ. Con đã gặp họ hàng đằng ngoại mình.
Mới đây, con được gặp ông Qan Ho và làm quen với Hwang In Suk, Hwang Mun Suk, Hwang Yun Suk và Kim Bong Suk. Con được quý mến như thành viên trong gia đình và từ hôm ấy, con thường qua thăm họ. Như thế, con đỡ cảm thấy cô đơn hơn, và gia đình ông cũng rất mong được gặp ba mẹ.
Giờ đây, hai nước Đức đã thống nhất, con rất hy vọng rằng thời của dân tộc mình cũng không còn xa xôi. Và nếu ngày ấy đến, con sẽ hạnh phúc chừng nào khi được gặp lại ba mẹ, khi cả gia đình lại đoàn tụ. Bên trên những áng mây tăm tối luôn là những vì sao lấp lánh, và những hạt giống sống động trong lòng đất đóng băng cũng luôn chờ dịp để đâm chồi. Chúng ta không được đánh mất niềm hy vọng.
Có cả ngàn điều muốn kể với ba mẹ, nhưng con phải dừng bút ở đây. Nhớ ba mẹ vô cùng!
Gửi ba mẹ bao tình thương từ Hán Thành,
Con gái đầu lòng của ba mẹ,
Kim Hyun Hee.
Tháng Năm năm 1991
HẾT