Tuesday, July 8, 2014

NAJWAN DARWISH




          Thử hình dung một vùng đất bị chiếm đóng, bị cô lập với thế giới bên ngoài bằng một chính sách phong toả quân sự thường trực, trong đó thường dân là một đám người bị quản chế và bị tước đoạt cuộc sống bình thường. Những bài thơ cất lên từ vùng đất ấy hiển nhiên là các tiếng nói phản kháng và chiến đấu.  



   Sau khi dịch và giới thiệu một số nhà thơ đương đại Palestine – trong đó có Najwan Darwish, tôi được thi sĩ gửi tặng thi tuyển Je me lèverai un jour/ Một ngày kia tôi sẽ đứng lên (do Antoine Jockey dịch sang Pháp ngữ, editions Al-Feel, Jérusalem,2012).Hai năm trước vào mùa sinh nhật tôi, Najwan tặng thêm tâp thơ của Yves Berger, Destinez-moi la Palestine, do chính ông và Kamal Boullata dịch sang tiếng ả-rập; kèm với một tấm card chúc mừng.



   Dưới đây là một số bài thơ tôi chọn dịch từ tuyển tập nói trên, không chỉ vì tình bạn văn nghệ. Najwan Darwish, ngoài tư cách chứng nhân, còn là một tiếng thơ trữ tình tranh đấu đầy phẫn nộ, đam mê vừa giàu chất thẩm mỹ. Đây không những là bằng chứng sinh động khẳng định phẩm giá của vùng đất bị quân thù chà đạp mà còn là thông điệp của một tâm hồn cao quí vươn lên từ nỗi khổ đau của các dân tộc bị áp bức ở Trung Đông và trên thế giới ngày nay.  

                                                                                                             
 CHÂN  PHƯƠNG

                                                                  *


 BẠN



Tìm thấy mộ của hai bạn là một phút lặng nghỉ

đầy vinh quang và ánh sáng

Chúng tôi nhắc lại nhau hai bạn

đã chiến đấu ra sao đến viên đạn sau cùng

Đến hơi thở cuối

Trước khi chúng cán nát ngôi nhà

bằng chiến xa

Trên đầu mình cả hai

Lúc ấy dưới mắt tôi đất đá cũng

cao quí bội phần…



Bạn ơi,

Trên trái đất này, tôi chỉ ganh tị với

hai nấm mồ của bạn.

                                                               

(Amis,35)





 EARL  GREY



Những phụ nữ đã trồng và hái loại trà

chứa trong các hộp Earl Grey,

họ có tha thứ cho tôi chăng khi tôi uống

trong một chén trà ba thế kỷ nhọc nhằn?

Có tha thứ cho tôi các chị em của tôi

bị bán với giá hai trăm đô cho những thành thị muối?



Earl Grey

Không ai biết tên họ những đàn bà đã

bỏ xác trên nương ruộng

Earl Grey

Không ai biết tên họ đám con gái bị bán

cho các phố thị đầy kho muối



Đàn hải thuyền to, chứa đầy nỗi đau các thuộc địa,

lướt trên nước mắt của Chúa Trời



Trà này là trà của các con gái Á đông, hỡi Earl

tên cướp kia

Đồ hải tặc!

                                                     

(Earl Grey,65)





 CẤT  CÁNH



Mi cất cánh rời quả Đất

Nhưng chẳng có cách đào thoát nào ngoài sự rơi.

Mi sẽ rơi xuống

Trên đôi chân hay giập mặt, nhưng mi sẽ rơi

Dù cho phi cơ nổ tung

Thành tro bụi hoặc mảnh vụn mi sẽ rơi



Mi bị đóng đinh vào quả Đất:

Đó là thập giá của mi.

                                                               

(Décollage,79)





 KÉO  TẤM  MÀN



Kéo tấm màn nhìn trời

Thấy các ngọn cây tranh thủ đón trò đùa nghịch

của làn gió

Với ý nghĩ rằng nơi đây mi là nhân vật tiểu thuyết

hoặc một giai điệu bị đám ca sĩ phí phạm…



Cái giường tốt đáng giá bầu trời

Buổi sáng ngủ nướng đáng giá một năm trong đời

Rồi từ căn phòng khách sạn tầng cao mi nhìn

ra những mái nhà, lũ ăng ten truyền hình

cùng các ngọn cây

Và mi tự nhủ: Đâu là ý nghĩa cho các ngọn cây

đu đưa giữa những kiến trúc bê tông kia?

Cho dù mấy ngọn cây là niềm vui nhỏ

còn sót cho mi

Sự an ủi độc nhất của mi.



Lên đường đi, đã đúng ngọ rồi,

mười hai giờ trưa - buổi sáng của mi, kẻ ngủ hoài không dậy!-

Cuộc sống đợi chờ mi



(Tirer un Rideau,91)





 RÉSERVÉ



Có lần tôi ngồi thử xuống

Một trong các băng ghế trống của hi vọng

Nhưng cái từ réservé

Đã cười gằn như một con linh cẩu



(Tôi đã không ngồi xuống. Cũng chẳng ai được ngồi)



Các băng ghế của hi vọng luôn luôn có người đặt trước rồi!

                                                                                                

(Réservé,107)





 GIỮA  HAI  CÁNH  CỬA



Giữa cánh cửa có viết chữ: Địa Ngục

Và cánh cửa có chữ: Thiên Đàng

Có khối kẻ trú ngụ mà chẳng bị tra tấn

Hay được hoan nghênh

Và không thể tả được nỗi hoang mang của họ.

Tôi từng thuộc vào một nhóm quanh quẩn

giữa hai cánh cửa và bọn tôi đã nghe

những điều bàn tán bất tận về đám người ấy.

Cho đến khi bước chân tôi nhập vào

con đường khác mà các thiên thần già nua đều kinh sợ:

Con đường của những ai bị đuổi khỏi quê nhà

Và cam phận quên đứt chuyện hồi hương.



(Entre deux portes,121)




 LÔNG  GÀ TRÊN NGƯỜI

                                                                     



Không ai hiểu được như thế nào mớ chuồng gà lại biến thành

những khách sạn

Và như thế nào tôi lại rơi vào chốn đó để đấu với các chuồng gà

Và đi tìm những kẻ bị phi cảng bỏ vào cái mồm to hoát của nó

rồi nuốt gọn

Có lẽ tôi đã bị nó nuốt để khiến tôi phải đấu với mớ chuồng gà

Mang hình dạng những mái nhà, giường ngủ và phòng ốc.

Những cái chuồng bỏ trống trong đó rơi rớt lông vũ với áo quần

Những chuồng gà chẳng ai hiểu được bằng cách nào đã trở thành

những trại lao công và những đoàn tàu không bao giờ ngừng…

bằng cách nào  chúng đã biến thành các khu chiếm đóng

………………….

Những chuồng gà trong đó không thấy một con gà

Nhưng thấy lông của chúng ta.



( Nos plumes,87)