NTM Tôi viết bằng một thứ ngôn ngữ đã biến tôi thành kẻ lưu đày.
Mối quan hệ của một nhà thơ Ả-rập với ngôn ngữ của hắn cũng giống như của một người mẹ lìa bỏ đứa con trai ngay khi nó vừa biết cựa mình trong cơ thể của bà. Nếu chúng ta chấp nhận câu chuyện của Hagar và Ishmael trong kinh thánh, được nhắc lại trong kinh Qur'an, chúng ta sẽ nhận ra rằng tình mẫu tử, tình phụ tử và thậm chí chính ngôn ngữ đều được sinh ra trong cảnh lưu đày đối với nhà thơ Ả-rập. Lưu vong ngay ở quê mẹ của hắn, theo như câu chuyện này. Có thể nói, với hắn: khởi thuỷ là lưu đày, chứ không phải là lời. Trong cuộc đấu tranh của hắn chống lại địa ngục của cuộc sống hàng ngày, chỗ trú ẩn duy nhất của nhà thơ Ả-rập là địa ngục của sự lưu đày.
Điều tôi vừa nói đưa chúng ta
trở về với những cội nguồn — trở về với thần thoại và ngôn ngữ. Dựa trên những
cội nguồn này, Hồi giáo đem lại một khởi đầu mới. Hồi giáo tháo gỡ ngôn ngữ ra
khỏi sự lưu đày trần tục và hướng nó đến đất nước của Khải Ngôn— đến thiên đàng. Thông qua
ngôn ngữ, Khải Ngôn khai mở phần siêu hình, trong khi công việc là tổ chức phần
vật chất. Sự tổ chức này được giao phó cho con người trong vai trò một vị giáo
lĩnh mới — người kế vị của đấng
Tiên Tri. Khải Ngôn được thiết lập tại
thời điểm mà con người chấp nhận trách nhiệm ứng dụng nó vào thực tiễn. Rồi nó
trở thành một đạo luật, một hệ thống.
Tuy nhiên trong mỗi hệ thống đều tồn
tại một hình thức lưu đày khác, vì mỗi hệ thống vừa là một hạn chế vừa là một
lộ trình đã được vạch trước. Mỗi hệ thống đều cưỡng bách con người phải rời
khỏi bản thể của hắn và định tính hắn bằng diện mạo bên ngoài.
Như vậy, cuộc sống Ả-rập từ lúc khởi
đầu đã là một cuộc lưu đày từ ngôn ngữ và hệ thống tôn giáo. Trong quá khứ cũng
như trong hiện tại, nhà thơ Ả-rập đã trải qua nhiều hình thức lưu đày khác:
kiểm duyệt, cấm đoán, trục xuất, tù đày và tàn sát.
Trong bối cảnh này Kẻ Khác dường như
là sự cứu rỗi của của cái Tôi. Kẻ Khác không phải là quá khứ hay tương lai,
cũng không phải là một tấm gương có khả năng đưa cái Tôi trở về thời thơ ấu.
Đúng ra, nó giúp đặt nhà thơ vào cuộc chuyển di về cõi bất khả tri, về mọi điều
xa lạ.
Từ góc nhìn đó, thơ chắc chắn
không phải là một “thiên đường đã mất” cũng chẳng phải là một “thời hoàng kim”.
Trái lại, nó là một câu hỏi làm phát sinh ra một câu hỏi khác. Được xem như một
câu hỏi, Kẻ Khác đồng hiện với cái Tôi, người đang sống cuộc lưu đày của câu
trả lời. Do đó, Kẻ Khác là một thành tố của câu trả lời — yếu tố của kiến thức
và của Khải Ngôn. Tưởng chừng như Kẻ Khác là sự thúc đẩy của câu hỏi bên trong
cái Tôi.
Kẻ Khác đã có mặt khắp nơi trong
kinh nghiệm sáng tạo của thơ ca Ả-rập. Bởi ngôn ngữ mà nhà thơ Ả-rập dùng bao
gồm nhiều ngôn ngữ, cũ và mới. Tiếng Ả-rập, nói một cách thi vị, thuộc số nhiều
nhưng lại ở hình thức của số ít.
Tuy nhiên, dù là trên thực tế hay
trong mối liên hệ của nó với các hệ thống kể trên, ngôn ngữ Ả-rập không còn gì
thêm để nói với chúng ta. Thay vào đó, nó trở thành một ngôn ngữ của sự im
lặng, hay đúng hơn nó có khuynh hướng giảm thiểu sự diễn đạt thành sự im lặng.
Quỹ đạo của nó là sự câm nín, không phải sự diễn tả. Nó đem mối quan hệ với nhà
thơ Ả-rập vào một hạn chế và một sợi xích, ít nhất là trong sự tương quan với
hệ thống. Hắn có thể bằng lòng với tự do trong khuôn khổ của hắn. Có lẽ hắn
không thấy gì trong quá khứ Ả-rập ngoài câu trả lời cho một câu hỏi mà hắn đã
biết trước bởi vì hắn đã đặt ra câu hỏi đó từ chính trí tưởng tượng, nhu cầu và
lợi ích của hắn.
Điều này có thể giải thích tại sao
nhà thơ Ả-rập là hiện thân của một sự khiếm diện kép — sự khiếm diện khỏi chính
hắn cũng là sự khiếm diện khỏi Kẻ Khác. Hắn đã sống giữa hai sự lưu đày: sự lưu
đày nội tại và sự lưu đày ngoại tại. Nhại theo lời của Sartre, hắn sống giữa
hai địa ngục: cái Tôi và Kẻ Khác
Tôi không phải Tôi, cũng không phải
Kẻ Khác.
Sự khiếm diện và sự lưu đày tạo
thành một sự hiện diện độc nhất.
Là một nhà thơ, nghĩa là tôi
đã từng viết nhưng thực ra tôi chưa viết gì cả. Thơ là một hành động không có
bắt đầu cũng không có kết thúc. Thực ra thơ là một hứa hẹn cho một sự bắt đầu,
một sự bắt đầu mãi mãi.
Hiện hữu, tức là có một ý nghĩa gì
đó. Ý nghĩa chỉ được lĩnh hội qua lời nói. Tôi nói, do đó, tôi hiện hữu. Sự
hiện hữu của tôi, nhờ vậy và từ đó, có ý nghĩa. Xuyên qua khoảng cách này và
niềm hy vọng này, nhà thơ Ả-rập cố gắng nói, tức là, cố gắng viết, cố gắng bắt
đầu.
Thế nhưng, giữa hai sự lưu đày mà
tôi đã đề cập, có thể có sự bắt đầu hay không?
Và, trước hết, một sự bắt đầu như
vậy là gì?
Tôi đặt câu hỏi này để tôi có thể
trả lời nó một cách gián tiếp bằng cách nói rằng tiếng Ả-rập đã và đang là một
nỗ lực liên tục nhằm thiết lập một sự bắt đầu vốn không thể được thiết lập bởi
vì sự thiết lập đó dường như bất khả.
Và bởi vì thi ca đích thực ở bên phía
của sự hiện diện, nên nhà thơ Ả-rập không thể sống cũng không thể viết bên
trong ảo ảnh của một nền tảng dự tưởng. Trong đời sống và ngôn ngữ của hắn, nhà
thơ Ả-rập vì thế mãi mãi nói về tự do và dân chủ như những ảo tưởng.
Tôi nói ảo tưởng bởi vì chính cuộc
sống có trước tự do và dân chủ. Làm thế nào tôi có thể nói về cuộc sống khi tôi
đang bị cấm sống như chính tôi, khi tôi đang không sống, không sống trong chính
tôi cũng không sống cho bản thân tôi, khi tôi thậm chí không sống cho Kẻ Khác?
Vấn đề tự do đối với nhà thơ Ả-rập
(không giống như Kẻ Khác của hắn, đối trọng Tây phương của hắn) không nằm trong
sự thức tỉnh của tính cá nhân hoặc trong sự vắng mặt một phần hay vắng mặt hoàn
toàn của dân chủ và nhân quyền. Đúng ra, vấn đề này nẳm ở những gì sâu hơn, xa
hơn và phức tạp hơn bởi vì, trớ trêu thay, nó đơn giản hơn. Nó nằm ở cái nguyên
sơ và nguyên thuỷ. Nó nằm ở sự lưu đày đầu tiên của con người, ở những gì thiết
lập và được thiết lập, trong cái Không của những gì ra lệnh và cấm đoán. Đó là
cái Không mà chẳng những chỉ tạo nên văn hoá mà còn tạo nên con người và chính
cuộc sống.
Thứ ngôn ngữ được thể chế hoá
tràn ngập cái Tôi và Kẻ Khác và làm lung lay chính những nền tảng của tự do và
dân chủ. Đó là thứ ngôn ngữ của cái chết và sự tàn sát, nơi cả Tôi lẫn Kẻ Khác
phát hiện ra những cái chết của chúng.
Cái chết sẽ không thấy gì cả ngoài
cái chết. Cái Tôi đã chết không thể chấp nhận Kẻ Khác nhưng sẽ chỉ thấy hắn
trong hình ảnh của chính mình, nghĩa là hình ảnh của cái chết. Thơ của chúng
tôi hiện nay có vẻ như đang chuyển động bên trong cái kiểu chết này.
No comments:
Post a Comment