CHÂN PHƯƠNG
|
Tên thật Phương Kiến Khánh , sinh năm 1951 tại Nam Vang.
Học cử nhân và cao học Pháp văn tại đại học Văn Khoa Sài Gòn trước 1975. Rời
VN với gia đình năm 1986. Tốt nghiệp cao học (M.Ed.), Lesley College, Cambridge,
Massachusetts. Hiện sống và dạy học ở Boston
- Tác phẩm đã xuất bản:Chú Thích cho Những Ngày Câm
Nín(1989); Bản Án cho Các Vĩ Cầm(1992); Nghĩa Đen(1993);Bổ Túc Lý Lịch Cho
Loài Di Dân(1994); Biển là Một Tờ Kinh(1996), trong tủ sách thơ Trình Bầy
do cố thi sĩ Diễm Châu chủ biên ở Strasbourg, Pháp.
- Thơ đăng trên các tạp chí nước ngoài: Văn Học,
Văn Uyển, Hợp Lưu, Thế Kỷ 21, Việt, Diễn Đàn( Paris), VietNam
Forum(Đại Học Yale), Illuminations(Đại Học Charleston), Tribuna (Rumania)…
Ngoài thơ, còn viết truyện ngắn, phê bình- biên khảo
văn học, và dịch thuật.
|
giữa
bình minh hoàng hôn
là
căn phòng
đài
phát thanh của quạnh hiu
trạm
viễn liên
nối
năm tháng với chiêm bao
nơi
phân phối bưu kiện ký ức
về
bốn phương sa mạc…
qua
khỏi ngưỡng cửa
con
người hóa làm tạp âm
da
thịt bắt đầu nhiễu xạ
trong
từ trường gió cát
các
đốt xương va chạm
làm
rối loạn tín hiệu mặt trời
lưỡi
môi bập bẹ tiếng vọng lạc loài
ngoài
cương vực những ánh sao rơi
càng
lúc
càng
rời xa quĩ đạo trăng
trái
tim
tiếp
tục di động
một
cách tuyệt vọng
về
các nghĩa trang thiên thể
Cái Mới Đi
Về Đâu ?
Hơn hai thế kỷ qua, phương Tây đã kéo cả địa cầu vào cơn sốt
lịch sử do các cuộc cách mạng chính trị - xã hội và khoa học kỹ thuật dồn dập
gây nên. Sự đổi thay tăng tốc của lịch sử hung hãn công phá mọi nếp sống nếp
nghĩ, xói mòn mọi truyền thống văn hoá lớn nhỏ, lôi cuốn cả nhân loại vào cuộc
hiện đại hoá và toàn cầu hoá dưới ngọn cờ ngạo mạn của Cái Mới. Lịch sử biến
thành con sông của Heraclitus, đúng hơn là dòng thác lũ mà không ai còn có thể
dừng lại ngâm bàn chân mỏi vào vũng nước ngày xưa.
Nietzsche từng báo động rằng ý thức lịch sử sẽ là giác quan
thứ sáu của con người. Văn nghệ hiện đại với nhiều trường phái tiên phong từ
hơn trăm năm qua chính là phản ứng hiện sinh và tâm linh của giới nghệ sĩ -
cọng râu ăngten nhạy cảm của các cộng đồng người (E.Pound) - trước bão lốc
chóng mặt do Thần Tiến Bộ tạo ra. Như một sinh vật có khả năng biến độc tố
thành kháng thể để tự vệ, nghệ thuật - đặc biệt là thi ca- đã chủ động bước
trước thời đại về cảm quan và tri giác. Một mỹ học ra đời, lấy tính độc đáo làm
phương châm, không dừng lại với thành tựu hôm qua chủ trương liên tục thể
nghiệm cái mới lạ. Khi nhận định rằng: 'Tính hiện đại là một truyền thống tự
huỷ' (1), Octavio Paz chỉ tổng kết một hiện tình văn nghệ không riêng cho
phương Tây mà càng ngày càng mở rộng ảnh hưởng trên hành tinh này.
*
Mang nhiều diện mạo khác nhau, một chủ thể mới xuất hiện
trên sân khấu nhân văn (2). Ban đầu là cái tôi lãng mạn được giải phóng khỏi
các ách tập tục phong kiến gia trưởng cất tiếng ngợi ca những khao khát tình
cảm cùng những lý tưởng tinh thần khoáng đãng. Tiếp đó là cái tôi của chủ nghĩa
tượng trưng với những ám ảnh không lời của tâm trạng kẻ mộng du trước các chân
trời lạ vừa vén mở. Rồi đến cái tôi siêu thực thám hiểm bề trái và chiều sâu
của sự vật cùng ý thức, đùa nghịch với sự ngẫu nhiên khách thể để chụp bắt ánh
chớp sáng thế. Còn thêm cái tôi hiện sinh đơn độc dưới bầu trời trống một tay
cầm cán cân đạo lý, một tay huơ những vũ khí của diệt chủng và tận thế. Sau
cùng là cái tôi vô trụ xứ - kẻ tha hương, lưu đày, lữ khách, di dân - bước qua
các lằn ranh của ao làng và tỉnh lẻ để tung hứng tiểu ngã của mình như một hình
nộm ngây ngô.
Sau khi khoa học và triết học tuyên bố cái chết của đấng tối
cao với mọi thần linh, chủ thể tính hiện đại trở thành thước đo các giá trị,
gánh một trách nhiệm bi tráng hơn Prometheus ngày xưa. Do đó, người nghệ sĩ
hậu-truyền thống phải chất vấn các thứ ý nghĩa cũng như quan hệ trong đời sống
văn hoá - xã hội. Đây là một chủ thể sáng tạo bằng thái độ chủ động về nhận
thức không ngừng tra cứu bản chất sự vật. Có thể nói người nghệ sĩ chân chính
là một triết gia tự phát đồng thời là nhà thần học của trần gian đã bị tước
đoạt hết nhiệm mầu. Đúng như những chữ chói sáng của Rimbaud: "Le poète
est vraiment voleur de feu... le grand malade, le grand criminel, le grand
maudit, - et le suprême Savant!" (3)
*
Sự bùng nổ sáng tạo của nghệ thuật hiện đại khởi đầu ở Paris
lan nhanh sang các thủ đô văn hoá Âu châu. Những trường phái và tên tuổi văn
nghệ ra mắt vào mấy thập niên đầu thế kỷ ở phương Tây đã trở thành kiến thức
phổ thông; ở đây chỉ ghi nhận một sự kiện đáng suy nghĩ: lần đầu trong lịch sử
nhân loại một trào lưu văn hoá - tư tưởng thực sự trở nên quốc tế. Ma lực của
cái mới lần lượt chinh phục thế giới cùng với đà bành trướng các thế lực đế
quốc Tây phương. Từ các nước Á Rập Cận Đông đến các thuộc địa Viễn Đông, từ Nam
Mỹ đến Úc châu, từ cực Bắc Liên sô đến tận cuối Nam Phi, các văn nghệ sĩ đều
cùng tham dự vào cuộc phiêu lưu tinh thần không còn biên giới.
Nhưng cái gì cũng phải trả giá trên đời này. Gắn bó mật
thiết với cơn lốc lịch sử, nghệ thuật hiện đại không tránh được những khủng
hoảng xã hội kinh tế ở Âu châu mà hậu quả là hai trận thế chiến tàn khốc. Giữa
hàng triệu sinh linh bị sát hại có mặt nhiều văn nhân thi sĩ hàng đầu. Owen,
Péguy chết trận, Apollinaire bị đạn vô óc qua đời vì vết thương, Trakl tự sát
vì không chịu nổi cảnh máu me đau đớn của thương binh... Chấn thương tinh thần
do Thế chiến thứ hai gây ra còn sâu nặng hơn: Pound loạn trí ngồi tù chuồng
sắt, Tamiki Hara tự tử vì chứng kiến hỏa ngục Hiroshima, Paul Celan trầm mình
xuống sông Seine với ám ảnh các lò thiêu người Do Thái... Giấc mộng công bằng
xã hội cũng đã tế thần không ít tên tuổi tiên phong của thi ca: Lorca,
Mayakovsky, Mandelstam... Trớ trêu thay, truyền thống tự huỷ của văn nghệ thời
đại đã được bạo lực lịch sử tiếp sức tận tình!
Cái giá của phát triển vật chất kỹ thuật là gì? Cuối thế kỷ
này câu trả lời hiển hiện giữa bầu trời. Ý thức rơi hụt vào lỗ trống của tương
lai đã bị cầm cố. Sự phá sản văn minh địa cầu ngày càng rõ dạng: cán cân môi
sinh gãy vỡ khó thể tái lập, nạn nhân mãn và đói nghèo thế giới thứ ba, bạo lực
với chiến tranh chủng tộc... Các thi nhân trước đây còn có thể bám vào huyền
thoại của Phản Phục (Eternal Return) để tự an ủi những khi tuyệt vọng. Thời nay
chính sự tuần hoàn của thiên nhiên cũng bị đe dọa; biết đâu một ngày nào đó mùa
xuân sẽ vĩnh viễn không trở lại! Sự sống bị tha hoá, sự vật bị tước đoạt dần ý
nghĩa, có phải câu thơ Yeats đầu thế kỷ
Things fall apart, the center does not hold
đã báo trước trào lưu tư tưởng hậu-hiện đại đang thịnh hành
trong giới đại học Hoa Kỳ, hoài nghi các giá trị của tiến bộ, lý tính, và sử
quan?
*
Tuần trăng mật giữa Nàng Thơ hiện đại với Thần Tiến Bộ quá
ngắn ngủi. Giấc mộng đồng hành không thành, giới văn nghệ phương Tây chẳng còn
nhiều chọn lựa: ẩn dật, thoát ly, hoặc bắt tay với luật chơi thị trường. Tiêu
biểu cho sự thoả hiệp là Pop Art với gương mặt Warhol chẳng hạn, với hoạ phẩm
được các phòng tranh đầu cơ khai thác như một mặt hàng có giá. Sau khi hệ thống
cộng sản sụp đổ, sức thống trị kinh tế trùm phủ toàn cầu. Mọi quan hệ xã hội,
trong đó có quan hệ nghệ sĩ - công chúng, bị nguy cơ biến thành hàng hoá. Trong
sở thú văn chương (Montale) thỉnh thoảng biến cố lạc loài của các giải thưởng
thơ văn chẳng có bao nhiêu âm vang trên màn ảnh tivi bên cạnh những siêu sao
điện ảnh thể thao. Trên trái đất từng giờ con trẻ tiếp tục chết đói một bài thơ
kiệt tác không có tri âm có khác chi thiên thạch rơi trong sa mạc! Một lần nữa
lời tự vấn của Hoelderlin lại vọng về: Wozu der Dichter...?
*
Sau thời đại Đám Đông Cô Đơn (Riesman) đến kỷ nguyên của
Postpeople (Raw-son) thoả mãn! Chủ thể hôm nay là một tập hợp dục vọng không ngừng
chơi trò cút bắt với những miệng cười quảng cáo trên màn ảnh điện tử. Với mức
độ chú ý quá ngắn (attention deficit) cái ngã hậu-hiện đại trở thành mối nguy
cho mọi sinh hoạt tinh thần. Khả năng đọc hiểu ngày càng tệ trong xã hội; sinh
viên đại học ở Mỹ thường phải học đọc học viết lại! Hậu quả đối với văn thơ và
xuất bản đã đến mức báo động; theo lời David Lehman, tổng chủ biên các tuyển
tập thi ca thường niên toàn nước Mỹ:
...tình hình thi ca tệ hại hơn nhiều so với hai mươi lăm năm
trước đây. Hoàn cảnh văn hoá của chúng ta không thuận lợi đối với trí tưởng
tượng đến một mức khó ai tiên đoán được ngoại trừ có thể McLuhan ra. Làm thi sĩ
vào thời đại truyền thông còn khó hơn làm người hoạ sĩ tả chân trong thời đại
hội hoạ trừu tượng. (4)
Nhà phê bình Michael Hamburger từng nhận định về sự suy yếu
của xu hướng tiên phong trong thi ca Âu châu từ sau 1968.5 Khác với các phong
trào lãng mạn, siêu thực trước kia có ảnh hưởng toàn cầu, mấy nhóm thể nghiệm
concretismo (Brazil), OULIPO (Pháp), L-A-N-G-U-A-G-E (Hoa Kỳ) không tạo được
nhiều tiếng vang. Tương tự thế giới nghệ thuật tạo hình ngày càng xé vụn thành
nhóm phái, tranh nhau chỗ đứng giữa một thị trường phi-văn hoá.
*
Phương Tây không còn là trung tâm của sáng tạo nghệ thuật.
Thử so qua các giải Nobel sẽ rõ. Nếu trước kia Yeats, Eliot, Hesse, Quasimodo,
Saint-John Perse, Seferis đã mang lại vinh quang cho thi ca Âu châu, hai thập
niên cuối thế kỷ cho thấy sự thắng thế của văn học ngoại vi. Với nội dung bức
bách của lời kêu gào đòi nhân quyền nhân phẩm chống toàn trị công an, phân biệt
màu da, chiến tranh tôn giáo - chủng tộc, tên tuổi của Milosz, Seifert,
Brodsky, Soyinka, Derek Walcott, Szymsborska đã kéo tiếng thơ đến gần hơn với
nỗi thống khổ của con người thời đại. Gần chúng ta hơn là thơ Trung Quốc với Bắc
Đảo, Cố Thành, Đa Đa, Vong Khắc của Mông Lung phái; là thơ tranh đấu Ấn Độ, Nam
Dương; là thơ phản kháng Phi Luật Tân, Việt Nam... Trước sự bế tắc của các chế
độ phi nhân, trước sức lũng đoạn của thị trường tự do, cái mới vào những năm
thiên-niên-tận này là ý thức chính trị đối mặt với xu thế toàn cầu hoá của chủ
nghĩa tư bản. Khi loại văn nghệ phẩm chạy theo đám đông và lợi nhuận ngày càng
làm ô nhiễm không gian văn hoá, người nghệ sĩ có lương tri khó lòng nhắm mắt
bắt tay bọn con buôn:
Có một nhà báo ngoại quốc hỏi tôi: Thế nào là thơ hiện đại?
Tôi bảo thơ hiện đại có hai điểm chính: một là vô ích, hai là cấp thiết. Vô ích
là vì nó chẳng mang lại đồng đôla để tôi có thể nuôi vợ con tôi. Cấp thiết vì
nó có thể chống lại mọi mưu toan hàng hoá hoá con người. (6)
*
Cuộc tranh luận học thuật làm tốn rất nhiều hội nghị và giấy
mực về chủ nghĩa hậu hiện đại trong các đại học Âu Mỹ từ hai thập niên qua đã
làm chệch hướng tư tưởng đương đại. (7) Trong khi có những hậu sự quan trọng
hơn đối với sinh mệnh loài người: Hậu- chiến tranh lạnh, Hậu-địa cầu tăng
nhiệt, Hậu-ozone bị thủng, Hậu-AIDS, Hậu-cộng sản, Hậu-Thiên An Môn,
Hậu-Bosnia, Hậu West Bank, Hậu-Nafta, Hậu-Yeltsin, Hậu-thị trường toàn cầu,
Hậu-Internet... Gần với chúng ta hơn là Hậu-khủng hoảng Á Đông, Hậu-Polpot,
Hậu-Suharto, Hậu-boat-people, Hậu-hậu-hội nhập di dân, Hậu-Việt kiều về nước,
Hậu-văn hoá ao làng, Hậu-Tố Hữu-Bùi Giáng, v.v...
Còn lắm điều mới lạ đang mời gọi khả năng tưởng tượng và óc
sáng tạo Việt Nam; hãy mau cầm bút, huơ cọ, ôm đàn, và hối thúc nhau làm nên
tác phẩm.?
---------
Chú thích:
1. Children of the Mire, phần dẫn
nhập. Đây là một khảo luận căn bản về thơ hiện đại phương Tây, vốn là những bài
giảng tại đại học Harvard năm 71-72. Đối với giới tạo hình những cụm từ
'tradition of the new' (Harold Rosenberg), 'Shock of the New' (Robert Hughes)
thể hiện một ý thức tương tự về tính hiện đại.
2. Nhà xã hội học Anthony Giddens kế
tục Fromm, Erikson là tiếng nói có uy tín Hiện nay về chủ thể tính; xem
Modernity and Self-Identity (Stanford,1991). Liên quan đến diện mạo văn hoá và
nhân cách thế giới thứ ba trong bối cảnh toàn cầu hoá, tham khảo thêm Jorge
Larrain, Ideology & Cultural Identity (Polity Press,1994).
3. Cuồng vọng cướp lửa trời này lắm
khi phải trả giá rất đắt. Xem Louis Sass, Madness and Modernism (Harvard 1992)
về các liên hệ bệnh lý tâm thể giữa sáng tạo nghệ thuật và chủ nghĩa hiện đại.
4. Poets & Writers
Magazine(9/10-1995), tr. 54-56. Đọc thêm những bài phê bình, bút chiến sắc bén
đối với thực trạng thơ ca Hoa Kỳ của Eliot Weinberger, Written Reaction
(Marsilio pub.1996). Một thi tuyển gần đây do Adrienne Rich chủ biên cho thấy
sự hình thành của thế giới thơ đa văn hoá trong lòng Hoa Kỳ, với nhiều tài năng
nhiệt thành khác xa với tiếng thơ da trắng quẩn quanh với cái tôi thiếu sinh
khí, xa lìa với thực tại đa dạng; xem The Best American Poetry 1996 (Scribner).
5. The Truth of Poetry
(Methuen,1982, tr.320). Tác giả cho một tổng quan khá công phu về các xu hướng
thơ Âu châu hiện đại và sự thoái trào của chủ nghĩa tiên phong. Có thể đọc kèm
với The Anti-Aesthetic do Hal Foster chủ biên vào cùng thời điểm để có cái nhìn
phê phán về sinh hoạt nghệ thuật nói chung khi chủ nghĩa hiện đại lâm vào bế
tắc trước sự tấn công của xã hội tiêu thụ.
6. Lê Đạt trả lời phỏng vấn trên Hợp
Lưu số 42 (8/9-1998), tr.193. Đọc thêm The Subversive Imagination (Routledge
1994) do Carol Becker chủ biên để tìm hiểu về ý thức chính trị của giới nghệ sĩ
Bắc Mỹ trước sự thao túng thị trường và lũng đoạn xã hội do giới cầm quyền và
các thế lực tài phiệt gây nên.
7. Thuyết hệ hậu hiện đại (discourse
of post-modernism ) mấy năm gần đây bị sa sút uy tín sau cú móc giò thâm độc
của Alan Sokal trên tờ Social Text (Spring - Summer 1996). Cuốn Impostures
Intellectuelles do Sokal viết chung với Jean Bricmont vừa được dịch sang tiếng
Anh mang tên là Fashionable Nonsense: Postmodern Philosophersỏ Abuse of Science
(Picador 1998) giúp độc giả Mỹ nhận ra chân tướng của các đại bịp trí thức bên
Pháp mà họ vẫn thần tượng như Lacan, Lyotard, Baudrillard, Deleuze, Latour...,
những tên tuổi gắn liền với cái mốt tư tưởng hậu hiện đại à lỏaméricaine.(Bạn
đọc Việt có thể tìm đọc loạt bài tường thuật và bình luận về vụ án văn hoá nói
trên do Hàn Thủy viết trên tờ Diễn Đàn Paris (số 64,69,và 70). Có dịp tôi sẽ
đào sâu vấn đề này trong một bài viết khác.?
No comments:
Post a Comment