Nhà
văn Nguyên Hồng :’’…Uống rượu giả vờ say’’ !
ngày sinh (5.11.1918 – 5.11.2012).
Một trong số những nhà văn nổi tiếng của Làng Văn chương
Việt giai đoạn Tiền chiến (1930 – 1945) là Nguyên Hồng. Theo Wikipedia: Ông tên
thật - Nguyễn Nguyên Hồng, sinh trong một gia đình nghèo, ở Nam Định, mồ côi
cha từ nhỏ, theo mẹ ra Hải Phòng kiếm sống , ở trong xóm thợ nghèo Lạc
Viên. Hồi kí Những ngày thơ ấu, tiểu thuyết Bỉ vỏ ra đời ngay ở đây mà
trước nhà khi mưa xuống đầy những vũng bùn lầy lội... Xuân Sách vẽ chân
dung ông, xếp thứ 2 – sau Nguyễn Đình Thi, trong cuốn Chân Dung Nhà Văn :
Bỉ Vỏ một thời oanh liệt nhỉ / Sóng Gầm sông lấp mấy ai hay
/Cơn Bão đến động rừng Yên Thế / Con Hổ gìa uống rượu giả vờ say.
Trong khổ thơ chân dung có nhừng từ : Bỉ Vỏ, Sóng Gầm, Cơn
bão đã đến, Nuí rừng Yên Thế - là tựa đề của 4 cuốn Tiểu thuyết, Con hổ là tên
một truyện ngắn. Đây là một trong nhiều tác phẩm của NGUYÊN HỒNG - người được
dư luận đương thời mệnh danh là nhà Văn ra đời từ ‘’bùn lầy nước đọng’’.
Ông tham gia Cách mạng từ năm 1935…
Cách mạng tháng 8/1945 nổ ra, cũng như nhiều Văn Nghệ
Sỹ đương thời, Nguyên Hồng tham gia hăng hái. Toàn quốc kháng chiến, ông lên
chiến khu chống Pháp. Hòa bình lập lại (1954), trở về Hà Nội, được cấp trên
phân công cùng Nguyễn Công Hoan lãnh đạo tuần báo Văn của hội nhà Văn Việt Nam.
Lẽ ra, nhiệm vụ của ông là phải dùng diễn đàn của báo Văn
’’vạch mặt’’, phê phán nhóm Nhân Văn Giai Phẩm... Nguyên Hồng đã không hoàn
thành nhiệm vụ, trái lại có phần nương nhẹ, nể nang, thậm chí có lúc còn ’’phụ
hoạ’’ theo đối tượng. Báo Văn phải đình bản. Nguyên Hồng bị Kiểm điểm vì quan
điểm mơ hồ trước cuộc ’’đấu tranh giai cấp’’ đang diễn ra gay gắt ’’một mất, một
còn’’. Phần khác, cùng lúc ông lại viết một truyện ngắn cho đăng trên báo Văn
mà nội dung cũng ‘’mơ hồ’’ trước kẻ thù, biểu tượng là con Hổ.
Thực ra - theo Tô Hoài - Truyện này Nguyên Hồng viết
theo lời kể của cụ bà - mẹ mình. Chuyện chỉ mang đậm tinh nhân văn chứ không
hàm ý gì khác, hoặc hai mặt. Có thể tóm tắt : ''Một phường săn bắt được chú Hổ
vài tháng tuổi ở trong rừng, đem về nuôi. Do còn bé, Hổ con được nuôi như
nuôi chó, lớn lên hiền như... chó thật. Hàng ngày nó sống hòa bình vơi gia súc
dưới sự chăm sóc của con người. Nhưng vốn gốc giòng Hổ, mọi người biết nó rất
hiền nhưng nhìn vẫn... sợ không dám gần. Người chủ đành đưa Hổ thả về rừng. Ít
lâu sau nó nhớ... người - lại quay trở về... rồi lại bị xua đuổi…''.
Nội dung chỉ có vậy .
Truyện đăng tải vào lúc xã hội miền Bắc đang có những biến
động lớn: Cải cách ruộng đất có sai, Đảng phải tiến hành sửa sai. Nhóm Nhân Văn
Giai Phẩm đang ’’khuấy động dư luận’’ - đòi tự do trong sáng tác... Đối tượng
đầu tiên cần tẩy não (chỉnh huấn) là Văn – Nghệ - Sĩ. Không tìm ra được nhưng
điều đích thực cần tẩy não, đám người cơ hội vớ ngay được truyện ngăn viết về
con hổ và sai sót khi lãnh đạo báo Văn, đám cơ hội lấy Nguyên Hồng làm ’’vật tế
thần’’. Không khí của những buổi họp kiểm điểm Nguyên Hồng thật nặng nề, được
Tô Hoài nhớ lại, viết in trong tập hồi kí Cát Bụi Chân Ai:
''…Tôi ngồi cạnh Nguyên Hồng.
Kiểm điểm Nguyên Hồng một buổi vẫn chưa xong. Một chồng báo
Văn, (để bên cạnh) như mọi hôm. Cả tổ với nhiều tổ khác tới’’viện trợ’’ cũng
không hỏi thêm Nguyên Hồng một câu nào nữa. Bây giờ mà động đến, lại phân tích,
lại bổ xung, lại ''tôi xin góp…'' - thì chắc lại như hôm qua, kôm kia, trông
trước kia kià: Nguyên Hồng xoè bàn tay (úp) trên chồng báo vuốt vuốt, mếu máo
nói, nước mắt như trút... Tôi thức đêm thức hôm... tôi bỏ hết sáng tác, ngày
đêm tôi chỉ nghĩ đến tờ báo... bài này đề tài công nhân... bài về kháng
chiến... bài về thống nhất... bài về sửa sai Cải cách ruộng đất... tôi không...
tôi không... rồi chẳng mấy lúc Nguyên Hồng khóc hu hu... (CBCA trang 119)
Nguyên Hồng khóc tức tưởi, khóc oà trong những buổi đấu tố
triền miên đó. Ông tìm người này, người kia kiện cáo, thanh minh kể cả tìm tới
ông Nguyễn Lương Bằng (được thời đó mệnh danh là Bao Công của Việt Nam). Kết
qủa vẫn chẳng đi đến đâu…
‘’… Khi (Tô Hoài) đưa cho Nguyên Hồng bài báo – Tô Hoài viết
đăng trên báo Nhân dân (…). Đọc xong , Nguyên Hồng buông tờ báo xuống. Rồi xua
tay, nói như hét vào mặt tôi (Tô Hoài): Tiên sư thằng Câu Tiễn (1) ! Ông
thì không. Nguyên Hồng thì không !
Nguyên Hồng qùy xuống trước tôi rồi cứ phủ phục thế, thút
thít. Chị ấy bỏ chảo nem rán, chạy đến : Thầy nó làm sao ? Lại làm sao thế ?
Tôi đỡ Nguyên Hồng lên. Bà cụ có lẽ nặng tai, vẫn ngồi
rờ rẫm khâu ríu chỗ rách. Dưới sân, trẻ con đùa cười như nắc nẻ, lại cành cạch
tiếng gĩã cua… như không có gì mới xẩy ra.
Chúng tôi ngồi trở lại, yên lặng như từ nẫy vẫn thế. Nguyên
Hồng noi khẽ : Tao tính cả rồi. Trông đây này - Gian phòng vẫn bề bộn màn mùng
như mọi khi... tôi gật gù, nhưng thật cũng chưa hiểu ra như thế nào.
- Tao về Nhã Nam.
- Về Nhã Nam ?
- Ừ, Nhã Nam. Đủ lắm rồi. Ông đ... chơi với chúng mày
nữa...'' (CBCA trang 129).
Dường như không thể chịu đựng hơn, Nguyên Hồng xin về hưu ở
tuổi 50 - một hiện tượng độc đáo trong giới cầm bút miền Bắc từ trước đến lúc
đó (kể cả cho tới nay). Cũng có thể xem là có một không hai đối với hàng ngũ
cán bộ đi theo Kháng chiên chống Pháp ở những năm sáu mươi của thế kỷ 20. Ông
trở lại Nhã Nam, nơi hồi kháng chiến chống Pháp cơ quan văn Nghệ sơ tán - dựng
nhà cùng vợ con sinh sống.
Trong Chân Dung Nhà Văn, Xuân Sách đã nhắc đến Con Hổ
‘’gìa’’ - bố của Hổ ‘’con’’ mà ông lấy làm vật hình tượng - tải đi tư tưởng
trong truyện ngắn kia. Hổ ‘’con’’ của Nguyên Hồng do Người nuôi lớn lên, được
sống chan hòa với những con vật khác. Nhưng vì là... Hổ (dữ), nên không được
loài Người chấp nhận bởi bản tính hoang dã, hung hãn ngoại trừ chỉ’’không ăn
thịt con’’…mình. Vì đã thuần hóa‘’Cậu’’ bị xua đuổi vào rừng... nhưng đã quen
cuộc sống với Người, ’’Cậu’’ ta không chịu được môi trường sống của đồng loại
hoang dã, lại lộn trở về (với người) Nhưng lại vẫn bị Người xua đi vì chỉ đơn
giản cậu gốc gác là…Hổ!
Khác với Hổ con của Nguyên Hồng, chúng liên tưởng tới Hổ
‘’thanh niên‘’ - của Thế Lữ - bị bắt nhốt làm cảnh trong vườn bách thú, ''buồn
vì bức bối rồi lặng lẽ trút tàn hơi’’. Trước lúc chết’’chàng’’ còn gầm
lên : ''Hỡi rừng xanh kiêu hãnh của ta ơi'' !
Còn ông bố chúng nó – ‘’Hổ gìa’’ thì… khóc òa, khóc tức
tưởi, vùi mình trong những cơn say sưa thực và cả ''gỉa vờ say'' - để quên hết
nỗi buồn rồi quyết định đi... ở ẩn. Cuộc hưu non, về “Rừng ở ẩn” thực
chất là trốn chạy, làm chúng ta nhớ tới chuyện Giới Tử Thôi thời Đông chu liệt
quốc bên Trung Hoa cách đây hơn 2000 năm. Câu chuyện có thể tóm tắt: Giới Tử
Thôi là trung thần nhà Tấn, theo hoàng tử Trùng Nhĩ tòng vong (đi trốn, lánh
nạn cùng chủ). Khi Trùng Nhĩ đói, Giới Tử Thôi đã cắt thịt đùi mình cho
chủ ăn. Lúc trở về lên ngôi vua Tấn Văn Công - Trùng Nhĩ ban thưởng cho mọi
người nhưng lại quên ân nhân số một. Có người biết chuyện trách, Tấn Văn Công
hối hận cho người đi tìm... Buồn, chán cho thế sự tình người GTT cõng mẹ gìa đi
vào rừng sâu ở ẩn... Trùng Nhĩ thân chinh đến cửa rừng gọi, sai quân lính đi
tìm, Giới Tử Thôi nhất quyết không ra. Một công thần mách: Đại vương cứ cho đốt
rừng, Giới Tử Thôi rất có hiếu với mẹ, sợ mẹ nguy hiểm nhất định sẽ trở ra.
Tấn Văn Công làm theo…
Giới Tử Thôi thực sự lo cho mẹ, quyết định cõng mẹ trở ra
nhằm cưu mẹ. Mẹ thương con không chịu để con chịu nhục quyết định cùng chịu
chết cháy chứ không về theo lời kêu gọi của Tân Văn Công (Đông Chu Liệt Quốc,
Hồi 36.(2)!’’Công thần Nguyên Hồng’’ có lẽ cũng nghĩ và hành động như tiền nhân
chăng ?
Nguyên Hồng có một đặc điểm: Hay xúc động, dễ khóc! Sau này,
nhiều người từng quen biết ông, kể lại những tình huống ông… khóc! Mỗi khi đối
tượng mà ông quen biết, nghe kể… gặp những trắc trở, ông khóc thay cho họ. Từ
khi lùi về ẩn dật ở Nhã Nam - Yên Thế, tâm tính Nguyên Hồng như biến đổi...
Vũ Thư Hiên kể lại trong Hồi kí Đêm Giưa ban ngày: Một lần
gặp Nguyên Hồng trên đường phố Hà Nội, ông định tới bắt tay - chào tác giả Bỉ
Vỏ. Đột nhiên khi nhìn thấy bạn văn, Nguyên Hồng làm một động tác kỳ lạ : Lùi
lại, tạt vào vệ cỏ bên đường, chắp hai tay trước ngực, vái... vái - như động
tác của các nhà quân tử xưa, kính trọng nhau khi gặp mặt. Thay cho câu nói,
tiếng chào đáp lại thịnh tình của họ Vũ , Nguyên Hồng chỉ làm động tác đáp lễ
từ xa rồi vội vã bỏ đi. Có lẽ ông sợ liên lụy khi gặp nhà văn’’xét lại hiện
đại’’…
Từ 1946 - đến khi qua đời 1985 - 40 năm, Nguyên Hồng viết
nhiều, điển hình là bộ tiểu thuyết Sóng Gầm, bộ trường thiên tiểu thuyết Cửa
Biển, và rất nhiều tác phẩm khác. Nhưng các tác phẩm này không được độc gỉa yêu
thích bằng Bỉ Vỏ và Những ngày thơ ấu - xuất bản trước 1945. Trong đó các nhân
vật khắc ghi dấu ấn của thời đại. Người đờ nhớ mãi câu cửa miệng của đám Anh
chị trong Bỉ Vỏ:
Anh đây công tử không Vòm / Ngày mai Kẹn rệp biết Mòm vào
đâu.
Các từ: Vòm (nhà), Kẹn rệp (túng thiếu, đói), Mòm (ăn) -
được nhân vật Bỉ Vỏ nói, từ hơn 70 năm trước - bây giờ giới trẻ ’’bặm trợn’’ -
vẫn hay dùng...
10.5.2012
L.X.Q
(1) - Câu Tiễn là vua nước Việt, thua trận, bi vua nước Ngô
là Phù Sai bắt đem về nước Ngô - cầm tù. Vì quyết tâm trả mối thù… Câu Tiễn
nghe theo lời quân sư Phạm Lãi… chịu nín nhịn, chờ thời. Trong đó phải kể tới
chi tiết: Để lấy lòng Phù Sai, theo bố trí của quân sư Phạm Lãi, Câu Tiễn đã
‘’nếm phân’’ của Phù sai, nhằm chứng minh rằng mình đã hết lòng với vua Ngô,
không có ý làm phản… Phù Sai mất cảnh gíac không nghe lời can gían của quân sư
Ngũ Tử Tư - tha chết cho vợ chồng Câu Tiễn. Nhờ đó Câu Tiễn đã trở về nước phục
vị lặng lẽ chuẩn bị lực lưọng rồi khi đủ sức, mang quân tiêu diệt Phù Sai,
chiếm lại nước Ngô…
(2). Mặc dù đã hàng nghìn năm, dân TQ vẫn ghi nhận sự tích
này trong đời thường: Để kỉ niệm ngày GTT chết cháy, hàng năm, vào ngày đó
người ta có tục kiêng lửa gọi tết Hàn Thực (ăn đồ lạnh) không nấu nướng.
Nhà văn Lê Xuân Quang
No comments:
Post a Comment