Tác giả: Tạ Tỵ
Nội dung thủ bút:
Có lẽ mình phải đóng một cái khung để giữ bốn câu thơ cậu tặng mình.
Có bằng nói láo bốn mươi năm,
Vũ ấy sao mà giọng vẫn căm
Hay tại đa ngôn đa báo hại,
Giường tiên trời phạt chẳng cho nằm!
Sài Gòn, 21-12-1969
Vũ Bằng
Vũ Bằng: Làm báo, viết văn. Sinh ngày: 3-6-1913 tại Hà Nội
Tác
phẩm: Một mình trong đêm tối (tiểu thuyết) Trung Bắc tân văn (Hà Nội)
xuất bản 1937, Chuyện hai người (tiểu thuyết) Tân Dân (Hà Nội) xuất bản
1940, Tội ác và hối hận (tiểu thuyết) Phổ thông Bán nguyệt san (Hà
Nội) xuất bản 1940, Để cho chàng khỏi khổ (tiểu thuyết) Phổ thông Bán
nguyệt san (Hà Nội) xuất bản 1941, Khảo về tiểu thuyết (loại sách “Học
và Hiểu”) Phạm Văn Tươi (Sài Gòn) xuất bản 1955, Miếng ngon Hà Nội (tạp
văn) Nam Chi Tùng Thư xuất bản 1960, Phù dung ơi! Vĩnh biệt! (Thế Giới
xuất bản) 1969 (tức tác phẩm Cai, Tân Dân xuất bản tại Hà Nội) 1942,
40 năm nói láo (Cơ sở xuất bản Phạm Quang Khai) 1969
Vũ Bằng - Người trở về từ cõi đam mê
Vũ
Bằng là một hiện tượng. Trong suốt dòng sông của cuộc đời có mặt, Vũ
Bằng đã đánh đổi tất cả chỉ để xin lấy về phần mình hơi thở của nghệ
thuật. Nghệ thuật làm báo cũng như viết văn. Về làm báo, Vũ Bằng đã tự
vẽ chân dung mình, chân dung thế hệ, trong cuốn 40 năm nói láo do cơ sở
xuất bản Phạm Quang Khai ấn hành cuối năm 1969. Trong tác phẩm đó, Vũ
Bằng đã thành thực chẳng những với lòng mình mà còn với người đọc. Những
điều mà Vũ Bằng viết ra tôi tin rằng chẳng có ích bao nhiêu đối với
những người chưa hoặc không nghĩ tới chuyện làm báo, nhưng nó rất cần
thiết cho lịch sử báo chí và những ai muốn sống đời ký giả. Bán cả một
cuộc đời để được trả bằng mấy trăm trang sách kể là quá đắt. Cuốn hồi ký
40 năm nói láo đã nói lên tất cả mọi khía cạnh đặc thù – trong đó – Vũ
Bằng đã ký thác tâm sự mình, ký thác “nghiệp chướng” mình một cách quá
đầy đủ về mặt báo chí, nên ở bài này, tôi chỉ viết về “Vũ Bằng nhà
văn”.
Cách đây từ 40 năm, Lãng Nhân đã tìm thấy Vũ Bằng trong một
bài lai cảo gửi cho báo Đông Tây và được đăng vào mục Bút Mới cũng như
ngày nay một vài tờ báo hay tạp chí mở mục “Cây viết mới”, “Tài năng
mới”, “Mầm non văn nghệ” v.v… Tôi tin rằng khi Lãng Nhân, với tư cách
chủ bút báo Đông Tây chọn văn của Vũ Bằng, hẳn đã có con mắt tinh đời,
cũng như Vũ Bằng, một thanh niên chưa đến 20 tuổi, đang học “sơ-gông” ở
“Lýt-xê” không ngờ cánh cửa đời văn của mình lại do “một người mặt
lạnh như tiền” mở cho vào một cách thong thả.
Nghề văn đối với Vũ
Bằng là một cái nghiệp. Chính vì say mê đời văn, Vũ Bằng đã dìm những
tháng, những năm của tuổi trẻ vào đam mê, vào sa đoạ làm vỡ nát một ước
của bà mẹ muốn cho con học thành bác sĩ, và làm khổ lây đến người cô
già lận đận suốt đời cô độc bên cạnh đứa cháu hư, bị gia đình ghét bỏ.
Cũng may, vì tình thương vô lượng của người cô khả kính đó – mẫu người
đàn bà Việt Nam cổ – mà thay vì Vũ Bằng chôn sâu thân thế và sự nghiệp
văn chương vào sợi khói phù dung với muôn vàn cơ luỵ có thể đi đến
tuyệt vọng cả thể xác lẫn linh hồn, Vũ Bằng đã “kinh qua” hệ luỵ nhục
nhằn một cách dũng cảm so với khả năng chịu đựng của một con người
Đã
40 năm qua, biết bao nhiêu hưng phế, có bao nhiêu giá trị bị mất đi,
được bao nhiêu con người còn hiện diện để chứng minh với lịch sử văn
học, với thời gian, cái ý chí sắt son của kẻ nghệ sĩ dám sống chết với
nghệ thuật? Vũ Bằng, một nhà văn lớn trong số các nhà văn tiền chiến và
ngay cả bây giờ. Vũ Bằng viết văn với một phong thái riêng, thật riêng
biệt. Những truyện của Vũ Bằng đã đăng trong Tiểu thuyết thứ bảy khi
Vũ Quân còn là chủ bút, đều mang nội dung mới, đi đôi với lời văn ngắn,
gọn, sắc. Trong lúc đó, đa số độc giả còn mê đọc lối văn bay bướm của
Ngọc Giao, hay nhẹ nhàng của Thanh Châu, hoặc “người hùng” của Lê Văn
Trương v.v…
Cần phải nói thẳng, hồi đó Vũ Bằng chịu ảnh hưởng kỹ
thuật hành văn của tác giả Tây phương nói chung. Nhưng điểm đáng quý ở
Vũ Bằng, là không bao giờ áp dụng tư tưởng Tây phương vào sáng tác của
mình, trừ kỹ thuật. Từ cuốn Một mình trong đêm tối qua Chuyện hai người
đến Ba chuyện mổ bụng và Bèo nước là tác phẩm được in thành sách trước
lúc toàn quốc kháng chiến, tất cả đều có nội dung rất giản dị, giản dị
đến nỗi người đọc cảm thấy không có cốt chuyện mà chỉ có lời văn với
nhân vật “trình diện” độc giả qua ngôn ngữ và hành động hết sức đặc
thù, hết sức Vũ Bằng.
Lối dựng truyện của Vũ Bằng cách đây trên 30
năm làm nhiều người bỡ ngỡ vì không ngờ, nó “chẳng có gì” cho ta thắc
mắc hay có thể tìm thấy chút ít tâm sự mình qua nội dung tác phẩm. Đại
loại “nó” như thế này.
a. Truyện tả một người say rượu rơi xuống
hố, kêu gọi không ai cứu cả. Hắn đứng một lát, sau nhớ rằng hố không
sâu, bèn trèo lên đi về nhà… (Một người rơi xuống hố)
b. Một người
đàn bà có cái áo mới. Người đàn ông hàng xóm sang xem, sờ vào. Không ai
nghi ngờ. Nhưng vì người đàn ông sợ chồng người đàn bà có áo mới giận,
sang xin lỗi… (Chuyện hai người)
c. Một người thư ký mê gái, ăn cắp tiền của chủ đi đánh bạc được, lại đem tiền hoàn lại cho chủ v.v…
Đó,
cái phong cách sáng tạo của Vũ Bằng trong suốt như vậy và nhiều lúc
tưởng không thành truyện, nghĩa là không phải tiểu thuyết vì có vẻ “dễ”
quá. Xin ai đừng hiểu lầm mà tội nghiệp, vì nền tiểu thuyết bây giờ
chẳng những không có truyện mà đôi khi còn không phân định cả vai trò
nhân vật của tiểu thuyết nữa. Chẳng hạn như tác phẩm của Yves Berger,
Claude Simon hoặc Samuel Beckett. Vì lý do đó, người ta có thể nghĩ
rằng, Vũ Bằng là nhà văn Việt Nam thứ nhất đã có cái nhìn xa để vươn tới
sự hoà đồng tiến bộ trong địa hạt tiểu thuyết từ mấy chục năm trước.
Vũ
Bằng“vào nghề” với sự “tìm khôn” một mình. Qua bao nhiêu ngày tháng
lăn lóc với bút mực, Vũ Bằng muốn đem chút vốn liếng riêng tư để làm
của chung thiên hạ. Nghề văn ở nước Việt Nam không ai dạy ai cả. Chỉ có
nghề dạy nghề. Vũ Bằng muốn giúp ích cho những người đi sau tránh được
một phần cực nhọc khi bước chân vào “nghiệp”. Vũ Bằng đem cái “đọc” và
cái “hiểu” của mình viết thành sách. Cuốn Khảo về tiểu thuyết xuất bản
tại Sài Gòn năm 1954, thực ra, đã được đăng tải từng kỳ tại báo Trung
Bắc chủ nhật từ năm 1941-42. Nói cho đúng, cuốn Khảo về tiểu thuyết,
không phải là sách gối đầu giường của những chàng tuổi trẻ muốn trở
thành nhà văn ngày mai, vì nội dung tập sách đề cập tới nhiều vấn đề
quá, mà không vấn đề nào đi sâu vào chi tiết, để cho người đọc có thể
nghiên cứu và tìm hiểu rộng rãi phần chuyên môn đến nơi đến chốn. Nhưng
chẳng phải vì thế mà nó không mang theo những giá trị hiển nhiên xuyên
qua 170 trang sách với các phần trọng yếu nhất của nghề viết văn:
“Về
loại văn tiểu thuyết… người viết truyện không có trường, không có thầy
mà văn tiểu thuyết của ta được đến địa vị ngày nay kể đã là một sự
đáng mừng. Duy chỉ đáng phàn nàn, văn tiểu thuyết của ta bắt chước của
Âu, mà những người theo Âu Tây chưa từng có viết qua một quyển sách nào
nói về tiểu thuyết để cho những người học cũ biết qua cái loại văn mới
đó và giúp những người viết truyện ít học hay không có sách Tây đọc
biết thế nào là quyển tiểu thuyết, kết cấu một cuốn tiểu thuyết, nhân
vật trong một cuốn tiểu thuyết…” (Khảo về tiểu thuyết, trang 15)
Bởi
quan niệm một cách rõ ràng như trên, nên Vũ Bằng mới có can đảm ghi
nhận lấy những nhân tố quan trọng một trình bày khúc chiết về một vấn
đề thật rộng lớn trong phạm vi nhỏ hẹp hơn trăm trang sách.
Ở Chương III của tập sách, Vũ Bằng thử “phân loại” tiểu thuyết:
“Tiểu
thuyết chia làm mấy loại? Ta cũng nên tìm biết. Người mình thường
không phân biệt chữ ‘thể’ văn tiểu thuyết với ‘loại’ văn tiểu thuyết.
Theo
tôi có hơn một chục thể văn tiểu thuyết khác nhau, nhưng kể về loại
tiểu thuyết, chỉ có hai loại: một loại truyện ‘làm cho ta quên cõi đời
này đi’ có thể gọi là truyện ‘quái đản bất kinh’ và một loại truyện
‘giảng cho ta cõi đời này’ ra thế nào, có thể gọi là truyện ‘gần đời
thiết thực’.” (Khảo về tiểu thuyết, trang 21)
Việc phân loại
trên, người đọc nhận thấy, có lẽ Vũ Bằng căn cứ vào sự hiểu biết của
riêng mình và do nghề nghiệp nhiều hơn là ý nghĩa thực tế mà cuộc đời đã
tạm thời coi như có giá trị, vì cho đến hôm nay chưa ai xác định được
rõ ràng về hai chữ tiểu thuyết.
Vậy tiểu thuyết là gì, có mấy loại?
Theo
Tự điển Larousse du XXe Siècle thì tiểu thuyết là một tác phẩm tưởng
tượng, được kể lại thành văn với sự phiêu lưu tưởng tượng sáng chế ra và
phối hợp để gây sự chú ý cho người đọc”. (Roman, œuvre d’imagination,
récit en prose d’aventures imaginaires inventées et combinées pour
intéresser le lecteur). Nếu theo đúng nghĩa trên, tiểu thuyết chỉ có một
loại thôi, vì dù là truyện “quái đản bất kinh”, dù là “gần cõi đời
thiết thực”, người sáng tác vẫn phải phóng hồn mình để tìm hiểu, để
tưởng tượng, sáng chế và phối hợp với đầy đủ mọi yếu tố quan trọng lồng
trong một khung cảnh, một bố cục “quái đản” hay “gần đời” để gây sự cảm
thông, và “bắc cầu liên hệ” giữa tác giả – độc giả trong không khí
nghệ thuật, cho quên “cõi đời ô trọc” này đi được phút nào hay phút ấy.
Trong cuốn Khảo về tiểu thuyết, Vũ Bằng đã làm việc hết sức cẩn
thận và đề cập một cách có hệ thống diễn tiến của từng mục trong 16
chương, từ: “Mới, mới luôn luôn”, “Viết truyện gì?”, “Truyện quái đản
bất kinh”, “Chủ đề với truyện”, “Tiểu thuyết mới!”, “Tiểu thuyết với
thuật tả chân”, “Một nhân vật sống”, “Thuật tả chân ngôn ngữ”, “Thuật
tả chân tư tưởng”, “Tiểu thuyết nên viết bằng giọng văn gì?”, “Nhà tiểu
thuyết có nên làm văn không?”, “Viết tiểu thuyết nên dùng ngôi thứ
mấy?”, “Nghề viết tiểu thuyết” để đi tới một kết luận nhằm xác định
thái độ trước vấn đề được đặt ra về phía người viết tiểu thuyết cũng
như người đọc tiểu thuyết.
"Sinh ra trong cõi đời vật chất này,
văn nhân, thi sĩ, tiểu thuyết gia không còn thể là những ông Tolstoi
được nữa, họ cũng phải sống, họ cũng cần phải có tiền, nhưng chúng ta
không nên vì thế mà giảm lòng kính họ.
Bao giờ và ở nước nào cũng
vậy, địa vị của văn nhân cũng đặc biệt trong một nền văn minh thường
thường, cái sứ mệnh của văn nhân cũng được định đoạt rõ rệt bởi chính
những sự nhu cầu của người dân. Văn nhân sẽ là, và chính bây giờ cũng
đã là một chuyên gia trong một xã hội có toàn những chuyên gia…" (Khảo
về tiểu thuyết, trang 165)
"Tuy vậy, cũng nên biết rằng tiểu thuyết
sở dĩ gây nên được những ảnh hưởng to, tiểu thuyết đã tạo nên những
bóng mây hơi nước khả dĩ nuôi được tâm hồn đất nước, công đó không phải
là toàn của những nhà tiểu thuyết đâu, nhưng còn là công của những
người đọc tiểu thuyết và những người yêu tiểu thuyết nữa.
Nhà tiểu
thuyết viết ra để làm gì? Chúng ta đã biết họ viết bởi vì cần phải
viết, nhưng nói như thế chưa đủ, bởi vì viết thì phải xem, mà họ viết
thì họ không xem bao giờ. Họ cần viết vì độc giả. Họ đã nghĩ đến các
ông, các bà và các cô. Các bạn có biết sự liên quan mật thiết, lạ lùng
giữa nhà tiểu thuyết và độc giả ra thế nào không? Một nhà tiểu thuyết
đem mình phơi bày ra trong truyện, hạnh phúc của nhà tiểu thuyết là làm
cho mọi người đọc trông thấy lý tưởng của mình, gửi tấm lòng mình cho
độc giả tất cả những cái kết tinh trong hồn mình, nói tóm lại, tiểu
thuyết tin độc giả, cũng như một xử nữ dâng cái trinh tiết cho người
yêu vậy.” (Khảo về tiểu thuyết, trang 167)
Đoạn văn thật tha
thiết đã nói lên tất cả tâm sự Vũ Bằng, thứ tâm sự vừa kiêu sa, vừa
nhún nhường, gói ghém đầy đủ sứ mệnh của người cầm bút và bổn phận
người thưởng ngoạn văn chương.
"Hỡi, hỡi vị tinh tú to lớn kia
ơi – Zarathoustra vừa tiến lên ngẩng nhìn mặt trời vừa kêu lên như vậy –
nếu mi không có những người mà mi soi sáng thì chả biết hạnh phúc của
mi sẽ ra thế nào?" (Khảo về tiểu thuyết, trang 168)
Đúng,
Zarathoustra đã nói đúng, vì nghệ thuật làm ra mà không có ai hưởng ứng
cũng như mặt trời kia soi sáng trên vùng đất chết, không sinh vật, thì
nguồn ánh sáng thiêng liêng đó cũng chỉ vô ích. Vũ Bằng chủ trương làm
văn nghệ cho con người và chỉ vì ý nghĩ đó, Vũ Quân đã kêu gọi đến các
đại văn hào thế giới như Tolstoi, Balzac, Stefan Zweig, A. France,
Proust, André Maurois v.v… để chứng minh cho lập luận của riêng mình về
vấn đề tiểu thuyết, trong một tập biên khảo khiêm nhượng, rất khiêm
nhượng.
Nhưng, đích thực, Vũ Bằng không phải là nhà khảo cứu,
trường hợp cuốn Khảo về tiểu thuyết là trường hợp “chẳng đặng đừng”!
Cái tài hoa của Vũ Bằng, nó tập trung ở sáng tác. Nó phản ánh trung
thực cuộc sống nội tâm của Vũ Bằng. Nó là nỗi xao xuyến thường trực
trong các vi-ti tế bào tạo thành sức sống. Nó hiện diện trong mỗi dòng,
mỗi chữ. Nó chiếu rọi vào từng góc thầm kín, u uẩn của chiều sâu tâm
thức. Nó khơi động lại sự khuất chìm của thời gian vắng mặt. Nó tầm
thường như một miếng ăn, thức uống. Và nó cũng vô cùng cao trọng khi sự
tầm thường đó được Vũ Bằng nâng lên thành nghệ thuật. Đó là cuốn Miếng
ngon Hà Nội do Nam Chi Tùng Thư xuất bản năm 1960. Vũ Bằng viết một
phần tại Hà Nội (1952) và sửa chữa, hoàn tất trong thời gian 1956-58 và
59 tại Sài Gòn.
“Vào khoảng năm tàn, tháng hết, ở miền Nam nước Việt có những buổi tối đìu hiu lạnh như mùa Thu đất Bắc.
Gió buồn đuổi lá rụng trên hè. Mây bạc nặng nề trôi đi chầm chậm như chia mối buồn của khách thiên lý tương tư.
Người
xa nhà đột nhiên thấy trống trải trong lòng. Lê bước chân trên những
nẻo đường xa lạ, y thấy tiếc nhớ một cái gì không mất hẳn, nhưng không
còn thấy. Nhớ vẩn vơ, buồn nhè nhẹ. Cái buồn không se sắt, cái nhớ không
day dứt, nhưng chính cái buồn và cái nhớ đó mới thực làm cho người ta
nhọc mệt, thẫn thờ. Lòng người cũng như cánh hoa, chóng già đi vì
thế…”.
Chính cái không gian và thời tiết đã làm Vũ Bằng nhớ
tiếc, nhớ tiếc khoảng không gian cũ trong đó Vũ quân đã sinh ra, lớn
lên, rồi đi học và trở thành con-người-Vũ-Bằng hôm nay với tất cả những
phụ thuộc của kiếp nhân sinh. Cái thú ăn uống cũng làm khổ con người
không ít. Sự nhớ nhung quả thực không tốn kém gì, nhưng nó làm ta nghĩ
ngợi, tiếc nuối gần như thất bại trước thực tế. Cái nhớ của Vũ Bằng nào
có cao xa đâu, nó chỉ là “một chén trà sen do nhà ướp, mấy cái bánh Tô
Châu nhấm nháp vào một hôm mát trời, một nồi cơm gạo tám ăn với thịt
rim, bát canh cần bốc khói nghi ngút, mấy quả cà Nghệ giòn tan hay mẻ
cốm Vòng văn với chuối tiêu trứng cuốc”. Nỗi ước mơ chỉ có thế, thật dễ
dàng thực hiện nếu người mơ ước ở một không gian khác, nhưng ở đây,
những thứ kể trên có thể coi như vọng tưởng, không thể có món quà thích
khẩu, thảng hoặc nếu có, thì tìm đâu ra hoàn cảnh và khí hậu thích hợp
cho mỗi thứ vào đúng mùa trời đất luân hành.
Do đó, Vũ Bằng mới
khổ, phải viết ra cho đỡ khổ, đỡ nhớ. Tập tạp văn Miếng ngon Hà Nội
không đi ra ngoài cái nhớ, cái khổ thật tầm thường mà cũng vô cùng sâu
đậm, chẳng những ở Vũ Bằng mà còn ở bao nhiêu con người “mang nặng
trong lòng những biệt ly xứ sở” nữa.
Miếng ngon Hà Nội thực ra
không đắt, nó chỉ là những món quà bình dân, vì ăn quen nên “khẩu cái”
bắt thèm, một cái thèm chỉ làm ứa nước miếng chứ không hành hạ con
người như chất ma tuý. Bởi vì, phàm thức quà gì ngon nhất đều “có mặt” ở
Hà Nội cả. Nhưng không phải Vũ Bằng chỉ nhớ có quà Hà Nội, mà Vũ quân
còn nhớ quê hương miền Bắc nước Việt qua các món quà đó, vì trong hương
vị của từng món, hình ảnh một dải đồng bằng phì nhiêu có sáo sậu nhảy
trên lưng bò, có người nông phu vạm vỡ, có những cô gái vừa hát vừa
quay tơ, làm lòng kẻ “vạn lý tha hương” buồn phiêu phiêu nhìn vào tâm
tư để tìm dĩ vãng.
Cứ kể về “ăn chơi”, Vũ Bằng là tay sành sỏi, nếu
không, làm sao Vũ quân có thể viết ra và viết rất hấp dẫn đến nỗi đọc
đến đâu, bắt thèm đến đó. Từ bát phở bò – món quà căn bản, ăn ở đâu, ăn
thế nào cho ngon, nhất nhất Vũ Bằng đều thành thạo.
"Cứ nhìn
bát phở không thôi, cũng thú, một nhúm bánh phở, một ít hành hoa thái
nhỏ, điểm mấy ngọn rau thơm xanh biêng biếc, mấy miếng ớt mỏng vừa đỏ
màu hoa hiên vừa đỏ sẫm như hoa lựu… ba bốn thứ màu sắc đó cho ta được
cái cảm giác được ngắm một bức hoạ lập thể của một hoạ sĩ trong phái
văn nghệ tiên tiến dùng màu sắc hơi lố lỉnh, hơi bạo quá, nhưng mà đẹp
mắt.
Trên tất cả mấy thứ đó, người bán hàng buổi tối mới thái thịt bỏ từng miếng bày lên." (Miếng ngon Hà Nội, trang 21)
Quả
thực, đọc văn đã thấy ngon. Vũ Bằng pha trộn thật khéo giữa nghệ thuật
viết và nghệ thuật làm phở, đến nỗi người đọc có thể vừa ăn phở vừa
đọc mà vẫn cảm thấy cả hai thứ đều “ngon” cả.
Ở đâu có món quà nào,
Vũ Bằng đều tìm đến thưởng thức. Nào bánh cuốn Thanh Trì ăn với đậu
rán sốt và các thứ phụ thuộc như một chai nước mắm, một chai giấm, một
chén ớt khô v.v… Bánh thì thơm, nước mắm vừa độ, không chua quá, không
cay quá. Ta chấm chiếc bánh tráng vào trong nước chấm màu hổ phách đưa
lên miệng chưa nhai đã tưởng như bánh “chưa đến môi đã trôi đến cổ” mất
rồi.
Còn bánh cuốn nhân thịt, Vũ Bằng đưa người đọc xuống phố Lê
Lợi – hiệu Ninh Thịnh – để ăn bánh cuốn nguội, thật dẻo và thật mát, ăn
dăm ba chiếc, rõ thực là “thần tiên đấy”.
Ngoài ra nào bánh đúc,
bánh khoái, bánh Xuân Cầu ăn trong ba ngày Tết cho tiêu bớt chất mỡ của
nhân bánh chưng, thịt kho, giò thủ v.v… Bánh Xuân Cầu vuông bằng hai
ngón tay và mỏng như giấy bản, có nhiều màu, chiên mỡ cho giòn rồi phết
mật lên trên, mà theo Vũ Bằng, ăn bánh Xuân Cầu ta sẽ có cảm giác như
đương nghe thấy trong lòng dạo lên một bản nhạc có tiếng đồng chen
tiếng sắt.
Nhưng món quà được Vũ Bằng ve vuốt bằng ngôn ngữ trang
trọng nhất là món cốm Vòng. Vũ Bằng không nhớ Tết, không nhớ những ngày
vui và những tình ái đã qua bằng nhớ mê cốm Vòng ngày nhỏ, mẹ mua cho
ăn lót dạ trước khi đi học.
“Không, cốm Vòng quả là một thứ quà
đặc biệt nhất trong mọi thứ quà Hà Nội – đặc biệt vì cứ mỗi khi thấy
gió vàng hiu hắt trở về thì lại nhớ đến cốm, mà đặc biệt hơn nữa là
khắp các ‘nẻo đường đất nước’ chỉ có Hà Nội có cốm thôi.
Có những hình ảnh đẹp quá, thoảng qua trước mắt một giây, mà ta nhớ không bao giờ quên được.
Bây
giờ nghĩ lại cái đẹp não nùng của cốm Vòng xanh màu lưu ly để ở bên
cạnh những trái hồng trứng thắm mọng như son tàu, tôi thích nhớ lại một
buổi chiều đã xa lắm rồi, có một nhà nọ đưa hồng và cốm sang sêu một
người em gái tôi.
Trên một cái khay chân quỳ, khảm xà cừ, đặt ở giữa
án thư, hai gói cốm bọc trong lá sen được sắp song song, còn hông thì
bày trong một cái giá, dưới đệm những lá chuối xanh nõn tước tơi, để ở
trên mặt sập."
Vũ Bằng đã vẽ lên những nét sắc sảo với màu sắc
chói chang cân đối làm nổi bật đề tài và khích động lòng thèm muốn của
kẻ muốn ăn ngon. Vũ Bằng còn cho ta biết cốm ở đâu có và cốm ở đâu ngon
quý, cùng cách làm cốm của con trai làng Vòng.
Từ chuyện cốm, đi
sang chuyện rươi, món này chỉ có mấy tỉnh miền duyên hải như Hải Dương,
Đông Triều, Thái Bình và Kiến An. Rươi là một loài sâu sống ở chân lúa,
cuống rạ. Đến mùa, đất vỡ ra, rươi hiện lên trên mặt ruộng. Mỗi mùa
rươi xuất hiện theo định kỳ: ngày 5 tháng 9, hai nhăm tháng 10 và tháng
9 đôi mươi, tháng 10 mồng 5 mà thôi. Món này các tay nhậu thích lắm.
Cách làm hơi cầu kỳ nhưng vì hiếm nên trở thành quý.
Chẳng phải Vũ
Bằng chỉ thích miếng ngon và đắt đâu, có những thứ rẻ rề như ngô rang,
khoai lùi, quà bún riêu, bún ốc, bún bung, bún chả cũng được xếp ngang
với món gỏi, chả cá, thịt cầy, tiết canh, cháo lòng và sau cùng đến món
“hẩu lốn”, tức là những thức ăn dư của ngày Tết đổ “hầm bà lằng” vào
nồi đun nóng có gia giảm thêm rau cỏ.
“Ngoài sân, mưa lăn tăn
làm ướt giàn thiên lý. Mấy con ngỗng trời, bay tránh rét, buông ở trên
màn trời xám màu chì mấy tiếng đìu hiu. Cơm vừa chín tới, ‘hẩu lốn’ lại
nóng hổi, bốc khói lên nghi ngút, mà ngồi ăn ở trong một gian phòng ấm
cúng với một người vợ má hồng hồng vì mới ở dưới bếp lên, có hoạ là
sất phu lắm mới không cảm thấy cái thú sống ở đời!” (Miếng ngon Hà Nội,
trang 196)
Sự thực, cuốn Miếng ngon Hà Nội Vũ Bằng chưa nói
hết về miếng ăn Hà Nội, còn nhiều thứ và tuỳ theo khẩu vị của từng
người, nhưng phải nhận rằng qua những món quà mà Vũ quân nói đến, đều
là món quà trứ danh cả. Trước Vũ Bằng, nhà văn Thạch Lam đã nói về quà
Hà Nội qua loạt bài đăng ở Ngày nay dưới tựa đề: Hà Nội 36 phố phường.
Loạt bài của Thạch Lam cũng hay và tinh tế lắm, nhưng không gợi lên
trong lòng người đọc những cảm giác nấn nuối, chua cay vì lúc Thạch Lam
viết, người đọc bắt thèm có thể ăn được ngay, còn bây giờ đọc Vũ Bằng,
chỉ để “tưởng nhớ suông”. Do vậy, chữ nghĩa của Vũ quân có ma lực hút
người đọc đi vào một không gian khác – ở đây - có dĩ vãng với những món
quà ăn chơi quen thuộc.
Vũ Bằng là nhà văn không sợ sự thực, dù
cho sự thực đó có thể gây ngộ nhận. Chính vì thế nên trong cuốn hồi ký
Phù dung ơi! Vĩnh biệt! do nhà Thế Giới xuất bản mới đây, Vũ Bằng đã
nói hết về mình với tất cả thành thực và lương tâm của người cầm bút đã
gần 60 tuổi trời. Tập hồi ký này trước mang nhan đề Cai in thành sách
vào năm 1942, nhưng chính ra, đã được đăng tải từng kỳ trên báo Trung
Bắc chủ nhật từ năm 1940. Cuốn này ở trong Nam ít người biết: khi in
ra, phương tiện giao thông bị trở ngại vì Nhật chiếm Bắc Việt, phần
nữa, khan giấy nên số ấn bản không nhiều
Vũ Bằng cho tái bản để
thoả mãn đòi hỏi của độc giả một phần, còn mục đích chính là mong cảnh
tỉnh giới thanh niên nam nữ bằng bài học nha phiến do chính bản thân
tác giả đã trả giá khá đắt. Cái tâm sự bi thương ấy, Vũ Bằng đã trải ra
trên 300 trang giấy với tất cả nỗi niềm đau đớn, đôi khi tàn bạo trong
từng giờ phút đam mê với ác mộng không rời.
Vũ Bằng đã nghiện và
nghiện nặng vì một lý do rất đơn giản là đang tuổi thanh niên mà không
có lý tưởng để tranh đấu, để nhìn vào cuộc sống với niềm tin yêu. Vũ
Bằng bước chân vào văn nghiệp với một thế hệ “đàn anh” sa ngã, truỵ lạc
trong những đêm dài ca quán, trong hương khói quê nâu, trong vòng môi
ân tình đĩ điếm. Vì muốn tỏ ra mình cũng xứng đáng là tay “tiểu tướng”
trong chốn “giang hồ lạc phách” của “trường văn trận bút”, Vũ Bằng, với
tự ái tuổi trẻ, lao đời mình vào đam mê để huỷ hoại đời sống và tin
rằng mình đã làm một việc đáng làm, không ân hận gì hết, nếu ngày nào
đó thân xác mình bị vùi lấp bởi ô nhục thì cũng cứ được đi.
Cái tâm
trạng chán đời của lứa tuổi thanh niên những năm 1930-40, nó là mẫu số
chung cho bài toán của một dân tộc bị đô hộ. Thêm vào đó, có những
chàng trai hoặc con quan, hoặc giàu có, hoặc vì lý do nào đó, như Chu
Mậu, Nguyễn Đình Thấu, Dương Thiệu Thanh v.v… từ Pháp trở về mang theo
cái văn minh nửa mùa với lề lối ăn chơi “cẩm” như Tây, nào khiêu vũ, nào
bar, nào mốt này mốt nọ, hơn nữa, họ nói chuyện toàn bằng tiếng Pháp
và chuyên dùng xảo thuật để chim gái làm cho thanh niên đã hư hỏng càng
hư hỏng thêm. Ở giữa cái không khí áy, chả riêng gì Vũ Bằng “bị” mà có
rất nhiều thanh niên làm văn nghệ “bị”, nhưng họ không có cái can đảm
và sự may mắn kinh qua như Vũ quân, cũng chính vì thế, họ chết dập vùi ở
một xó xỉnh nào đó, giữa cuộc đời ngàn vạn lối đi vào quên lãng.
Vũ
Bằng đã tự biết mình cũng như ảnh hưởng của cuốn Phù dung ơi! Vĩnh
biệt! trong đám độc giả trẻ, nên ở bài Dựng, Vũ quân đã nói với họ bằng
những lời chân thực nhất:
“Nếu bất ngờ trong các thanh niên,
thiếu nữ có người nào cầm xem cuốn sách này, tôi chỉ mong ước một điều
là đừng bao giờ nghĩ rằng tôi đem việc cai của tôi ra phóng đại để do
đó chứng tỏ thuốc phiện là nguy hiểm. Tôi chỉ mơ ước một điều là đọc
xong sách này, họ sẽ thấy rằng họ không phải là những người đơn độc
trên con đường đời muôn ngả, trước chiến tranh, cha anh của họ cũng đã
mắc bệnh thời đại, u buồn, trống rỗng và đau xót cái đau xót của họ
ngày nay."
Vũ Bằng cũng tự coi mình là tên đào ngũ đối với giới
nghiện, nhưng tên đào ngũ không phản bội, tuy thoát ra mà vẫn có lòng
thương xót anh em. Sự thương xót ở đây, Vũ Bằng không đặt nó vào vị trí
tôn ti mà đích thực nó bộc lộ tận đáy lòng kẻ đã vượt chết.
Lần
thứ nhất, Vũ Bằng giao duyên với phù dung tiên nữ bằng mười hai điếu
thuốc. Vũ quân đã say thực sự và bị nàng tiên nâu hành hạ thể xác đến
khốn khổ ở giữa cầu Thê Húc.
“Nửa giờ đi qua, tôi cứ đứng vịn
thành cầu mà rỏ dãi xuống hồ. Toàn thân tôi không còn phải bằng da,
thịt hay gân, sụn. Nó là một cái gì rỗng mà nhẹ. Bảo là một con búp bê
nhựa có lẽ đúng, bởi vì chân tôi như không còn bám được trên mặt đất.
Giá lúc đó có một vài ngọn gió to, tôi đến bay lên không mất rồi!”.
(Phù dung ơi! Vĩnh biệt! trang 1)
Chất ma tuý đã ngấm vào từng
tế bào trong cơ thể của Vũ Bằng làm cho văn nhân chịu cực hình đến nỗi
Vũ quân đã thề không hút nữa, thế rồi chỉ vì lòng tự ái của tuổi trẻ,
anh lại hút. Lần thứ nhì, thứ ba “nó không sao cả” vì con trai thời đó,
không nổi tiếng ăn chơi thì là thằng quých! Do đó, chẳng những Vũ Bằng
hút thuốc phiện mà còn uống rượu nữa. Nhưng có điều lạ, sau mỗi cơn
say thuốc, Vũ Bằng chỉ gặp toàn ác mộng mà sao Vũ quân vẫn mê được nó
để làm khổ mẹ già và nhất là người cô tận tình thương mến cháu, dù đứa
cháu hư.
Nhưng ngày người cô già nua và đau khổ đó chết, cũng chính
cái chết của một người đã hy sinh hết cả đời mình cho kẻ khác làm Vũ
quân hối hận và có ý định cai. Cai đâu phải chuyện dễ vì phù dung tiên
tử có muôn vạn phép màu để giữ chặt linh hồn kẻ nào muốn thoát ly khỏi
bàn tay sắt bọc nhung. Vũ Bằng đã thực sự nhìn thấy cái nguy khốn của
ma tuý, nó làm cho thân xác nửa chết, nửa sống, nó làm cho con người
càng lúc càng xuống thấp. Tôi nhớ có một nhà văn Tây phương nào đó đã
viết cả một cuốn sách triết lý về thuốc phiện và cho rằng Đức Chúa, Đức
Phật, và Phù Dung là ba Đức Tin. Người nào đã trở thành tín đồ khó mà
bỏ đạo, Vũ Bằng cố gỡ mà sự thoát ly vẫn còn ở đằng cuối con dốc với
rất nhiều chướng ngại vật. Do đấy, trong lúc chờ đợi “kinh qua” Vũ Bằng
vẫn hút và hút hăng hơn bao giờ hết.
Cuộc đời có những sự việc
thật tình cờ, nếu không do định mệnh an bài sao lại có thể xảy đến
được. Như trường hợp Liên Hường, một cô gái miền sông Hương núi Ngự có
mái tóc cánh phượng, đầu đội nón bài thơ, chân đi trên cầu Bạch Hồ mà
bỗng vì một lý do đặc biệt trôi giạt ra Hà Nội để vướng mắc vào ái tình
và hệ luỵ cùng với Vũ Bằng. Mối tình thật đẹp và cũng thật tội lỗi.
Liên Hường, người con gái có giọng hò thê thiết, có tâm hồn lãng mạn
yêu văn nghệ, thoạt đầu chỉ “xem Vũ Bằng hút” và “thắp thuốc lá cho Vũ
Bằng hãm”, dần dà trở thành nghiện hút.
Chao ôi!
Biển rộng âm thầm
Thấy trời sâu mù mịt
Bốn bề sóng vỗ
Tứ phía mây giăng
Đó có thương đây nhờ sợi xích thằng
Nhất tâm như thiết thạch, chớ có cợt gió trêu trăng tôi buồn…
Từ dưới nhà, trong cảnh mưa đêm lai rai, một tiếng hò nổi lên:
Thuyền chìm đáy nước
Con cá lừng đừng lặn lội
Ngẩng mặt trông trời
Nhạn ngẩn ngơ sa
Ví dầu thiếp có đắm nguyệt say hoa
Có ông trời cao soi xét, anh chớ thiết tha mà đau lòng.
Tri kỷ phương trời… Hai con đò nát gặp nhau… Mặc cho trời cứ đổ…
Thế
là xong, bàn tay định mệnh đã thắt mối cuối cùng để ràng buộc hai kiếp
người chung số phận. Phù dung và nhan sắc đã dìm đời Vũ Bằng chìm sâu
nữa vào quê nâu hương khói. Tương lai, tương lai là của kẻ khác, đối
với Vũ Bằng trong thời gian đó chỉ có nhan sắc tan vàng nát đá của Liên
Hường và Phù dung diễm ảo sương khói vây quanh. Biết bao oan khổ do
thuốc phiện gây nên, đã có bao nhiêu người cai thuốc. Ai cai được, ai
không và ai còn, ai mất?
Vũ Bằng sau mấy năm “bê bối” thuốc sái luôn
luôn bị hình ảnh người cô chập chờn ám ảnh hoài trong tiềm thức làm
nhức nhối đời sống. Vũ Bằng quyết định phải cai. Vũ Bằng cai thực. Sự
chia tay giữa Vũ Bằng với nguồn thương nhớ Phù dung tiên nữ quả thực có
đau đớn, day dứt. Vũ quân uống thuốc cai rồi thả cuộc đời vào đam mê
đàn bà và rượu, mong tìm quên trong vui mới. Không được, không thể nào
được vì thuốc phiện có ma. Đôi lúc giận quá, Vũ Bằng đã oán trách ông
Trời sao lại cho mình gặp Liên Hường, nếu không có nhan sắc ấy thì đâu
đến nỗi nào. Nhưng người oán trách ở đây, đích thực phải là Liên Hường
mới đúng, vì sau này nàng nghiện hút không sao bỏ được, chính tại Vũ
Bằng.
Rồi thời gian cứ đẩy đưa từng nhịp, sau cùng dồn Vũ Bằng đến
đoạn chót của quyết định: Cai. Vũ Bằng tự nhủ: “Ta sẽ can đảm. Ta sẽ
can đảm”. Lần này Vũ Bằng can đảm thực sự. Vũ quân đã chọn đúng ngày
Tết để cai thuốc phiện. Trong căn phòng nhà thương trắng lạnh với những
“ma-lát” và các thứ bệnh khác nhau, bệnh nào cũng ghê gớm cả. Vũ Bằng
đã chịu đựng một cách can đảm sự hành hạ hung hãn của thuốc phiện: nào
đau bụng, nào nhức xương, nào đau đầu hàng bao đêm dài như thế. Có lúc
sự chịu đựng đã yên, Vũ Bằng toan hút lại nhưng nhờ sự may mắn là không
có ai đưa đi, nên lại phải nằm trên giường bệnh để nghe “rõ ràng ở
chính trong bụng mình, dưới chỗ mỏ ác, có một tiếng kêu khe khẽ đưa ra.
Một tiếng kêu kỳ quái, rùng rợn. Một tiếng kêu như giun như dế. Một
tiếng kêu không to lắm nhưng ti tỉ như tiếng ve sầu kêu mùa hè, thê
thảm não nùng, rồi kéo dài ra, rồi kéo dài mãi mãi.”
Thật rùng rợn,
con ma thuốc phiện nó hành hạ mọi cách để buộc chặt thân phận người
nghiện vào uy quyền ma quái, nhưng, nhờ trời chuyến này Vũ Bằng đã
“kinh qua” được, “kinh qua” vĩnh viễn sau muôn vạn nhọc nhằn, đau đớn.
Để tránh sự mềm yếu của ý chí, Vũ quân đã phải tự vệ bằng cách viết lên
đầu giường những khẩu hiệu: “Cha ta sống lại mà bảo ta hút thuốc
phiện, ta cũng không được hút” và “Thuốc phiện giết hại cả dân tộc mày,
làm cho bao nhiêu người ở xung quanh mày sống ai oán, chết khổ sở, mày
có nhớ không?”. Đó, con người sự thực, còn có quyền năng hơn mọi ma
lực ở đời, chỉ cần dũng cảm. Vũ Bằng đã cai được và từ đó Vũ quân thay
chất khói bằng chất men. Có điều làm Vũ quân ân hận, đó là Liên Hường,
nàng đã nghiện thực thụ. Trong một đêm mưa riêu riêu về tiết hoa vàng,
cùng người bạn đi vào tiệm hút để thử lửa lòng mình, Vũ Bằng bắt gặp
Liên Hường nằm nghiêng bên ngọn thần đăng và lần này Vũ quân tiêm cho
nàng hút.
“Đôi đứa chúng tôi vẫn nằm bên khay đèn như hồi
trước. Ngọn đèn dầu lạc vẫn soi bóng tờ mờ vào đôi mái đầu xanh. Nhưng
Liên Hường thực của tôi đã đi đâu mất rồi? Nằm đối diện tôi bây giờ chỉ
còn lại một Liên Hường gầy guộc, xanh xao, mà phấn trát son tô không
đủ che được một làn da quá bủng. Chung quanh cặp mắt bồ câu, những
đường nhăn, những đường nhăn đã bắt đầu và những nét buồn. Gân chằng
mạng nhện ở cổ. Tay nàng khô hanh và bé như xương gà. Toàn thân tiết ra
một sự tàn phá làm cho ta ghê rợn".
Vũ Bằng vẽ chân dung Liên
Hường bằng những ngôn ngữ thê thảm. Thuốc phiện tàn phá hết, cả nhan
sắc lẫn tư cách. Nó là ma, là quỷ, là thuốc độc, bùa mê. Nó là hình
phạt của tội lỗi. Nó là sự sỉ nhục quá đáng đối với mỗi số phận vào
tròng. Nó là lời nguyền rủa ngàn kiếp không phai. Nó là địa ngục trần
gian. Nó là từng lóng đau buồn bứt đi từ cõi u mê gục mặt. Nó là sự
thất bại của những tâm hồn yếu đuối. Nó giết dần, giết mỏi mòn hơi thở
con người
No comments:
Post a Comment