Lý Chí Thỏa Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời
nói đầu, chương [1],
[2]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Năm
1949 tôi tròn 29 tuổi. Tôi
là bác sĩ hàng hải ở
Sydney, Úc. Qua báo chí tôi hiểu thành phố quê hương tôi
đã ngừng tiếng
súng. Ngày 31-01-1949 tất cả dân Bắc Bình
(tên gọi Bắc Kinh
thời đó)
đổ ra đường để đón
chào những người giải
phóng mình. Kéo về đây
có cả lãnh
đạo đảng cộng sản. Họ dự định
thành lập nước Cộng hoà
nhân dân Trung Hoa. Bắc Bình
lại trở thành
Bắc Kinh
thủ đô
Trung Quốc. Tên
gọi Bắc
Bình, nghĩa là “bình yên phương Bắc”.
Tên gọi Bắc Kinh
nhận được sau
khi chính phủ Tưởng Giới Thạch rút
về “thủ đô
phía nam” – thành phố Nam
Kinh. Nội chiến
trong nước giữa những người cộng sản và
Quốc dân
đảng vẫn tiếp tục, nhưng
không ai hoài nghi rằng chiến thắng sẽ thuộc về hồng
quân Trung Quốc.
Bắc Kinh, thành phố quê hương, ở đó tôi sống 13 năm đầu tiên cuộc đời. Nhà của chúng tôi xây theo phong cách truyền thống Trung Hoa. Gia đình tôi giàu có, thuộc giới thượng lưu. Thực tế chúng tôi sống không phải một căn nhà mà trong một khu gồm nhiều nhà một tầng mái ngói và ba sân riêng biệt trồng cỏ và rau. Chúng tôi sống ở phía nam Cấm Thành ở khu Lưu Linh Chương. Khu này bắt đầu sau bức tường dày, ngăn cách Thành Nội, nơi ở hoàng đế. Cứ mỗi năm một lần, ngày lễ Xuân, mọi người Bắc Kinh đổ về đây. Tại đây có thể mua được đồ chơi Trung Quốc cho trẻ con. Tên gọi “Lưu Linh Chương” xuất phát từ chữ Trung Quốc “Lưu Linh” – bắt mắt. Ở đây thời Minh có xưởng thợ làm ngói mạ vàng cho các toà nhà hoàng cung (1368-1644)
Bắc Kinh, thành phố quê hương, ở đó tôi sống 13 năm đầu tiên cuộc đời. Nhà của chúng tôi xây theo phong cách truyền thống Trung Hoa. Gia đình tôi giàu có, thuộc giới thượng lưu. Thực tế chúng tôi sống không phải một căn nhà mà trong một khu gồm nhiều nhà một tầng mái ngói và ba sân riêng biệt trồng cỏ và rau. Chúng tôi sống ở phía nam Cấm Thành ở khu Lưu Linh Chương. Khu này bắt đầu sau bức tường dày, ngăn cách Thành Nội, nơi ở hoàng đế. Cứ mỗi năm một lần, ngày lễ Xuân, mọi người Bắc Kinh đổ về đây. Tại đây có thể mua được đồ chơi Trung Quốc cho trẻ con. Tên gọi “Lưu Linh Chương” xuất phát từ chữ Trung Quốc “Lưu Linh” – bắt mắt. Ở đây thời Minh có xưởng thợ làm ngói mạ vàng cho các toà nhà hoàng cung (1368-1644)
Ông
tôi mất trước khi
tôi ra đời, nhưng gia
phong cụ lập ra vẫn được giữ gìn.
Chân dung cụ treo ở một
phòng, nơi hàng
năm chúng tôi thường tụ họp tất cả gia
đình vài lần để tưởng nhớ.
Phòng thăm bệnh của cụ ngay
trong khu nhà vẫn giữ
nguyên, nhà thuốc Bắc Chí
Đường do
cụ sáng
lập vẫn phát
đạt nhưng
giao cho một người bào
chế tin cậy
trông nom. Cụ tôi
giàu có nhưng được mọi người kính
trọng,
tôn quý vì cụ luôn
luôn giúp đỡ người
nghèo. Trong hiệu Bắc Chí
Đường người bệnh có
thể được phát
không, nếu như quá
nghèo. Không những người dân
Lưu Linh
Chương mà
còn cả Bắc Kinh
biết tiếng tăm
cụ. Tôi
lớn lên
trong gia đình, nơi người ta
cho rằng người
nghèo chịu đựng quá
nhiều đau
khổ, cần lòng
từ thiện.
Tuy
nhiên do sự giàu
có của
chúng tôi đã tạo ra bức tường vô
hình ngăn cách với các
gia đình nghèo. Mẹ tôi
không cho phép tôi chơi với trẻ con
gia đình nghèo, trong thời ấy có
nhiều người
nghèo ở Bắc
Kinh. Từ thuở thơ ấu, gia
đình khuyên tôi cần tiếp tục truyền thống và
tôi trở thành
bác sĩ. Tôi cho rằng tôi
được sinh
trong gia đình đặc biệt. Tôi
rất tự hào về dòng
tộc, muốn trở thành
người xuất
chúng.
Em
trai bố tôi,
cũng trở thành
bác sĩ, đóng góp nhiều công
sức cứu giúp
người
nghèo. Khi tỉnh Hồ Nam
có dịch thương
hàn, chú tôi tự nguyện đến đó để cứu họ,
chính ông cũng bị lây bệnh, chết khi
chưa tròn
30 tuổi.
Thím và hai con trai ông vẫn sống
trong khu nhà, chúng tôi coi nhau như anh em ruột. Tôi
còn có người anh
trai cùng cha khác mẹ, con
người vợ trước của bố tôi.
Tất cả chúng
tôi thân thiết như anh
em ruột thịt. Bố tôi cưới mẹ tôi
sau khi bà cả qua đời.
Riêng
cha tôi đã phá vỡ gia phong
của dòng
họ. Năm
1920 ông sang Pháp tu nghiệp. Lúc ấy tôi
mới ra đời. Tôi
biết mặt bố mãi 7
năm sau. Qua thư từ,
chúng tôi biết
trong số sinh
viên của nhóm
bố tôi
có Chu Ân Lai, người mà
ông đánh bạn.
Tình bạn của họ giữ được đến tận khi
bố tôi mất, dù
rằng Chu
Ân Lai trở thành
lãnh tụ cộng sản, còn
bố tôi
thuộc về những người quốc gia
thuộc Quốc dân
đảng,
ông nắm chức vụ cao
trong chính phủ Tưởng Giới Thạch.
Việc bố tôi
quay về nước gây
ra một bê bối, lộn xộn
trong gia đình. Ông mang theo một bà vợ người
Pháp, cùng sống
trong ngôi nhà chúng tôi. Mẹ tôi, một phụ nữ Trung
Hoa điển
hình, ít học, xuất thân
từ tầng lớp thường
dân, bó chân theo phong tục. Hy
vọng duy
nhất của bà
trở thành
người vợ đảm
đang, người mẹ hiền chăm
sóc gia đình con cái. Theo tục lệ Trung
Quốc thời bấy giờ, đàn
ông giàu, có nhiều vợ tương đối phổ biến. Nhưng gia
phong của dòng
tộc tôi
không chấp nhận ông
lấy hai
vợ,
không những thế còn
cho đó là sự sỉ nhục gia
đình.
Bà vợ hai của bố tôi
là người tốt, lịch sự, học thức cao.
Bà dạy tiếng
Pháp ở Đại học Bắc
Kinh, đặc biệt rất luôn
luôn thân thiện, đối xử tử tế với tôi.
Tuy nhiên tôi cảm thấy mẹ tôi
phải cắn răng
chịu đựng, bà
thường
trút nỗi bực tức xuống đầu tôi,
nhiều lần bị bà
đánh oan. Chỉ khi lớn rồi, tôi
hiểu, mọi sự rắc rối trong
gia đình nguyên nhân do bố tôi
gây ra.
Thậm chí
thời thơ ấu tôi
không thích bố. Hiếm khi
hai bố con
nói chuyện với nhau
trừ khi
ông chửi mắng,
còn tôi thì bỏ ngoài
tai. Tất vả mọi người còn
lại
trong gia đình đối xử với nhau
thân mật và
kính trọng. Sự bình
đẳng
trong gia đình tôi đã tồn tại từ lâu,
cho nên thái độ gia
trưởng của bố đã
xúc phạm
không những đến
chúng tôi mà còn đến ký ức dòng
họ. Ngay
sau khi quay về Trung
Quốc, bố tôi
cùng bà vợ hai
chuyển đến Nam
Kinh tham gia chính quyền Tưởng Giới Thạch.
Sau vài năm, người vợ Pháp
của ông
từ trần. Ông
trở thành
người hám
gái, sống
lang chạ, nhưng chẳng lấy ai.
Tôi rất xấu hổ về tư cách
của ông,
quyết tâm
học hành
tử tế để trở thành
một bác
sĩ lành nghề phục vụ nhân
dân. Sự hằn thù
của tôi
đối với bố khiến tôi
ghét chính phủ Quốc dân
Đảng,
vài năm sau, tôi có mối quan
hệ thân
thiện với đảng cộng sản. Có
lẽ tôi từng
ghét lối sống vô
đạo đức cha
tôi, cho nên sau này, ở gần Mao,
tôi kinh hoàng về đời sống
tình dục của chủ tịch.
Cũng
như đa số người Trung
Quốc cùng
thế hệ, tôi
yêu nước và tự hào về nền văn
hoá lâu đời của tổ quốc
mình. Lịch sử 4000
năm của
Trung Quốc mang
đến sự vinh
quang và giàu có, triết học
Trung Hoa cổ đại, thi
ca, sử ký đã
đạt được những kỳ
tích khác thường, được ngưỡng mộ trên
thế giới. Vì
thế tôi
không thể chịu đựng,
trong quá khứ đất nước vĩ đại bắt đầu xảy ra sự suy
tàn từ thế kỷ trước.
Ngay từ hồi cấp I,
tôi biết cái
nhục của
Trung Quốc
trong “Chiến
tranh nha phiến” với Anh
vào năm 1839. Sau đó lại tới
Pháp, Nhật và
Nga can thiệp, xâu
xé khiến đất nước tôi
kiệt quệ. Do
đó Trung Quốc mất độc lập phải trở thành
thuộc địa, sự hùng
mạnh thuở nào
biến mất
không còn dấu vết. Các
ông chủ ngoại quốc tới tràn
đầy các
thành phố lớn, đất nước bắt đầu sống dưới một luật lệ mới lạ, ngược với truyền thống văn
hoá và tinh thần của dân
tộc
Trung Hoa. Từ nhỏ tôi
đã nhìn thấy tận mắt chiếc biển treo
ngay lối vào
công viên cạnh khu
phố Tây ở Thượng Hải,
trên đó dòng chữ: “Cấm chó
và người
Trung Quốc” làm
tôi thấy nhục nhã
và đau lòng. Cũng như nhiều người, tôi
cho rằng nỗi bất hạnh của đất nước
Trung Hoa xuất phát
từ ảnh hưởng ngoại quốc hoặc từ các
thế lực đế quốc – như sau
này người ta
thường
nói.
Năm
1931, khi tôi tròn 11 tuổi, người Nhật chiếm Bắc Mãn
Châu và lập nên
quốc gia
bù nhìn Mãn Châu Lý. Mẹ con
chúng tôi bỏ Bắc
Kinh, chuyển về phương nam
– đến Quý
Châu, nơi tôi
theo học trường
trung học thuộc Đại học Quý
Châu do phái bộ Truyền giáo
Mỹ thành
lập. Tất cả các
môn học đều bằng tiếng
Anh, tiếng Anh
kiểu Mỹ. Chương
trình học có
nhiều bài
phần giảng về tôn
giáo. Tôi đã tìm hiểu cuộc hành
hương từ Anh
sang Mỹ 1620,
lịch sử nước Mỹ. Năm
1935, lúc 15 tuổi tôi
đã rửa tội chuyển sang
đạo Tin
Lành.
Trong
thời gian
rất ngắn tôi
đã quan tâm đến tư tưởng cộng sản. Người anh
cùng cha khác mẹ của tôi
học y
khoa ở Đại học
Aurora Thượng Hải và
năm 1935 vào đảng cộng sản. Đó
là điều bất thường đối với người gia
thế quyền quý,
giàu có, nhưng vì
lòng yêu nước, thương người
nghèo đã thôi thúc anh tôi tham gia tổ chức. Những ngày cuối tuần, anh
đến Quý
Châu thăm, luôn khẳng định sự xấu xa,
bóc lột công
nhân tàn bạo của chủ nghĩa
tư bản. Ông
bảo cho
tôi, chỉ có những người cộng sản mới có
thể xây dựng được một thế giới
không có nghèo đói và bình đẳng. Anh tôi lên án Quốc dân đảng
tham nhũng, làm tay sai cho đế quốc,
không có khả năng
chống
quân xâm lược Nhật ở Mãn
Châu. Anh khẳng định, chỉ có người cộng sản mới có
thể đánh
đuổi bọn Nhật ra
khỏi đất nước
Trung Quốc. Tôi
kính trọng
anh, tin tưởng vào
giấc mơ đất nước
Trung Hoa hồi
sinh, giàu có, thịnh vượng,
văn minh, bình đẳng,
bác ái. Tôi bắt đầu chăm
chú đọc những cuốn sách
anh tôi đưa cho:
“Chuyện về kế hoạch 5
năm lần thừ nhất”,
“Thép đã tôi thế đấy” của
Nicolai Ostroevsky và cả sách
của ký
giả Pháp,
Henry Barbus về vai
trò xuất sắc của
Stalin trong việc chuẩn bị và thực hiên
cách mạng
tháng 10 vĩ đại ở Nga.
Anh vạch cho
tôi, chỉ có ý
tưởng cộng sản mới cứu được
Trung Quốc, các
lãnh tụ cộng sản xuất sắc như Chu Đức và
Mao Trạch
Đông mới dẫn dắt đất nước đến nền kinh
tế và
tinh thần sáng
lạn. Số phận
Trung Quốc
trong tay họ.
Chúng tôi và anh gọi họ là
Chu Mao, dường như đó chỉ là một người. Từ ấy, tôi
bắt đầu đọc Chu
Mao, lòng tin này dần dà
tăng lên, khi tôi hiểu rằng Lỗ Tấn nhà
văn yêu quý của tôi
cũng thiên về lý tưởng cộng sản.
Cũng
thời gian
đó, năm 1936, một người chị họ giới thiệu tôi
với cô bạn cùng
lớp của chị. Cô
ta tên là Ngô Tương
Thanh – hay Ngô Lý Liên (theo tên thánh), tôi phải lòng cô ấy từ cái
nhìn đầu
tiên. Cô cũng xuất thân
từ gia
đình giầu có,
theo đạo Tin
Lành. Mười năm
sau chúng tôi mới cưới nhau
mặc dù
khi chiến
tranh lan rộng, mỗi người một ngả, nhưng thường
xuyên liên lạc tìm
mọi cách
đoàn tụ.
Quân
Nhật tràn
vào đất nước, ban
đầu
chúng tôi cùng mẹ chạy về Vũ
Hán, năm 1937 chạy về Trùng
Khánh tỉnh Tứ
Xuyên. Thành phố này,
năm 1938, Tưởng Giới Thạch,
coi là thủ đô của Quốc dân
đảng. Cuối năm
1935 căn cứ địa của đảng cộng sản
Trung Quốc ở Giang
Tây bị quân
đội Quốc dân
đảng bao
vây, nên trong tháng 10, lực lượng
chính của Hồng
quân, bị rơi vào
vòng vây, đã phải làm
cuộc Vạn Lý
Trường
Chinh sang phía tây Trung Quốc để nhập với căn
cứ khác.
Cuộc hành
quân này kết thúc
cuối năm
1935 ở tỉnh Thiểm Tây
và viết nên
trang sử hào
hùng của cuộc đấu
tranh giải
phóng dân tộc của nhân
dân Trung Quốc. Anh
tôi và bà chị họ cũng
theo đoàn quân đến đó.
Sau
khi học
xong, tôi được trao
hai bằng: bằng tốt nghiệp trường y
khoa thuộc Đại học Liên
hiệp
Tây-Trung và bằng tốt nghiệp Đại học tổng hợp New
York.
Lý
Liên học môn
xã hội tổng hợp ở Đại học Phục Đan,
Trùng Khánh, nhưng rồi sau
chuyển sang
học trường nữ sinh
Tin Lành ở Thành
Đô.
Tôi kết thúc
thực hành
phẫu thuật năm
1945, cũng là năm Nhật đầu
hàng. Tôi nhận việc làm
trong Bệnh viện đa
khoa Trung tâm Nam Kinh, được trang bị thiết bị hiện đại nhất, nơi tụ hợp các
bác sĩ giỏi nhất do
phương Tây
đào tạo. Tôi
muốn được học
chuyên khoa phẫu thuật thần
kinh. Tháng 11-1946 tôi và Lý Liên kết hôn. Lý Liên làm ở thư viện thuộc Hội Đồng Anh
quốc.
Nội chiến Quốc-Cộng
đang diễn ra,
lạm phát
tăng chóng mặt, đời sống khó
khăn vô cùng. Lý Liên nhận lương ở Sứ quán
Anh không đến nỗi tồi –
khoảng 150
đô-la/tháng, trả bằng đồng bảng
Anh. Lương tôi
khoảng 25
đô la Mỹ/tháng
nhưng nhận bằng tiền
Trung Quốc,
lĩnh xong tôi tức tốc đem
ra chợ đen đổi sang
đô la Mỹ hoặc đô
la Mehico đúc bằng bạc. Lạm phát
phi mã đến nỗi nếu số tiền vào
buổi sáng
đủ mua
ba quả trứng, đến chiều chỉ mua nổi một quả. Người ta
chở tiền lên
xe kéo, giá gạo tăng
đến mức trước đây
người lương thiện
không bao giờ nghĩ
tới ăn cắp, nay
lao vào đập phá
các cửa hàng
bán gạo cướp những gì
có thể lấy được.
Trong
cơn khủng hoảng,
Danny Hoàng, bạn cùng
lớp,
đang làm bác sĩ ở Hong
Kong gợi ý
tôi chuyển đến đó
làm việc với anh.
Cuộc sống ở đó ổn định,
nghề bác
sĩ kiếm được số tiền
không nhỏ.
Nhưng sống ở đó
không lâu. Cũng năm ấy tôi
nhận việc ở một hãng
tầu biển Đông
Phương Úc
Châu, trở thành
bác sĩ ở
Sydney, bác sĩ phẫu thuật của đoàn
tầu biển thường qua
lại giữa Úc
và New Zeland, thu nhập khá
cao. Lý Liên chuyển sang
Hong Kong, thuê nhà, kiếm việc
trong một cơ quan
của người Anh.
Tôi không muốn vợ tôi
chuyển sang
Úc, nơi còn
kỳ thị chủng tộc, chẳng ưa dân
da vàng. Vì thế tôi
cũng chẳng có
ý định cư lâu
dài ở
Sydney, chỉ mê mải làm
việc hy vọng kiếm nhiều tiền, nhưng
không muốn nhập quốc tịch. Niềm tự hào
dân tộc,
lòng tự trọng làm
cho tôi không thể hoà hợp được với những người bảo
hoàng có tư tưởng
phân biệt chủng tộc ở đây.
Tôi sống
trong một căn
buồng nhỏ,
quanh tôi toàn người Úc,
họ tin rằng
Trung Quốc
không khi nào hồi sinh
được. Tôi
tức nhưng cần tiền, nên
nấn ná
chưa đi.
Nhưng tôi
cũng không thích sống ở Hương Cảng,
thuộc địa của Anh.
Niềm tự hào
dân tộc quá
lớn cho
nên không chấp nhận, bị tước đoạt quyền công
dân dưới sự đô hộ nhà
vua ngoại quốc.
những người cộng sản chiếm Bắc
Kinh, tôi cảm thấy
trong lòng trào lên nỗi mừng
không thể tả được.
Tháng 2-1949 Hồng
quân Trung Quốc đè bẹp hải quân
Anh khi định vượt qua
sông Dương Tử, sự kiện này
làm tôi sung sướng tột độ. Tôi
tin với chiến thắng của những người cộng sản
Trung Quốc, bọn cai
trị nước ngoài
sẽ phải cuốn xéo,
đất nước được giải
phóng sánh vai với các
nước trên
thế giới.
Tháng
4-1949, tôi nhận được thư của mẹ, bà
đã quay về Bắc
Kinh. Mẹ tôi gửi kèm
thư của anh
tôi, cũng vừa về thành
phố quê hương, giờ đây
giữ một chức vụ trong
Cục bảo vệ sức khoẻ thuộc Uỷ ban
quân sự đảng cộng sản
Trung Quốc. Anh
tôi rất sung
sướng, rất mong
tôi trở về.
“Ở Trung
Quốc còn
thiếu các
bác sĩ lành nghề – anh
tôi viết –
chính phủ mới đảm bảo cho
chú công việc tốt,
toàn thể gia
đình ta lại đoàn
tụ”.
Tôi
băn khoăn lắm. Cuộc sống ở
Sydney đang yên ổn và tốt đẹp. Vợ và mẹ tôi nếu muốn, có
cơ hội đến đây
được với tôi.
Ngoài ra, tôi có thể giúp
mẹ tôi ở Bắc Kinh
tiền
nong.
Chỉ có một điều tôi
tin chắc, ở Úc,
không khi nào tôi thành bác sĩ phẫu thuật não, vì tôi là người
Trung Quốc. Dĩ
nhiên, tôi có thể kiếm được hàng
đống tiền, nhưng cuộc sống
hoàn toàn không thoải mái,
luôn luôn mặc cảm mình
là người xa lạ bị đày
ra nước
ngoài. Đây có phải là
lòng yêu nước của tôi
không?
Gần đến lễ Phục
Sinh. Tôi dự định đi
chơi với anh
bạn thân
Alex Dương.
Alex sinh ở Úc,
nhưng vẫn cố gắng giữ nhiều
phong tục
Trung Quốc. Anh
ta và vợ làm
việc chăm
chỉ. Họ có một cửa hàng
tạp hoá ở phố
Elizabeth.
Khi
tôi gặp,
Alex ngay lập tức nhận xét
tôi như kẻ mất hồn. Tôi
kể cho
anh ta nghe tất cả.
- Cần phải nghĩ
cho kỹ đấy –
Alex nói.
- Anh
tính thế nào?
– tôi hỏi.
của Alex
thức tỉnh
lòng yêu nước của tôi.
Tôi hoàn toàn không để ý ở đâu
kiếm được nhiều tiền hơn. Nếu những người cộng sản đưa
Trung Quốc đến giàu
có, tôi sẵn sàng
hy sinh cho hạnh
phúc cho tổ quốc.
Nhưng
Alex nói đúng, tôi phải biết tất cả một cách
tỷ mỉ. Ngay
chiều đó
tôi viết thư cho
anh tôi.
Đầu
tháng 5 tôi nhận được thư trả lời. Anh
tôi lại giục tôi
về nước. Anh
kèm thư của thủ trưởng của anh,
Phó Liêm Chương,
phó cục trưởng cục bảo vệ sức khoẻ thuộc Uỷ ban
quân sự đảng cộng sản
Trung Quốc. Phó
Liêm Chương, ở nước
ngoài gọi
Nelson Phó, một nhà
y học nổi tiếng của
Trung Quốc. Đồng thời ông
cũng là bác sĩ duy nhất được đào
tạo ở phương Tây
tham gia Vạn Lý
Trường
Chinh. Năm 1934, trước khi
có cuộc Vạn Lý
Trường
Chinh ông chữa cho
Mao khỏi sốt rét,
trong thời gian
chiến
tranh ông trong Ban bảo vệ sức khoẻ lãnh
tụ đảng cộng sản
Trung Quốc ở Diên
An.
Thư của Phó
ngắn ngủn, nhưng
trong đó sự nồng nhiệt,
chân thành. Ông rất vui
mừng chờ đón,
động
viên và kêu gọi các
bác sĩ ở hải ngoại nên
trở về. Về công
việc tôi ở Bắc
Kinh, lương lậu ông
không đả động đến, chỉ viết bâng
quơ, công
việc rất phù
hợp với tài
năng của tôi.
Tôi được ông
tâng bốc sẽ được giữ chức vụ cao,
yêu cầu tôi
trở về. Vì đảng cộng sản rất thiếu thày
thuốc lành
nghề. Tôi
nghĩ mình đã tìm thấy chỗ đứng ở nước
Trung Hoa mới. Tôi
quyết định về nước
ngay.
Alex Dương tổ chức bữa tiệc tiễn biệt. Có
hai người
Trung Quốc,
cũng là bác sĩ. Họ bảo, khi
nào đến Bắc Kinh
viết thư báo
tin, nếu tôi
thấy khó
sống, họ có thể giúp
quay lại Úc.
Tôi chẳng khi
nào viết cho
anh ta cả. Ba mươi sáu
năm sau, năm 1985 tôi ở Úc
theo lời mời của hiệp hội bác
sĩ Úc, tôi đến đại lộ
Elizabeth tìm Alex Dương. Nhưng tất cả đã
thay đổi, cửa hàng
nhỏ của anh
không còn nữa. Tôi
không tìm thấy Alex
Dương.
Thế là
tôi và Lý Liên lại đoàn
tụ ở Hong
Kong. Giữa
tháng 5-1949 Hong Kong hỗn loạn.
Hàng nghìn người đã
chạy loạn sang
đây tránh hoạ cộng sản và
hàng nghìn người chuẩn bị quay
về quê
quán. Hiện tượng này
thật lạ lung,
không bình thường.
Khi gặp
Danny Hoàng, tôi kể về quyết định trở về Trung
Quốc, anh
ta lắc đầu quầy quậy:
- Chẳng lẽ anh
không thể ở lại đây
và làm việc với tôi?
Tôi kể cho
anh ta thư của Phó
Liêm Chương.
Danny buông lời:
-
Thôi, ông tự quyết lấy. Nếu mọi việc xuôi
xẻ, viết cho
tôi. Có thể, cả tôi
cũng trở về.
Tôi chẳng bao
giờ viết cho
anh ta được cả.
Tôi
cùng Lý Liên tới thăm
ông Trương
Thành Đức,
giáo sư cũ của nhà
tôi, Đại học Phục Đan.
Ông cũng về Bắc
Kinh. Người ta xếp ông
làm đại biểu Hội Hiệp thương
chính trị Trung
Quốc. Đảng cộng sản lôi
kéo thêm các trí thức
không đảng
phái vào một mặt trận duy
nhất,
trong diễn đàn
được triệu tập để bày tỏ cho
các lực lượng dân
chủ và giải quyết vấn đề chính
quyền
trong nước.
Chúng tôi nghĩ lúc đó chính phủ cộng sản sử dụng tri
thức để đưa đất nước ra
khỏi khủng hoảng.
Phiên họp đầu tiên
Uỷ ban
hiệp thương được tổ chức cuối
tháng 9. 1949, đã đi tới quyết định
thành lập nước Cộng hoà
nhân dân Trung Hoa và bầu ra
chính phủ mới do
Chủ tịch Mao
Trạch
Đông đứng đầu. Phó
chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ,
bạn chiến đấu, bà
Tống
Khánh Linh, vợ goá của nhà
cách mạng vĩ
đại Tôn
Trung Sơn, người đã
đánh đổ triều
Thanh và lập nên
nước Cộng hoà
Trung Hoa từ 1912.
Nhưng sau
này mới rõ,
Uỷ ban
Hiệp thương
chính trị nhân
dân chỉ là
cây cảnh cho
nền dân
chủ – mọi việc điều hành
trong nước nằm
trong tay những người cộng sản. Uỷ ban
Hiệp thương
chính trị nhân
dân chỉ bình
cắm hoa
cho vui mắt nhưng
hoàn toàn vô tích sự. Ai
đó trong số thành
viên Uỷ ban
này phát biểu bày
tỏ quan
điểm
không hợp quan
điểm những người lãnh
đạo cộng sản sẽ bị buộc tội hữu
khuynh, bị lăng
nhục thô
bạo, trừng phạt nặng. Một
trong số những người như thế là
giáo sư Trương
Thành Đức. Năm
1957 người ta
buộc tội ông
hữu
khuynh, tống ông
đi cải tạo
trong trại lao
động khổ sai.
Ông được phục hồi hai
mươi năm
sau, được trả tự do,
thành một ông
già mù loà, không nơi nương tựa.
Một người bạn sống với tôi ở Hong
Kong, giới thiệu tôi
một người tên
là Dương.
Ông này có chức vụ trong
giới lãnh
đạo đảng, phụ trách
vấn đề lôi
kéo các nhà chuyên môn từng bỏ ra nước
ngoài quay trở về Trung
Quốc. Anh
bạn thân
khuyên tôi nên biếu cho
Dương một món
quà để ông
ta đảm bảo việc trở về Trung
Quốc được tốt đẹp.
- Nhờ ông Dương,
anh có thể kiếm được một công
việc thu
nhập cao ở một trường y
khoa ở Bắc
Kinh. Có thể chiếc đồng hồ Rolex
chả hạn, để được ông ấy cho
về làm ở Bắc
Kinh, việc trả một món
quà như thế cũng
không phải quá
đắt.
Chẳng lẽ ông Dương
cũng nhận những khoản tiền hối lộ bẩn thỉu từng được coi
là nguồn gốc bệnh dịch ở Trung
Hoa hàng nghìn năm nay. Tôi nghĩ rằng nạn tham nhũng xa lạ với những người cộng sản,
chính vì thế họ đã thức tỉnh được hàng
triệu người đứng dậy chiến đấu chống Quốc dân
Đảng
tham nhũng. Tôi từ chối tặng quà
cho ông Dương. “Đảng cộng sản chân
thực,
không dễ mua
chuộc –
tôi nói với các
bạn –
tôi sẽ tự kiếm sống bằng khả năng
và trí tuệ của
mình”.
Từ đó
tôi không gặp Dương nữa. Nhưng một thời gian
sau ông Dương xuất hiện trên
chính trường với tư cách
là người lãnh
đạo đảng dân
chủ. Thực tế đây
là thủ đoạn
chính trị đối với dân
chủ. Dương chưa bao
giờ ra khỏi hàng
ngũ đảng cộng sản
Trung Quốc như nhiều đảng
viên khác trong Hội hiệp thương
chính trị nhân
dân đeo mặt nạ dân
chủ.
Năm
1956 tôi kể cho
Mao câu chuyện về ý
nghĩ hối lộ Dương. Chủ tịch cười phá
lên:
- Anh
đúng là con mọt
sách.
Mao
trách:
- Sao
anh keo kiệt thế. Anh
chả hiểu quan
hệ xã hội giữa người với người. Cá
không thể sống
trong nước
trong được. Anh
nghĩ khi tặng người khác
một món
quà là điều đáng
ngạc
nhiên à? Chẳng lẽ Quách
Mạc Nhược
không tặng được tôi
chiếc đồng hồ khi hội đàm ở Trùng
Khánh hay sao?
Mùa
Xuân 1949, Hong Kong giống như ong vỡ tổ. Nhưng tôi
còn trẻ, bồng bột đầy ảo tưởng.
Tôi trở về tổ quốc, nhận việc tại một bệnh viện đa
khoa đứng đầu ở Bắc
Kinh. Tôi có thể sống xứng
đáng với truyền thống gốc gác
của tôi
và tin vào lời thề của
Hippocrat chữa bệnh, cứu chữa tất cả đồng bào
giàu cũng như
nghèo. Tôi sẽ trở thành
nhà phẫu thuật nơ-ron
xuất sắc. Y học là
kho báu của tôi
để xây dựng nước
Trung Hoa mới, thịnh vượng,
hùng mạnh, nơi
không còn bất
công, tham nhũng.
Vợ chồng tôi
rời Hong
Kong về Bắc Kinh
vào giữa
tháng sáu 1949. Tính ra tôi xa thành phố chôn rau cắt rốn gần 17
năm.
Lý Chí Thoả Nguyễn Học và Lâm
Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh
The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Mời đọc: Chương kế tiếp [3]
No comments:
Post a Comment