Sunday, May 12, 2013

Thơ YA HSIEN

YA HSIEN (hay YA XIAN) sinh năm 1932 tại Hồ-nam, Hoa lục. Gia nhập hải quân khi còn rất trẻ và khi lui về Đài-loan, đã rời quân ngũ để làm nghề xuất bản. Ông trở thành một nhà thơ và một nhà phê bình văn nghệ tên tuổi. Dường như ông đã thôi làm thơ từ năm 1965, nhưng thơ ông đã in đậm nét trong thơ Trung-hoa những năm 1950 và 1960 và ông vẫn được kính trọng như một nhà thơ lớn. Tập Vực thẳm (Shenyan) xuất bản năm 1968, gồm 60 bài do chính ông chọn lựa từ các tác phẩm của mình, được coi như một trong những tác phẩm quan trọng nhất của thơ Trung-hoa ở thế kỷ XX. Bản dịch dựa trên bản Pháp văn của Martine Vallette-Hémery. (DC.)




MUỐI
Bà cụ già chất phác không bao giờ không không bao giờ nhìn thấy Dostoievski. Vào mùa Xuân bao giờ bà cũng vẫn la lên cùng một tiếng: Muối! Muối! Cho tao một nắm muối! Và các hiền nhân ca hát trong đám cây du. Năm nay, đậu không ra hoa, ấy là tạm nói thế.
Những con lạc đà của đại thần trông coi muối thủng thẳng bước dọc theo bờ biển, cách đó bảy trăm dặm. Không bao giờ người ta thấy một chùm rong trong đôi ngươi mù lòa của bà cụ chất phác. Bà vẫn la lên cùng một tiếng: Muối! Muối! Cho tao một nắm muối! Các hiền nhân phá lên cười, hất tuyết tung tóe lên bà.
Vào năm một nghìn chín trăm mười một, nghĩa quân tới Wuchang*. Nhưng bà cụ đã treo lên một cây du những dải băng bó chặt đôi chân bà và như thế bà đã sa vào nanh vuốt của bầy chó hung dữ núp dưới bóng những con kên kên màu xám tro; trong lúc tiếng nói được nhân lên phóng trong gió những lời than van ai oán của bà: Muối! Muối! Cho tao một nắm muối! Năm nay, đậu hầu như hết thảy đều ra hoa trắng. Dostoievski cũng không bao giờ không không bao giờ nhìn thấy bà cụ già chất phác.
---------------------
* Cuộc nổi dậy khơi nguồn cho sự sụp đổ của triều đại Mãn châu của nhà Thanh (ND.)
KHỞI HÀNH
Chúng tôi đã nhổ neo. Dưới vầng mặt trời sạm đỏ
Sẽ dài lâu hoặc sẽ chẳng dài lâu mãi
Trong cơn gió không mang lấy một vị gọi là thiên sứ ấy,
Biển, xanh cho chính ánh mắt biển
Mọi người siết chặt giữa hai hàm răng
Bóng những cột buồm và dây nhợ.
Chúng tôi đi về phía sau nhìn nơi lằng nước mười bảy năm của chúng tôi
Và như thế tôi đã rảo qua trọn tiếng thở dài ở trên boong tàu; ngồi
Trên tấm thảm nàng đã trải ra cho tôi với nụ cười của những ngày quá vãng,
Tôi mơ màng tưởng nghĩ và nín lặng suốt buổi chiều.
Ở La Havane đêm nay người ta sẽ phạm tội sát nhân; đe dọa
Tìm kiếm một số nhà trên những cánh cửa. Bầy dơi-dơi lui tới những phòng tranh ở phía sau tòa thị sảnh
Từ một cỗ dương cầm nỗi buồn và vẻ đẹp bước ra một chiếc dù đen êm ái.
(Đáng trách làm sao, nàng! Nàng ngủ
Giữa món rễ cải đắng rang say và trái sơn-tra dại.)
Bừa bộn hơn cả những khu chợ lớn nhất, họ mang
              Những dáng vẻ khuôn mặt
              Những dáng vẻ công nhân viên sở bưu điện
              Những dáng vẻ đường phố
              Những dáng vẻ của tuyệt vọng tuyệt vọng và tuyệt vọng
Trên con tàu bằng đất sét mênh mông mà số mệnh là chìm đắm
Họ hú lên với tiếng nói của đôi mắt đã mất mất khà năng suy nghĩ
Nắm chặt hệ thần kinh dệt bằng sợi gai, nhưng đã quên mất kéo...
Và như thế
Họ tiếp nhận như phải vậy
Tấn bi kịch này.
Điều ấy làm tôi vui.
Đứng về bên tả con tàu, tôi giao chiếc cà-vạt của mình cho gió và tôi mỉm cười.

No comments: