Đêm
Thánh Nhân - tiểu thuyết dày hơn 600 trang, Nhà xuất bản Văn học, in
giữa 1999 là tác phẩm dài hơi nhất của Nguyễn Đình Chính.
Đêm
Thánh Nhân một bộ tiểu thuyết huyền ảo kết hợp hai thể loại truyền kỳ
và quái đản. Cuốn I mới xuất bản, phần II được hứa sẽ ra mắt năm 2000,
kể chuyện một ông bác sĩ già bị kỷ luật Đảng cấm hành nghề. Bác sĩ Cần
chỉ được trông coi nhà xác một bệnh viện Hà Nội, cuối đời bị bệnh tâm
thần nhẹ, bỏ việc đi lang thang, và đã gặp nhiều sự cố, nhiều nhân vật
kỳ lạ trên lộ trình phiêu lưu vô định của mình. Cuối cùng B.S Cần ở tuổi
70 tấp vào một trại cùi tại Tây Nguyên. Cảnh sống của bệnh nhân thuộc
nhiều sắc tộc thiểu số giúp ông dần dần tỉnh trí "Dường như BS Cần đã
trở lại là một người khỏe mạnh bình thường. Trí nhớ đã về lại trong hộp
sọ của ông" (tr. 546).
Cốt truyện: Cớ và cắc cớ
Để
tạo không khí truyền kỳ, tác giả dành chương đầu, non 100 trang cho đời
sống chung quanh và trong nhà xác do nhân vật chính, BS Cần, trông coi.
Ông này bị liệt dương từ năm 45 tuổi, nhưng bốn năm sau đó bị kết tội
hủ hóa với một nữ bệnh nhân vị thành niên, người dân tộc Tày; tức là vi
phạm ba tội cùng một lúc: về đạo đức, về luật hôn nhân, và… chính sách
dân tộc (tr.75) . Ông bị án kỷ luật "khai trừ ra khỏi Đảng, bị cách chức
và đuổi ra ngoài biên chế" (tr.78), và dĩ nhiên là bị vợ bỏ.
"Nhất
là sau khi ly dị với bà Ngót (Đảng viên cấp trên), bác sĩ Cần không thể
ngẩng đầu lên mà đi lại được nữa. Ông đã cạn đường sống" (tr.79). Đây
là kỹ xảo của tác giả: ngay từ đầu đã chọn một nguyên liệu đa năng: một
bác sĩ đã bị liệt dương còn can tội hủ hóa, và bị kỷ luật Đảng, dĩ nhiên
là lâm bệnh tâm thần rôi lại phải sống với ma: với vật liệu tiền chế
như thế, tác giả tha hồ kể chuyện hấp dấn: từ tính dục đến chính trị, xã
hội. Mà cứ kể chơi chơi, khơi khơi, hư hư thực thực. Thỉnh thoảng bắn
ra những mũi tên chính xác vào nhiều mục tiêu thú vị. Mà cũng bắn chơi
thôi. Kiểu bách bộ xuyên tường.
Phiêu lưu và truyền kỳ
Đêm
Thánh Nhân là một tiểu thuyết phiêu lưu. Tác giả từ tốn cho rằng mình
theo "thể loại du hý chương hồi cũ rích" (Lời tựa), thật ra ông nắm rất
vững mọi kỹ thuật kể chuyện, từ chuyện truyền khẩu Đông – Tây đến tiểu
thuyết hiện đại. Chủ yếu là tạo không khí hư hư thực thực như truyện
quái đản khoa học ảo tưởng của Tây Phương. Người sống với ma, nói chuyện
với ma, một mặt hấp dẫn người đọc, mặt khác giúp tác giả nêu lên những
vấn đề xã hội trầm trọng dưới dạng hư cấu, làm như không đụng chạm đến
ai.
Tiếp
theo là tác giả kết hợp thể truyện ngắn truyền kỳ với thể du ký, là
chuyện dài từ Tây Du ký phương Đông sang Du ký Gulliver phương Tây, tác
giả không cần cấu trúc chặt chẽ, mà để tự do cho nhân vật đi từ nơi này
đến nơi kia, gặp nhiều người nhiều cảnh lạ lùng. Một mặt độc giả không
nhàm chán, mặt khác được thấy nhiều cảnh sống khác nhau, từ những màn
tính dục gay cấn, đến cảnh cướp của giết người, cảnh lễ hội rộn ràng âm
thanh và màu sắc của các sắc tộc thiểu số Tây Nguyên.
Truyền kỳ và truyện ký
Để
giữ tính cách truyền kỳ, tác giả không xác định địa danh, thỉnh thoảng
còn nói đến "thị xã không tên" (tr.225), hay "Thành phố (viết hoa) khá
to" nhưng lại cho biết chỗ này nằm trên đường sắt, chỗ kia gần bến cảng,
xứ mỏ nồng nặc mùi than trộn lẫn mùi cá biển" (tr.213) hay "thị trấn
rợp bóng nhãn lồng (tr.249) khiến người đọc liên tưởng đến những địa
điểm có thực, thậm chí tác giả còn nói đến thị trấn biên giới có tên
"Cốc Lố" làm người đọc nghĩ ngay Lào Cai và Cốc Lừu. Bí quyết của truyện
huyền ảo là dung hòa liều lượng huyền ảo và hiện thực; huyền hoặc quá
sẽ thành huyễn hoặc; hiện thực quá sẽ thành dung tục. Nhẹ chất thực thì
truyện không hay; nhẹ chất ảo thì truyện không bay. Truyện huyền ảo dễ
viết và khó hay, nhất là khó có giá trị sâu sắc, vững bền. Dễ viết, vì
kiến trúc tự do, vật liệu mỏng nhẹ, nhưng khó vững bền khi thiếu nền
móng xây dựng trên kiến trúc nhân văn và kinh nghiệm sống hay chỉ vì tác
giả không nắm vững vàng kỹ thuật: giấc mộng con (1932) của Tản Đà là ví
dụ một thất bại. Truyện Lơ Hóc-la (Le Horla) của Mô-pác-xăng, từ 1887
(Guy de Maupassant) cũng như phim Bộ hồ sơ X (XGiles) hiện nay, không có
gì sâu sắc nhưng được ham thích vì kỹ thuật.
Nguyễn
Đình Chính biết rõ thị hiếu độc giả Việt Nam hiện nay và nắm vững những
kinh nghiệm truyền kỳ đã có từ xưa và truyện quái đản thịnh hành gần
đây, và lối kể chuyện dân gian. Ông khéo chia hồi, phân cảnh 10 chương
vừa liên hoàn vừa độc lập. Giữa chương nọ chương kia, nhân vật chính
thường ù té chạy; chuyển mạch đơn điệu nhưng phù hợp với văn chương khẩu
chiến.
Cũng
như cách gọi tên nhân vật dài dòng: Bác sĩ Trương Vĩnh Cần, Bác sĩ
Chiểu, Cô Kim Thoa, Mùi Cá Ngạnh, Mùi Thuyền Trưởng, Thạch Gà Gáy,là
theo lối kể chuyện xưa. Thành phố không tên, bỗng dưng từ 1975 mọc lên
108 cao ốc, sản xuất 108 tấn bụi, cạnh hồ 108 héc-ta (tr.143), v.v.v…
con số 108 (9 dương cùng x 12 chi = 108) gây ấn tượng huyền hoặc, đồng
thời nhắc đến con số anh hùng Lương Sơn Bạc – hay biết đâu chẳng là số
nhà (khá nổi tiếng) của nhạc sĩ Văn Cao? Những chi tiết vụn vặt như thế,
dù ở tiềm thể, cũng tạo được ảo giác thân thuộc giữa một thế giới lạ
lùng: âu cũng là một bí quyết của truyền kỳ.
Hiện thực và Liêu trai
Một
đoạn văn truyền kỳ điển hình cho Đêm Thánh Nhân là quan hệ luyến ái
giữa Bác sĩ Cần và cô bé Ma Thị Thảo. nguyễn Đình Chính là một phù thủy
cao tay ấn khi sáng tạo ra nhân vật phụ Ma Thị Thảo chỉ xuất hiện thấp
thoáng trong một vài trang đầu nhưng vừa là một yếu tố "phá quấy"
(élément perturbateur theo nghĩa của V.Propp) vừa là nhân vật cứu tinh,
một thứ chìa khóa giải mã cho câu chuyện. Tạo khoái cảm cho Bác sĩ Cần
đã liệt dương nhiều năm, cô đã gây tai họa, làm sụp đổ cả một cuộc đời;
mặt khác, cô đã giải phóng cho nhân vật về mặt tình dục lẫn xã hội. Nhờ
có bản án "hủ hóa" mà bác sĩ Cần mới có cơ hội lên đường phiêu liêu khám
phá ra định mệnh đích thực của mình. Cô gái Tày 16 tuổi, có thể sống
tưởng tượng như một thánh nữ đồng trinh, đã có vai trò khai lộ
(initiatique) tính dục cho một ông già bất lực 50 tuổi.
"Có
thể nói cuộc sống sinh hoạt tình dục của bác sĩ Trương Vĩnh Cần từ khi
lấy vợ đến khi bị liệt dương là rất khấp khiễng tẻ nhạt và đơn điệu đến
mức sỉu xìu như cơm thiu. Đời bác sĩ Cần có một chút ngày hả hê sung
sướng thỏa mãn ấy chính lại là những ngày ông h\gian díu với cô bé Ma
Thị Thảo. Cho đến bây giờ mỗi khi nhớ lại bác sĩ Cần vẫn không thể hiểu
được tại sao một cô bé người Tày mười sáu tuổilại biết được nhiều ngón
bài làm tình lạ lùng kỳ quặc đến như vậy. Và cho đến bây giờ đã là một
bợm rượu rồi đã nếm không biết bao loại rượu trên đời này rồi mà ông vẫn
cứ như vẫn còn ngửi thấy mùi rượu thơm kỳ quái bí ẩn tỏa ra từ trong
cái nậm quả bầu khô cô Thảo vẫn đeo tòng teng ở ben lườn. Da cô Thảo
không trắng người cô Thảo không mềm mại tóc cô Thảo không dài và hơi thở
của cô thậm chí còn hơi có mùi hôi nồng ngai ngái như mùi cỏ dại bị dẫm nát…". (tr.88-89).
Về
cái tên Ma Thị Thảo: Họ Ma vì là người Tày, nhưng còn có nghĩa là Ma
Quái như một nhân vật trong liêu trai. Ma Lực huyền bí của thiên nhiên
hay của tình yêu đã chuyển hóa khả năng tính dục của một đời người, điều
mà y học không làm nổi. Đồng thời hóa giải cho một định mệnh. Tên Thảo
là mùi hương hoa cỏ của rừng núi hoang sơ, " mùi cỏ dại bị dẫm nát " làm
người đọc liên tưởng đến những câu thơ của Đinh Hùng:
Nàng lớn lên giữa mùa xuân hoa cỏ
Lửa linh hồn u ám bóng non xanh
Ngoài thiên nhiên nở bừng thân mỹ nữ
Nàng yêu ta huyền hoặc mối kỳ tình
(Mê Hồn ca).
Cô
Ma Thị Thảo và một số nhân vật khác trong Đêm Thánh Nhân, như Thương
Ơi, vừa có đời sống xương thịt, vừa lung linh huyền ảo lại mang thêm
tính cách biểu tượng. Tác phẩm do đó mà hàm súc, vừa giải trí vừa làm
suy nghĩ. Người đọc có thể thưởng thức tác phẩm ở nhiều mức độ khác
nhau: đó cũng là kết quả một thành tựu văn học, dù huyền ảo hay không
huyền ảo.
Nhân vật: Người và Ma
Trong
một cấu trúc rộng mở như vậy, tác giả đã tạo ra nhiều tuyến nhân vật,
vừa độc đáo vì tính cách truyền kỳ vừa điển hình vì tính cách hiện thực.
Nói chung, tác giả ưu tiên cho một diện nhân vật thuộc "những người dân
bình thường có cuộc đời vất vả, éo le, đầy những lầm lỗi ăn năn. Họ ở
những bậc thang thấp nhất của xã hội…" (Lời tựa). Người đọc có thể phân
biệt được nhiều loại hình:
Nhân
vật ma như bà Phạm Thị Nhàn hay Phạm Văn Cổn ma Gia Rai gốc Kinh. Bà
Nhàn lấy chồng được mấy hôm thì phải xa chồng trở thành vợ liệt sĩ
(1960). Bà là Đảng viên gương mẫu tiết liệt đoan trinh, thừa ba đảm
đang, ba sẵn sàng đến độ… có thai với đứa cháu thương phế binh, vừa mất
trí, vừa bị cụt hai chân đến háng "một con cóc khổng lồ, cái con
cóc-người đó bò dần về phía giường tôi" (tr.130). Bà bị hạ tầng công tác
xuống làm trưởng ga xép Thuận Thiên rồi chết ở đấy. Thuận Thiên là tên
một nhà ga tưởng tượng nhưng là niên hiệu đầu tiên của vua Lý Thái Tổ,
và là tên của vợ An Sinh Vương Trần Liễu đang có mang thì bị Trần Thủ Độ
ép phải lấy vua Trần. Những địa danh như vậy gợi những ấn tượng truyền
kỳ cho người đọc. (Lời bàn ngoài đề: Thuận Thiên tuy là ga xép, nhưng có
tàu qua lại đôi lần mỗi ngày; còn triết gia Trần Đức Thảo phải giữ một
cái ga không còn tàu qua lại, trước khi được đề bạt lên Ba Vì giữ bò).
-
Tuyến nhân vật khác là những hảo hán như thuyền trưởng Mùi Cá Ngạnh,
hay tướng cướp Thạch gà gáy, cựu bộ đội đặc công, lập băng đảng cướp của
giết người, đã từng giết ba mươi nhân mạng và lãnh án tử hình. Trong
khi chờ đợi bị xử tử, Thạch gà gáy bị nhốt chung với tử tù Bác sĩ Cần.
Ông này bị công an bắt nhầm vì nhầm nhân diện với một tử tội khác, rồi
được phóng thích "với lời xin lỗi của người có trách nhiệm" (tr.164).
May mà chưa bị hành quyết… nhầm.
Phái tính và dục tính
Tuyến
nhân vật nữ, thường thường là dung nhan khả ái, xuất thân từ những hoàn
cảnh khó khăn, nạn nhân của nhiều tròng áp bức tận tụy, cố cùng và mang
lại, hay hứa hẹn hạnh phúc cho kẻ khác. Họ có thể là người đàn bà ăn
xin kiêm gái điếm đầu đường xó chợ (tr.43) xuất hiện từ những trang đầu
đến cô Hà, một thiếu nữ nông thôn nghèo khó lên thành phố làm thợ rồi
thành gái điếm; sau bao nhiêu gian truân cuối cùng mắc bệnh Sida. Họ
không một lần được ở lầu Ngưng Bích đợi chờ một Thúc Sinh, mà chỉ gặp
toàn súc sinh cỡ Rô Be Bảo Quýt "Việt kiều yêu nước giả hiệu (ông này
giả hiệu Việt kiều chỉ để mua dâm, chứ không viết thư chính trị gây gổ
với… Trần Độ: ngoài đề). Họ là cô gái huyền thoại Thương Ơi bước ra từ
cổ tích, hay cô Kim Thoa gốc Thượng du miền Bắc hồn nhiên trong sáng
"tâm hồn còn vô tư chưa có cái khả năng tuyệt vọng" (tr.558) phiêu lưu
đến một trại cùi Tây Nguyên, "mở ra một thông lộ kỳ lạ cho cuộc đời"
(tr.557) một quá trình khai thông (passage initiaque) trong truyện dân
gian phương Tây. Cô ấy tìm được hạnh phúc và mang lại niềm vui cho cuối
chuyện.
Đêm
Thánh Nhân đề cao phẩm chất và vai trò người phụ nữ mà tác giả thường
gọi là Thiên Sứ khiến ta nhớ đến một câu thơ Aragon, nhại theo lời Marx,
được phổ biến vì được phổ nhạc:
"Đàn
bà là tương lai của loài người" (La femme est l'avenir de l'homme). ý
nói, hạnh phúc của nhân loại trong tương lai tùy thuộc ở tình yêu, ở đôi
lứa, và ở người phụ nữ.
Nét
đặc biệt của Đêm Thánh Nhân là đời sống tình dục qua người phụ nữ. Một
mặt họ vẫn là biểu tượng, đối tượng hay dụng cụ tình dục, nhất qua các
nhân vật gái điếm. Mặt khác họ có nhu cầu, sinh hoạt tình dục. Họ thường
chủ động khi làm tình. Tình dục chiếm nhiều trang, nhiều đoạn trong tác
phẩm. Tác giả có lúc lả lơi, suồng sã, thô bạo, thậm chí dung tục;
nhưng có lúc thơ mộng, dí dỏm, siêu thoát thậm chí nghiêm trang. Đoạn
cuối, qua đời sống tính dục hồn nhiên của các cô gái sắc tộc ở Tây
Nguyên, tác giả muốn bình thường hóa hoạt động sinh lý ở mỗi cá nhân,
thường bị dồn nén, vì nhiều lý do và hoàn cảnh khác nhau, nhất là ở Việt
Nam, trong một giai đoạn chưa xa.
Nhìn chung, trong đề tài tính dục, ngòi bút Nguyễn Đình Chính có nghịch ngợm nhưng lành mạnh.
Điệu nghệ và Đạo nghĩa
Đêm
Thánh Nhân cấu trúc theo truyện kể dân gian, nói vậy là phải xét theo
hai mặt hình thái học (morphologie) mà V.Propp đã phân tích rốt ráo. Mặt
khác là nội dung, cái phần tư tưởng tham dự vào cấu trúc như một phương
tiện dựng truyện chứ không phải là một đối tượng của tư duy. Khi cụ
Nguyễn Đình Chiểu vào truyện bằng câu "trai thời trung hiếu làm đầu" thì
không phải chỉ để giảng dạy luân lý, mà còn tạo chú ý và đồng thuận của
người nghe "nói Văn Tiên". Có người nghe, thì mới "nói thơ", mới kể
chuyện Tây Minh được. Hay dở là việc đến sau, đến với người nghe thời
đó, chứ không phải hay – dở theo quan điểm phê bình ngày nay.
Đêm
Thánh Nhân, phần nào được hướng theo quan niệm dân gian: ở hiền gặp
lành, tích ác phùng ác, một kỹ thuật dựng chuyện của Nguyễn Đình Chính
chứ không nhất thiết là nhân sinh quan của Nguyễn Đình Chính.
ở
hiền gặp lành: ông cụ Cần ngớ ngẩn, già nua, yếu đuối nhưng đi đâu cũng
được ơn trên phò trợ. Ông qua bao nhiêu tai ác mà con người bình thường
không có cách gì vượt qua nổi. Phép lạ cứu ông thường là một phụ nữ, bà
tiên hiện đại, có khi xuất hiện dưới dạng một cô gái điếm rẻ tiền. Cuối
cùng khỏi bệnh tâm thần. Như một phép lạ. "Thông thường người bị bệnh
tâm thần, dù thể nhẹ, mà cứ bỏ đi vật vờ quàng xiên như thế thì bệnh
càng nặng hơn. Nhưng với ông bác sĩ già này thì không phải như vậy". Tác
giả đã tự giải mã trong Lời tựa và xác định đã "cố gắng lấy cái đó làm ý
tưởng tiểu thuyết của mình". Tôi nhấn mạnh: "ý tưởng tiểu thuyết không
phải là… ý tưởng. Độc giả, có khi cả người phê bình có thể sơ ý và nhầm
lẫn khái niệm hay phạm trù.
Tích
ác phùng ác, ác giả ác báo, quả báo nhãn tiền… là trường hợp cán bộ
Nguyễn Văn Sự phụ trách tổ chức Đảng, người đã "tình cờ" (tr.64) phát
giác cảnh hủ hóa của bác sĩ Cần và tổ chức "đánh úp" (tr.78), ông đã bị
trời phạt: thân bại và danh liệt (tr.220), vợ bỏ theo trai… vượt biển
(!) (tr.233); đến khi chết, phần mộ bốc lên mùi xú uế, đến nỗi cỏ quanh
mộ cháy xém… chim sẻ cũng rủ nhau bay tuốt…" (tr.235).
Một
ý tưởng của tác giả, lần này không nhất thiết phải là ý tưởng tiểu
thuyết, là niềm tin vào thiện căn ở con người. Những người tốt thường là
những người thất học, hay ít học, thậm chí còn chưa được xã hội hóa như
cô gái câm Thương Ơi, hay anh Phơn, thanh niên người dân tộc ở biên
giới Việt Hoa. Người có học như bác sĩ Chiểu cũng chỉ tìm thấy lý tưởng ở
một trại cùi heo hút trong rừng núi Tây Nguyên, bên cạnh những bộ tộc,
sắc tộc, cổ sơ nghèo khó, và anh cũng đã sống hạnh phúc ở đó với cô Kim
Thoa, một cô gái bỏ học, bỏ cảnh phồn hoa chợ búa, để về lại với thiên
nhiên hoang dã.
Cảnh
họ làm tình đắm say cuồng nhiệt ở phần cuối truyện dù có chiều theo thị
hiếu độc giả, cũng hàm súc ý nghĩa nhân đạo. “Khi cô Kim thoa chủ động
dắt tay anh chui vào ổ dương xỉ bên bờ suối thì bác sĩ Chiểu chủ động ôm
ghì lấy…” (tr.571). Cảnh tình dục này, về mặt cấu trúc là màn vĩ thanh
vừa hồi âm vừa đối lập với màn hài thanh ở đoạn đầu khi cô điếm ăn mày
đến tự nguyện làm tình với ông già liệt dương bên cạnh nhà xác. Ngoại
cảnh, nội tâm và tình tiết hoàn toàn tương phản, như một thiên nhiên từ
đêm tối chuyển sang rạng đông rực rỡ.
Đêm Thánh Nhân, Ngày Hoàng Đạo
Đêm
Thánh Nhân, từng trang từng trang mở rộng không gian, từ căn phòng nhỏ
bên nhà xác, đến một ga xép và những chuyến tàu, đến một thị trấn và
biên giới, cuối cùng đến rừng núi bạt ngàn trộn lẫn nhiều sắc tộc, từ
cảnh làm tình trong tủ áo trong phòng bệnh viện, đến cảnh ân ái giữa
thiên nhiên: không gian ới rộng kích thước và nhân gian nới rộng vòng tự
do. Trong khi đó, thời gian, ngày lại ngày, như lùi về tiền sử, từ
những xác chết ướp lạnh trong các hộc tủ nhà xác thành phố, đến lễ “bỏ
mả”, tang lễ rộn ràng của bộ tộc Gia Rai. Điều đó không có nghĩa là tác
giả từ khước văn minh: hai vị bác sĩ và một linh mục giữa một trại cùi
trong rừng núi, thêm một cô gái tân thời chuẩn bị mở lớp học cho trẻ em
sắc tộc chứng tỏ tác giả vẫn tin vào khoa học và tiến bộ; nhưng niềm tin
ở đây có dè dặt, phê phán, gạn lọc. Và dường như cũng có ước mơ một
nhân chủng mới, nảy sinh từ hoang phế của một xã hội rệu rã
Một thành tựu văn học
Tóm
lại Đêm Thánh Nhân của Nguyễn Đình Chính, tiểu thuyết vừa truyền kỳ vừa
quái đản là một thành tựu của văn chương huyền ảo, một thể loại văn học
mới, dù rằng đã có gốc rễ xa xưa tại Việt Nam, một thể loại đang đà
phát triển trên thế giới, dường như để phản ứng với đời sống khoa học,
kỹ thuật và đô thị đang siết chặt vòng kim cô trên nhu cầu mộng tưởng và
huyền thoại vốn là một bản năng của nhân loại. ở Việt Nam, văn chương
huyền ảo còn là một phản ứng đối với hiện thực xã hội chủ nghĩa, với
những giáo điều non nửa thế kỷ đã tù hãm văn học và tình cảm con người.
Đêm Thánh Nhân hứa hẹn một nguồn giải trí lành mạnh cho trí thức và tâm
linh trong một xã hội mà trật tự tinh thần chưa được ổn định, sau những
cơn địa chấn quân sự, chính trị, kinh tế.
Đêm
Thánh Nhân của Nguyễn Đình Chính đã mở ra một nguồn vui và một niềm
tin: tin ở con người, ở cuộc sống, ở tình đồng loại và khả năng hạnh
phúc. Trong truyền thống truyền kỳ, Nguyễn Đình Chính vẫn chung thủy với
niềm tin ở hiền gặp lành trong tâm thức dân gian tiếp giáp với quan
niệm văn dĩ tại đạo của văn chương bác học. Ngoài ra ông đã sử dụng
nhiều thủ thuật của truyện dân gian thế giới, mà lý thuyết văn học hiện
đại đã đề xuất, như trong Hình Thái Học Truyện Cổ Dân Gian (Morphologie
du Conte, 1928) của V.Propp.
Đêm
Thánh Nhân làm mới những giá trị không mới: đó là nhiệm vụ thường tình
của mọi thành tựu văn học. Tác phẩm có sức hấp dẫn lâu dài hay không,
thì khó ai đoán được ở một xã hội có một lịch sử đa đoan như nước Việt
Nam - dường như ở đây vẫn chưa thành hình một xã hội văn học đích danh
và đích thực. Và những âm thanh và cuồng nộ vẫn thường xuyên lấn át lời
ngay lẽ phải, và những thì thầm tri kỷ tri âm.
Chúng tôi thành thật chào mừng tiểu thuyết Đêm Thánh Nhân và tác giả Nguyễn Đình Chính.
Paris, 7-8/11/1999.
Đặng Tiến
|
No comments:
Post a Comment