THƯƠNG
TIẾC WISLAVA SZYMBORSKA
Nữ thi sĩ Ba Lan Wislava Szymborska, Nobel Văn Chương 1996, đã mất ngày
1-2-2012 tại cố đô Krakow. Một thế hệ nhà thơ
lần lượt ra đi; chúng ta không chỉ mất đi những đỉnh cao của thơ thế giới mà còn
mất những chứng nhân lịch sử và lương tâm thời đại như Alekxander Wat, Zbigniew
Herbert, Czeslaw Milosz… Cuối năm 1996, tôi có viết một bài biên khảo phân tích
thế giới thơ và tư tưởng của nữ thi sĩ, đồng thời chào mừng một tên tuổi Nobel
văn học mới. Nay bà đã ra đi, chúng ta cùng đọc lại những trang sau đây để tưởng
niệm Wislava Szymborska .
CHÂN PHƯƠNG
LỜI
CỦA KẺ SỐNG SÓT
năm 24 tuổi bị
đưa vào lò sát sinh
tôi sống sót
Tadeusz
Rosewicz
Cũng như Rózewicz, Herbert, nữ thi sĩ Ba Lan Wislava Szymborska là một
kẻ sống sót. Thế hệ bà lớn lên trong thế chiến thứ Hai và bắt đầu viết dưới nền
chuyên chế kiểu Stalin. Trong thời gian ngắn của vài thập niên, họ đã trải qua
nhiều chế độ chính trị : dân chủ nghị trường, độc tài quốc xã, toàn trị
cộng sản. Là người dân của Ba Lan, một nước nhỏ thường xuyên bị xâm lăng, chia
cắt bởi các láng giềng hùng mạnh, họ không thể tách sộ phận mình khỏi số phận
của đất nước và đồng bào. Giữa hai dòng chữ viết lúc nào cũng hiện diện như
lưỡi gươm trên gáy, nỗi ám ảnh của lịch sử đầy tai ương. Sống sót từ lò sát
sinh và ách thống trị sắt máu, họ không thể đùa nghịch với chữ nghĩa :
Mi được thoát chết không phải để mà sống
Mi không có nhiều thời giờ mi phải làm kẻ chứng nhân
Zbigniew Herbert
Phần lớn sáng tác
Szymborska ra đời từ nỗi thao thức ấy. Milosz, nhà thơ đàn anh đồng thời cũng
là kẻ sống sót, gọi bà là « nhà thơ của ý thức »(1).
Từ ý thức ngắn gọn không thể tóm lược nội dung cùng các mối quan tâm đa dạng
của nhà thơ. Szymborska rất ít tiết lộ về đời tư. Nhưng qua các thi phẩm, người
đọc nghiêm cẩn sẽ nhận ra nỗi ưu tư thường trực trước sự đe dọa và tham vọng quyền
bính cùng các thứ bạo lực, nhất là chiến tranh, vẫn treo trên đầu nhân loại
nhiều đau khổ. Dù đã trải qua mấy vạn năm tiến hoá, văn minh và tiến bộ đôi khi
chỉ là cái vỏ bên ngoài che dấu tính man rợ :
Giấc mộng này thường đến với tôi : ngày thi tốt nghiệp
hai con khỉ bị xích ngồi nơi cửa sổ,
bên ngoài bềnh bồng trời mây
và sóng biển rì rào.
Bị khảo hạch về lịch sử loài người
tôi lắp bắp và ú ớ.
Một con khỉ, mắt không rời tôi, lắng nghe với vẻ châm biếm,
con kia thì hình như ngủ gật –
Và khi nào im lặng kéo dài sau câu chất vấn
nó lại nhắc tôi
bằng cách khua nhẹ sợi xiềng.
(Hai con khỉ của Brueghel)
Lịch sử loài
người hay là tấn tuồng của thú tính ? Ở thế kỷ này chỉ có những kẻ mất trí
mới quên được các cuộc diệt chủng, tàn sát tập thể do nhiều thuyết hệ cuồng tín
gây ra. Kể từ cuộc chiến thành Troa, kể từ Xuân Thu Chiến Quốc, con người có
khá hơn chút nào khi nắm được quyền sinh sát đồng loại ?
Tôi là Cassandra
Và đây là thành phố của tôi vùi dưới tro…
Và đây là đầu tôi đầy nghi hoặc
(Độc thoại cho Cassandra)
Chỉ cần một chút lương tri và lòng nhân ái, ai cũng đau xót và kinh hãi trước
trò chiến tranh, « trò chơi không phe nào thắng », trong khi
« mạng sống bị phí phạm một cách rẻ rúng » (Xem lại một bài thơ không viết ra). Cũng như nhiều cây bút khác,
Szymborska không thể im lặng trước quả bom Hiroshima (Viết tại một Khách sạn), trước các trại tập trung và lò thiêu quốc
xã (Bất Động), và dĩ nhiên trước cuộc
chiến Việt Nam. Sự thông cảm vượt mọi biên giới giữa những nạn nhân, nhất là
đàn bà tay không, trước lũ hung thần của thời đại sát nhân này đã lắng đọng
thành những câu thơ sâu sắc và bình dị :
Mụ kia, tên họ là gì ? – Không biết.
Mụ sinh ở đâu ? Từ nơi nào đến ? – Không biết.
Tại sao mụ khoét lỗ đào hầm ? – Không biết.
Mụ trốn ở đây từ lúc nào ? – Không biết.
Tại sao mụ phản bội vong ơn ? – Không biết.
Bọn ta chẳng làm hại mụ, có biết không ? – Không biết.
Bây giờ là thời chiến, mụ phải chọn lựa ? – Không biết.
Thôn làng của mụ còn không ? – Không biết.
Mấy đứa trẻ này có phải con mụ không ? -- Phải.
(Việt Nam)
Bài thơ này sáng tác vào thời gian Hoa Kỳ vừa đổ bộ vào miền Trung. Nực cười và
cũng đau lòng thay, trong khi giới cầm bút hai bên vĩ tuyến 17 vận dụng mọi
thuật tâm lý chiến để xua đồng bào hai miền giết nhau thì một người đàn bà, một
nhà thơ từ Đông Âu xa xăm đã cảm nhận trọn vẹn tấn kịch tương tàn của một quốc
gia nhỏ bị các siêu cường biến làm chốt thí.
Dù thường được nhắc đến trong các bài thơ của nữ thi sĩ, chiến tranh không xuất
hiện như một chủ đề sử thi ca tụng các mưu đồ vương bá của giới chính khách và
chiến lược gia. Trái lại, nạn binh lửa được nhìn từ góc độ của người dân đáng
thương ở các quốc gia nhỏ yếu, những con người chỉ có ước mơ :
Mỗi người chúng tôi ước muốn một quê hương
không bị các láng giềng xâm lấn
và mơ được sống trọn đời mình
trong thời gian giữa hai cuộc đao binh
(Một dị bản cho các biến cố)
Là một kẻ sống sót, bà hiểu hơn ai hết giá trị và sự thiêng liêng của mạng
sống, kể từ hơi thở và các cử động bình thường của cơ thể con người cho đến
phép lạ của tạo hoá ban bố khắp muôn loài không phân biệt lá cây, cọng cỏ hoặc
con chim, cái kiến. Ý thức về sự sống màu nhiệm có mặt cùng khắp trong sáng tác
của Szymborska; nó rất gần với một niềm tin tôn giáo để an ủi và hổ trợ mặc dù
bà cũng khó quên mặt trái của thiên nhiên là sự hủy diệt vô tình. Dù thế nào đi
nữa, nhà thơ vẫn đứng về phe của sự sống. Khi phải viếng thăm người bạn đang
chờ chết trong bệnh viện, bà kinh sợ:
Tôi ca tụng y dược và ba đóa hoa tím trong ly.
Tôi nói về mặt trời và có những ý nghĩa u tối
May làm sao còn cầu thang để phóng xuống.
May làm sao còn cánh cổng để mở ra.
May làm sao các bạn đều đợi tôi quanh bàn của chúng ta.
Cái mùi nhà thương làm tôi ớn khiếp.
(Báo cáo từ một bệnh viện)
Nhưng sự sống chỉ có giá trị thật khi đi kèm với
ý thức về sự hiện hữu của cá nhân, một thực thể không lặp lại và cũng không có
gì thay thế được. Từng là nạn nhân các thứ chủ nghĩa tập thể thô bạo và ý thức
chủng tộc, lai lịch máy móc, Szymborska luôn cảnh giác trước các mẫu số chung
trừu tượng của xã hội học hoặc kinh tế luận. Bà thường giễu cợt khi nói đến các
biểu đồ toán, bảng số thống kê, phương pháp xác suất… Vào thời buổi bùng nổ dân
số toàn cầu này, cá nhân còn có ý nghĩa gì trước những làn sóng ồ ạt của đám
đông không diện mục?
Homer công tác tại sở thống kê
Không ai biết ông ta làm gì ở nhà.
(Kiểm kê dân số)
Nguy thật! Nếu nhân loại chỉ là một tập hợp những đám đông vô danh tính, làm
việc, mua sắm, ăn ngủ sinh sản theo các thói quen được điều kiện hóa tinh vi
bởi đủ loại phù thủy --- --- - cuộc sống như thế có khác gì cái chết? Và khi
đời sống mất dần tính mầu nhiệm thì cái chết cũng không còn là một bí ẩn để con
người phải khắc khoải bận tâm :
Này linh hồn cá lẽ, đây là sông Styx.
Dòng sông Âm ti, đúng vậy: Sao bạn có vẻ quá phân vân?
lúc nào lão đưa đò Charon đọc danh sách viết sẵn
trên các ống loa xong, hãy để các tiên cô gắn
bảng tên lên ngực rồi dẫn bạn xuống bến đò
(Trên bờ sông Styx)
Tấn tuồng sinh tử thời buổi này ngày càng giống một chuyến du lịch tập thể khôi
hài; lên tàu, xuống bến, xa lộ, sân bay! Văn minh kỹ thuật lần lượt xóa bỏ mọi
phân biệt giữa đám moutons de Panurge : Diện mục con người hôm nay là số điện
thoại, thẻ an sinh xã hội, mã số trương mục và tín phiếu. Công ty, công sở,
công an đâu cần biết anh chị là ai; hãy trình tờ khai lý lịch cho họ là xong :
Điền đơn này
rồi đính kèm tờ khai lý lịch.
...
Về mọi cuộc tình chỉ nên ghi lại hôn nhân.
Về con cái chỉ cần ghi mấy đứa được ra đời.
…
Khỏi cần nhắc đến chó, mèo, chim,
Các kỷ vật bụi bặm, bạn bè, và mơ ước.
…
Kèm thêm tấm ảnh hở một bên tai.
Điều quan trọng là hình dáng nó chứ không phải những gì nó nghe thấy
(Viết tờ khai lý lịch)
Nhà thơ kiêm phê bình Stanislaw
Baranczak gọi bà là “nhà thơ của cá nhân” (2); khi thời đại của chúng ta bị đe
dọa nghiêm trọng bởi “sự khủng bố của tập thể”, đấu tranh cho sự tồn tại của
nhân cách độc lập với quyền phát biểu, suy xét bằng quan điểm riêng tư là một
thái độ chính trị (3). Bởi thế, dù không khi nào hy sinh tính nghệ thuật, các
bài thơ trữ tình của Szymborska đồng thời cũng là văn kiện đấu tranh cho quyền
làm người, con người cá lẽ với những sở thích, nếp sống riêng tư.
Tôi thích xem chiếu bóng.
Tôi thích mèo.
Tôi thích mấy cây sồi dọc bờ sông Warta
Giữa Dickens và Dostoyeski
tôi chọn Dickens
Giữa nhân loại và những con người
tôi chọn những con người…
(Có nhiều khả năng)
Càng về sau, chất trữ tình trong thơ Szymborska càng trở nên thâm trầm. Sự tỉnh
táo của trí tuệ cộng với óc khôi hài dí dỏm đã tạo nên khoảng cách giữa cuộc
thế hỗn loạn và cõi thơ yên lắng ở đó thi sĩ trầm ngâm về ý nghĩa cuộc đời, về
bí ẩn của sự sống hoặc về các điều chân thiện mỹ. Trong những thi phẩm về sau,
các bài thơ siêu hình hoặc trầm tư về nghệ thuật càng xuất hiện nhiều.
Kết cục là thế này : tôi ngồi dưới gốc cây
cạnh một con sông
vào một buổi sáng nắng tràn
Đây là một biến cố tầm thường
sẽ không được ghi vào lịch sử…
Nhưng cần gì. Aristote đã chẳng từng nói đại ý rằng thi ca quan trọng hơn lịch
sử vì có tính triết lý và tầm phổ quát hơn sao! Khi đã giác ngộ đạo lớn của vũ
trụ thì :
Những ngày lễ mừng cách mạng có thể trở đi trở lại
nhưng sỏi cuội hình xoan nằm quanh bờ vịnh cũng vậy thôi
(Không đề tựa)
Nếu đạt được tầm nhìn minh triết xuyên lịch sử thì mọi triều đại, văn
minh lớn bé cũng chẳng hơn gì mấy lớp tro than dưới nhát cuốc khai quật của nhà
khảo cổ :
Này con người đáng tội
hình như ngành học này có tiến bộ đôi chút.
Từ ngày bạn đặt tên tôi là môn khảo cổ
nhiều thiên niên kỷ đã trôi qua.
…
Hãy đưa tôi xem bất cứ cái gì của bạn
tôi sẽ cho biết xưa kia bạn là ai.
Nằm dưới cái gì,
nằm trên cái gì.
Mảnh vụn máy xe. Cổ ống truyền hình.
Vài phân dây cáp. Mấy lóng tay đã hóa ra bụi đất.
Hoặc còn ít hơn thế nữa, ít hơn nhiều.
(Khảo cổ học)
Nếu cái chết từ chiến tranh, từ các lò thiêu, trại tập trung, bom nguyên tử,…
khiến các nhà thơ cất lên tiếng nói của lương tâm và lòng nhân ái thì cái chết
đến từ qui luật tự nhiên hoặc từ lẽ biến dịch thường hằng đã nâng cao nỗi thao
thức thành trầm tư triết lý siêu hình. Nếu cát bụi sẽ trở về cát bụi, nếu vũ
trụ chỉ là tuồng ảo hóa, cái gì sẽ an ủi cho những kiếp sống phù thế?
Cơn mưa không dứt hạt vừa bắt đầu
Hãy lên chiếc bè hồng thủy, chứ còn biết đi đâu :
này mấy bài thơ độc xướng,
những bồng bột riêng tư,
các tài nghệ vô tích sự…
Nước sông dâng tràn, đê bờ đã vỡ
lên bè nhanh : Kìa mớ bóng nhòa hội họa,
chi tiết tỉ mỉ, đường nét trang trí,…
vô vàn âm sắc của màu xám,
những trò chơi để mà chơi,
và nước mắt hân hoan.
…
(Lên bè hồng thủy) (4)
Cái gì đáng cứu chuộc trước những ngọn triều của thời gian và biến dịch? Thi
nhân đã trả lời. Nếu một ngày nào đó đến lượt bạn, người đọc giả thân mến đã
chịu khó đọc mấy trang này, đến lượt bạn phải lên bè hồng thủy --- ngoài mớ kỷ
niệm đẹp trần gian, xin nhớ mang theo một ít thơ.
CHÂN PHƯƠNG
Chú
Thích
(1)
“Poet of Consciousness”, đọc New York
Review of Books, 11-14-96, bài viết “On Szymborska” của Czeslaw Miloz.
(2)
Xem S. Baránczak, Breathing under Water, Harvard University Press, Cambridge, 1990, trang
200.
(3)
Như trên.
(4)
Các đoạn thơ do người viết bài này trích dịch được lấy từ hai tuyển tập thơ
Szymborska dịch sang Anh văn: a) Selected Poems, New York,
1995; và b) Sounds, Feelings, Thoughts, New
Jersey. 1981.
Tiểu Sử : Wislawa Szymborska sinh năm 1923 ở Prowenta-Brin. Học ngữ
văn Ba Lan và xã hội học tại Đại học Jagiellorian
University ở kinh đô xưa Krakow. Sau tập thơ đầu
tay xuất bản năm 1952 Chúng Tôi Sống Là Vì Thế, nữ thi sĩ lần lượt cho ra đời
sáu thi phẩm quan trọng khác. Ngoài thơ ra, bà còn viết báo, điểm sách và dịch
thơ Pháp. Được nhiều giải thưởng, giải Văn học Cracow (1954), giải thưởng Nhà
nước Ba Lan (1955) và giải thưởng Nobel Văn Chương 1996. Những năm cuối đời bà
về sống ở Krakow, cố đô xưa và cũng là cái nôi
của văn học Ba-Lan. Bà mất tại đây ngày 1 tháng 2 năm 2012.
No comments:
Post a Comment