Ba bài viết về Đêm Thánh Nhân
240 phút mạo hiểm cùng Nguyễn Đình chính
Văn Cầm Hải
Nhân đọc Đêm Thánh Nhân, tiểu thuyết. NXB Văn học, 1999.
Một
ngày tháng 7, chỉ còn 5 tháng nữa là sang thiên niên kỷ mới, như loài
hến chợt vàng chát màu kim loại mùa hạ, tôi bỗng sừng sộ với căn phòng
quá đỗi chen chúc bóng người, họ rì rầm, họ líu lo và thậm chí có kẻ còn
phởn phơ làm tình trên chiếc giường vốn cháy lên bao lần mạch máu của
tôi di động. Họ mỉm cười đến súc tích và sâu thẳm như vừa sinh ra từ một
quả trứng gà óng ả lòng trắng giấc ngủ lòng vàng giấc mơ. Tôi nhận ra
bác sĩ Trương Vĩnh Cần - kẻ liệt dương một đời cô đơn tính dục “lặng lẽ
cam chịu nhẫn nại âm thầm sống như vậy qua ngày, qua tháng, qua năm,
mang nặng trên lưng nỗi ám ảnh ân hận xấu hổ của một kẻ tội đồ đang tự
trừng phạt mình”; tôi bắt gặp nữ trưởng ga Phạm Thị Nhàn - người vợ liệt
sĩ đã từng “như ngất lịm đi vì những cảm xúc quái lạ điên cuồng không
thể hiểu được” với anh thương binh cụt hai chân bằng tuổi cháu mình; tôi
rùng mình trước tướng cướp Thạc gà gáy - đã từng là một người lính đặc
công, bị tử hình bởi “giết người hàng chục lần bằng tất cả các thủ đoạn:
chém, đâm, bắn, thắt cổ và bổ cuốc chim vào đầu; tôi nhận ra thuyền
trưởng Mùi cá ngạnh - cũng là cựu binh như Thạc gà gáy, tuy không đi
cướp nhưng bị chiến tranh cướp mất tương lai cuộc đời với đứa con “lầy
nhầy mang hình thù nửa người nửa sứa có hai con mắt to tướng trắng dã”;
tôi tiếp tục nhận ra sắc mặt y sĩ Sự và đứa con gái Thương Ơi cùng nhau
“kéo dài cái mạng ngoắc ngoải vô hồn của ông thêm mười năm, 3640 ngày
đêm nữa mới trút hơi thở cuối cùng”; lần hồi tôi bỗng thân quen với một
tá người khác như ông Từ giữ đền Thánh Mẫu, cô Hà làm đĩ, bác sĩ Chiểu
và cô Kim Thoa - ân ái ba lần liền trong một chiều trắng hếu dương xỉ
như da thịt mông Thoa trong cánh rừng ngút ngàn màu xanh mắt hủi, có
bóng dáng ông nội Thoa bới đào 7 cục vàng như 7 vụ nổ big bang làm vỡ
mặt tổ ấm vũ trụ… Toàn quen cả. Nhưng sao hồng hào đến thế hay cửa sổ
khép mở dương khí? Khép lại đôi cánh, bóng tối ngậm chặt vú nhú Thương
Ơi, họ vẫn thiên sứ hồng hào tươi tắn, những màu sắc tội đồ bong vỡ, họ
như những bức tranh đã được phục chế bởi một họa sĩ. Không phải phục chế
mà là… - vẫn điệu rề rà những tỉnh táo lạnh tựa kiến soi da, bác sĩ
Trương Vĩnh Cần liếc vào mặt tôi một nhát chữ: phục sinh! Chúng tôi được
phục sinh sau Đêm Thánh Nhân! May quá, thế kỷ 20 cũng sắp tàn…
Tôi
kinh hoàng nhận ra đấy không phải là một giấc mơ thấy họ được phong
“thánh” như lời tựa tác giả Nguyễn Đình Chính tự lòng, đó là trường năng
động, là độ sâu của một sự dịch biến có thật đang xô đẩy tôi vào khoảng
thời gian có chiều dài 240 phút mù mịt mảnh vỡ pha lê thăng giáng, mỗi
mảnh trong veo ấy tôi nhìn thấy tôi, tôi nhận thấy người, tôi nhìn thấy
Nguyễn Đình Chính, tôi nhìn thấy 10 nhân vật ứng với 10 chương sách như
10 truyện ngắn được liên kết với nhau bằng một dòng ý thức huyền nhiệm
dân gian không lao động theo khuôn khổ của tư duy mà là cuộc chơi hực hỡ
của trực giác, vật vã và thông thống trườn qua từng con chữ ám ảnh nỗi
niềm cô đơn và tính dục vốn như hai loài chim hiếm khi xuất hiện giữa
bầu trời xứ ta bởi nhiều tia nhìn ám khí sẵn sàng hạ thủ không nương
tay. Dựa vào cô đơn và tính dục, S.Freud, N.Rilke hay F.Kafka từng nung
chảy bao nhiêu mặt nạ rụt chặt lấy con người qua mấy thế kỷ. tự trong
suối nguồn của mình, “những tội đồ trong sáng” ấy đã làm giá đỡ cho
không ít tấm lòng vịn lên, nhảy ra giữa ánh sáng để soi rọi mọi giác độ
của mình. Và bây giờ, cũng không đến nỗi xa lạ nhưng không đồng điệu,
Nguyễn Đình Chính đã chuyển tải cả 621 trang sách của mình trên hai
đường ray tâm lý cô đơn và mất mát, tính dục và đam mê bằng điệu chơi
volo ergo-sum - tôi muốn tức là tôi tồn tại chứ không phải cotigo
ergosum - tôi tư duy tức tôi tồn tại của Descartes. Sự muốn ở đây được
xem như một khả năng sống của con người hiện ra dưới ngòi bút huyễn hoặc
đột nhập vào những giấc mơ phập phồng ma quỷ thủ dâm, những hồn ma đối
thoại, những chân dung nước mắt rỏ máu, những cuộc làm tình tươi tốt như
lửa thiêu cháy giác quan. Tưởng là ẩu đả với phân tâm học, tưởng là tâm
thần phân lập trong từng múi chữ, tưởng là ngột ngạt của một bài ca di
giáo bất chấp tôn giáo, không gian và thời gian đa chiều nhưng tất cả
những điều “đa số gọi là huyễn hoặc hay đặc biệt thì đối với tôi lại
chính là bản chất của cái hiện thực” (chữ dùng của Dostoevki). Ngay từ
chương một cho đến chương mười, cái hiện thực ấy lũ lượt rấm chảy rong
rã với luồng khí lạnh cuộn bay trên xác ma trong bệnh viện, khuya khoắt
tương tư với hồn ma của nữ trưởng ga tại ga xép Thuận Thiên, rồi khinh
bạc ăn ỉa với Thạc gà gáy trong chuồng cọp dành cho người tử tù để tới
hồi rú lên với Mùi cá ngạnh trong đêm tỷ thí rượu và sau sau nữa, ông cứ
xách chiếc va-ly cũ kỹ như đời ông lang thang, vất vưởng, giải oan cho
hồn ma này đến hồn ma khác như ý trời đã chỉ rõ lộ trình bằng tiếng sét
choảng xuống ga xuất phát có tên là Thuận Thiên. ý trời lời người, cô
đơn và tính dục như mũi tên xé gió vừa giết ông nhưng vừa mang ông bay
đi không quên để lại trên đường cây cỏ muôn vàn giọt nước mắt hòa múa
lúc vụng về, lúc nhút nhát, lúc cuồng nộ rơi xuống hóa giải bao nhiêu
trần gian ọp ẹp. Chưa hết ông còn hóa giải những cơn đau cho cả chính
mình trong những đêm vằn véo tâm hồn cùng cái thể xác “mít ướt” của
mình. Cô đơn hành hạ “cái xác thối rữa về chính trị đạo đức và nghề
nghiệp” ẩn náu trong ông bác sĩ, cô đơn 108 ngày đêm của anh lính tuổi
“băm” thất nghiệp sau cuộc chiến, cô đơn néo chặt dây thần kinh làm cô
gái Thươnng Ơi mười mấy năm câm điếc… Im lặng là nơi náu mình của cô
đơn, đam mê cuồng loạn là nơi nương thân của tính dục. Hơn mười cuộc làm
tình kỳ quái nhưng rất người của lão Phềnh khi lão “cười gằn cầm ống
điếu gõ gõ nhè nhẹ vào mông Hà. Rồi như con beo đè con nai ông Phềnh dằn
cô gái xuống và bắt đầu thực hiện cái việc truyền giống một cách rất
thong thả, chính xác, hệ trọng”. Cuộc làm tình này không vỡ bờ khiếp đảm
đến như “cô Kim Thoa chẳng ngồi dậy được nữa mà cô cứ nằm co người lại
giấu bộ mông nở nang trắng hếu vào bụi dương xỉ, mắt nhắm lim dim giả vờ
như đang ngủ để cố tránh không kích thích gợi dục bác sĩ Chiểu… “.
Nhưng ấn tượng về một loạt tính từ không cần trật tự ngữ pháp. Lão Phềnh
chính là con thú vừa mang trong mình nhịp điệu sơ khai của đời sống
nguyên thủy trong trắng, vừa gầm gừ ô nhiễm cái thói lạnh lùng của thời
đại bạo lực, công nghệ vay tiền mua tim - một căn bệnh trầm kha khó trị
của loài người. Nhưng cũng như giữa Con và Người, đời sống ô trọc và
thánh thiện được nhắc đi nhắc lại hai lần trong mắt Mùi cá ngạnh - “cái
cuộc đời rối mù bát nháo hỗn độn này hóa ra dễ hiểu vô cùng. Nó giống
hệt cái bãi biển kia và đại dương mênh mông xa tít dào dạt kia. Trước
mũi là cứt đái bẩn thỉu khắm lặm nhưng xa hơn chỉ là một chút xa hơn bao
giờ cũng là biển xanh mênh mông trong sạch lúc nào cũng dạt dào vỗ sóng
tới tận chân trời”. Và cuối cùng, vượt qua tín ngưỡng, Mùi cá ngạnh có
một hành động mà nói theo điệu thức của Thiền là ngộ khi anh “nghiến
răng tung bọc chăn xuống biển. Mặt biển đen ngòm lóe sáng đớp gọn lấy
thằng bé” - đứa con quái thai nhức nhối màu da cam của chiến tranh. Giải
thoát đau khổ không phải là nhường hay trút sang cho đồng loại mà hãy
mang nó đi thật xa khỏi kiếp người, ở nơi đó dường như chỉ có tấm lòng
thiên nhiên, sự chuyển xoay vô ngôn của tạo hóa mới bao dung không so đo
con tính! Trong tôi, kết thúc chương 4 với tiếng hét cuống cuồng tràn
đầy yêu thương chia sẻ của bác sĩ Cần, nào thằng Thạc gà gáy, nào thằng
Mùi cá ngạnh và cái quái thai là thằng cháu nội quý tử của ông, với hành
động siêu nhân của Mùi là hồi kết đầy tính quả cảm của kết cấu Đêm
Thánh Nhân, những chương hồi sau là các cảnh huống so sánh, đối lập và
sự giải vây cho mọi thắc mắc hoặc có thể nó sẽ tiếp tục tràn qua Đêm
Thánh Nhân II với nhiều tục lụy và phương cách giải thoát khác não nùng
và tinh túy hơn! Kết cấu biến hóa và chuyển tải bởi một cuộc chơi ngôn
ngữ lười quy tắc đến độ tàn nhẫn ấy, có lẽ Đêm Thánh Nhân I không dành
cho những ai yếu vía hoặc thậm chí nhìn nó với ánh mắt lén lút! 4 giờ
đồng hồ / 621 trang sách quả là mạo hiểm nhưng mạo hiểm để hóa thân thì
cũng lên đường vậy.
Tiễn
mọi người ra cửa, trời bỗng xối mưa, những cơn mưa đột ngột nhói lên
giữa chuỗi ngày khô hạn nắng nóng nhất nước trong nửa lưng chiều 16/7.
Tôi
nhìn dáng đi của bác sĩ Trương Vĩnh Cần và những con người bước thấp
bước cao ào ra phố phường, qua màn mưa nóng lốt hơi đất xong lên nồng
cháy, mưa nhớ đến K, nhớ đến Zivago,… chắc họ không ngờ sau họ, hậu duệ
vẫn chưa rũ bỏ được những căn bệnh hoang tưởng lẫn nhau, vẫn còn lận đận
bản năng yêu thương đồng lọai đam mê muốn sống trong sự sám hối thật
thà dẫu rằng chỉ 5 tháng nữa là thời gian lật bước thế kỷ mới. A men!
Thiên cầm lâu, những ngày sóng đổi màu 16/7/1999.
V.C.H - Nhà thơ - Luật sư
“Đêm thánh nhân” cõi nào giữa trần gian
H.Q.T
Cảm
tưởng đầu tiên khi đọc xong Đêm Thánh Nhân của Nguyễn Đình Chính cho ta
một hình ảnh của một sân khấu trên đó diễn viên là những nhân vật nửa
người nửa ngợm:
Kẻ thì cụt cả chân lẫn tay, còn lại duy nhất cái thân… cóc.
Kẻ thì đẻ ra quái thai 3 chân 4 tay lều nghều, loằng ngoằng như những cái vòi của con bạch tuộc.
Kẻ thì hiện nguyên hình ma cô, ma cậu, lưu manh, côn đồ, đĩ đực, đĩ cái…
Kẻ thì khóc dở, mếu dở, nửa tức, nửa cười, mặt mày méo mó.
Đó
là những con người, sự kiện có thể đã xảy ra ở đâu đó, ở rất xa, và
cũng có thể là rất lâu rồi. Nhưng khi gom chúng lại một chỗ và cho chúng
nhảy múa, trông chúng thấy khiếp đảm. Nó gợi lại cho ta hình ảnh địa
ngục trong các truyện cổ dân gian Việt Nam.
Và lẽ dĩ nhiên một số người rất dị ứng trước màn diễn như vậy.
Đơn
giản là tâm trí của họ ưa cái thiện, ghét cái ác. Họ sẵn sàng chấp nhận
những hình ảnh của thiên đàng, nhưng cảnh xuống địa ngục thì khó chấp
nhận. Và rất có thể họ sợ, khi xem những điệu vũ quái đản đó, quái nhân
sẽ nhảy ra vồ lấy họ. Các quái vật ở trên sàn diễn của Nguyễn Đình Chính
xem ra có cái thế hung hăng và ngông cuồng lắm.
Rồi
tiếng la hét, đánh cồng, đánh chiêng, đập bàn, đập ghế, quỳ bò lê lết,
ăn xin, ăn mày, liếm gót, huyênh hoang, khoác lác… nghĩa là đủ các trò
đời.
Một
lý do đơn giản nữa là họ giật mình (người có tật vẫn thường hay giật
mình). Các quái vật trong lúc trình diễn các vũ điệu tự chọn sao trông
giống họ đến thế. Cứ như hai giọt nước vậy.
Vậy
thì không thể là một màn trình diễn để mua vui cho thiên hạ được. Song
khi ta để tâm xem kỹ thêm một chút nữa, ta nhận ra đám nửa người, nửa
thú đó chính là loài mặt người dạ thú sống chen lẫn trong xã hội để hù
dọa, ăn hiếp, cướp bóc, làm tình, làm tội những kẻ yếu bóng vía. Và
Nguyễn Đình Chính đã dùng ngòi bút của mình để lột tả những dã tâm đen
tối của chúng. Như vậy, thông qua tác phẩm Nguyễn Đình Chính đã phơi
trần bộ mặt thật của những kẻ không có văn hóa và trình bày dưới dạng
tác phẩm văn học. Những kẻ dị ứng với tác phẩm Đêm Thánh Nhân của Nguyễn
Đình Chính không phải lo và giật mình đến thế. Vì những sự kiện, địa
danh, tên nhân vật trong truyện đều phi thực tế, phi địa lý và bất tiện
dụng. Như vậy là ảo tưởng, Không một ai bị phạm vào danh dự, không một
địa phương nào bị bôi xấu, không bóng gió một việc gì. Như vậy là mơ hồ,
hai yếu tố ảo tưởng và mơ hồ rất đậm đặc trong tác phẩm. Đáng lẽ điều
đó phải làm cho tác phẩm trở nên không giá trị. Nhưng khi đọc lại, ta
thấy nó có sức gợi cảm lạ kỳ. Hình như cuộc sống của các dị nhân trong
truyện có nguồn gốc từ xa xưa, hình như ta có nghe ở đâu đó. Hình như
những hình bóng vật vờ, lởn vởn trong truyện ta thấy ở chỗ này chỗ khác.
Những điều làm ta rất ghê khiếp hình như nó là một thế lực mà ta phải
kiêng sợ. Như vậy, Nguyễn Đình Chính đã đặt ra một vấn đề triết học:
nhân bản – con người trình bày dưới dạng văn học.
Những điều mà Đêm Thánh Nhân trình bày liệu có làm hổ thẹn ai đó không? Không thể biết \.
Thực chất Đêm Thánh Nhân không phải là sân khấu của các quái nhân mà đó là phiên tòa của địa ngục trần gian.
Văn
học Việt Nam từ xưa vẫn có thế mạnh miêu tả cảnh bồng lai ở trên trời
hoặc cảnh báo ân oán dưới địa ngục. Nhưng thật lạ ở đời nay các thi sĩ
vẫn tiếc cảnh trăng, núi, gió, mây, tiên nữ, bồng lai. Đó là cảnh cung
trời Đâu-suất. Họ muốn thăng thiên. Nhưng tại sao họ không dám nhìn
xuống địa ngục. Thiên đàng và địa ngục là hai mặt đối lập song song tồn
tại như hai mặt của một tờ giấy, có cái này mà không có cái kia. Đấy là
nét đặc trưng rõ nhất trong văn hóa cổ điển của chúng ta. Và nếu chúng
ta tìm lại, chúng ta sẽ thấy những áng văn hay nhất đều thuộc về những
đề tài này. Đọc Đêm Thánh Nhân ta thấy các âm hưởng đó vang lên, và ta
không thể không rùng mình sợ hãi. Bất ngờ, ta nhận ra tâm linh đang
chuyển động. Không như các thi sĩ đời nay, Nguyễn Đình Chính đã chọn con
đường đi xuống địa ngục. Hay đúng hơn là anh chọn bác sĩ Trương Vĩnh
Cần đi xuống thay anh.
Là
một trí thức hiền lành, yêu vợ, bác sĩ Trương Vĩnh Cần đang sống yên
ổn, bình yên thì bỗng dưng mắc chứng liệt dương. Đó là trời giáng họa
hay đúng hơn là Nguyễn Đình
Chính thay trời giáng một đòn cân não vào tâm hồn bác sĩ Trương Vĩnh
Cần. Cái kiểu trong họa có phúc là quyền năng của trời đất, chuyển họa
thành phúc lại là tài năng của con người. Nhưng đối với Trương Vĩnh Cần
thì họa rồi vẫn không có phúc vì Trương Vĩnh Cần là người có tội mà khi
đã có tội thì dù là tài năng cũng khó được đắc dụng ở đời. Cái tội lớn
nhất của Trương Vĩnh Cần là tội hèn nhát. Đó là cái tội trời không dung,
đất không tha của một kẻ được coi là đàn ông. Nhưng dù là người có tội
cũng có chỗ đắc dụng của nó và Nguyễn Đình Chính đã chủ ý dùng Trương
Vĩnh Cần đi gặp các tội nhân. Để đúng như ý của người xưa: Có văn phải
biết dụng võ.
Để
thông hiểu nỗi nhọc nhằn của thuộc hạ, Nguyễn Đình Chính đã cho Trương
Vĩnh Cần được truy hoan với một cô gái rừng chưa tròn 16 tuổi trước khi
đi học. Đó là ân huệ riêng của Nguyễn Đình Chính ban cho Trương Vĩnh
Cần. Còn người đời với các lề luật riêng của mình thì khép Trương Vĩnh
Cần vào trọng tội: Hủ bại, hủ hóa.
Bác
sĩ Cần là người không thông hiểu luật trời, cũng như không thông hiểu
lòng người nên đã hóa điên lên giữa miền hoan lạc và tội danh.
Người đời nói chung vẫn là vậy. Cái trời ban cho họ đâu biết, cái tội mang tiếng ở đời dễ gì một sớm một chiều gỡ cho ra.
Trong
cái ngờ vực của một người ngô nghê, Trương Vĩnh Cần đã đi trong đời với
một tâm thức lúc tỉnh lúc mê, gặp hết người này người khác, nghe hết
chuyện này đến chuyện khác, để dần dần vỡ ra, dần dần nhận ra: ở trong
đời còn có trời đất và cả âm ti địa ngục. Đó là cái lý chính để Nguyễn
Đình Chính dệt nên tác phẩm của mình. Nhưng dù lý thuyết có tuyệt vời
đến đâu nếu không có nghệ thuật thì tác phẩm cũng là thứ cặn bã của lý
trí mà thôi. Với sự hiểu biết sâu sắc về luật cân bằng âm dương, cùng
với nghệ thuật của cú pháp, Nguyễn Đình Chính dùng tài năng của mình đã
dệt nên một tác phẩm hoàn chỉnh miêu tả công đường dưới địa ngục.
Câu hỏi được đặt ra là: Trong tác phẩm có Diêm Vương đâu? Đao phủ đâu? Có vạc dầu đâu?…
Tất
cả có hết, từ Diêm vương đến Đao phủ. Tất cả không thiếu một ai, không
thiếu một thứ gì. Tất cả chứa ở trong đầu Trương Vĩnh Cần cũng như trong
đầu mỗi độc giả chúng ta. Diêm vương là khái niệm của người xưa để chỉ
hỏa ngục mà tượng trưng bằng vạc dầu sôi và lửa. Cho nên khi ta cáu giận
ta có cảm giác của sự nóng bỏng sôi sục. Đó chính là lửa hỏa ngục đang
dâng lên trong ta. Như vậy, Diêm vương là khái niệm tiêu hủy thể xác.
Cho nên ta đâu ngờ: trong đầu ta vẫn thường xuyên xuất hiện nhiều ước
mơ. Rồi trí óc giúp ta hiểu rằng nếu ta gắng sức, ta sẽ đạt được những
điều cao đẹp đáng quí và ta nhận ra có những điều nếu ta phạm vào ta sẽ
bị khép vào hình phạt. Như thế ngay trong đầu ta con đường thiện và con
đường ác đã bày hiện. Vấn đề là ta sẽ chọn con đường nào, nếu ta chọn
con đường ác thì tất yếu đó là con đường dẫn xuống địa ngục.
Nguyễn Đình Chính đã sai Trương Vĩnh Cần đi gặp các tội nhân để ta thấy các tội danh của chúng.
Do
đó, mặc dù địa ngục là thế giới âm, đời là dương gian. Âm dương cách
trở không dễ gì biết được nhau. Nhưng với việc để một người mắc chứng
tâm thần đi lang thang lúc tỉnh, lúc mê, Nguyễn Đình Chính đã rất có lý
làm cho âm dương đan xen vào nhau trong trạng thái đồng đồng, cốt cốt,
tỉnh tỉnh, mê mê của Trương Vĩnh Cần. Lúc tỉnh, Trương
Vĩnh Cần nghe các vui sướng, khổ buồn của các tội nhân, khi mê quá khứ
đó mới là nguyên nhân dẫn đến sự thọ lãnh các nghiệp quả, nhân duyên: ác
giả, ác báo, luân hồi, bể khổ của kiếp người trầm luân. Đó mới thực là
cái vòng khép kín của một kiếp người trong thế giới âm dương ở mảnh trời
Nam đất Bắc này. Và cũng như thế ân oán vay trả đã được phơi bày.
Trong
Đêm Thánh Nhân, Nguyễn Đình Chính đã sai Trương Vĩnh Cần đi bắt các tội
nhân về quỳ chung trong một công đường: trong cái đầu của Trương Vĩnh
Cần. Những kẻ bướng bỉnh, ương ngạnh, khó dạy, khó uốn nắn. ở đó, chúng
ta nghe thấy có tiếng rên rỉ, tiếng oán trách, tiếng quằn quại vì dát,
bỏng… với một thủ pháp như vậy, Nguyễn Đình Chính đã bày trước mặt độc
giả những tội ác dẫn đến địa ngục, cũng như cái cần phải trả của một kẻ
tội lỗi muốn làm lại cuộc đời để trở nên lương thiện. Để cho lời của cổ
nhân được ứng nghiệm:Thiên đàng tại tâm .Địa ngục tại tâm
Đó
là điều rất kỳ diệu, và đó cũng là lần đầu tiên văn học Việt Nam hiện
đại có thể giúp người đọc giơ tay chạm tới địa ngục mà không hề sợ bị
tổn thọ. Đó cũng là điều mà những nhà văn chúng ta qua Nguyễn Đình Chính
có thể tự hào : rằng thế giới nội tâm là thế giới mà chỉ có nghệ thuật
văn chương mới miêu tả được. Đó phải là vinh hạnh riêng cho các nhà văn.
Vì không một nghệt thuật nào có thể làm thay nó được.
Lại
nữa, cái chìa khóa để Nguyễn Đình Chính có thể dắt bạn đọc hào hứng đi
hết 600 trang sách mà không biết mệt mỏi, đó là nhân vật Trương Vĩnh
Cần. Như đã nói y là người có tội, nhưng y cũng là người vô can. Vì y có
liệt dương đâu, y chỉ liệt dương với mụ vợ già nua lúc nào cũng chỉ lên
mặt dạy chồng. Mụ đàn bà đó đã trở thành đàn ông từ lâu rồi. Trong khi
đó cái khao khát làm tình của người đàn ông đã dày vò làm khổ sở Trương
Vĩnh Cần và y đã phạm tội. Nguyễn Đình Chính đã thấu hiểu, chính vì thấu
hiểu mà thông cảm, chính vì thông cảm mà Nguyễn
Đình Chính đã tìm cách gỡ tội cho Trương Vĩnh Cần. Cho nên trong 600
trang sách ta luôn thấy sự hóa thân của Nguyễn Đình Chính vào những kẻ cặn bã của xã hội để giúp Trương Vĩnh Cần đối mặt với tội lỗi, để giúp Trương Vĩnh Cần nhận ra…
.
Nhưng
tâm hồn Nguyễn Đình Chính phức tạp hơn chúng ta tưởng. Với việc để
Trương Vĩnh Cần truy hoan với Ma Thị Thảo 16 tuổi. Trong suốt câu
chuyện, Nguyễn Đình Chính luôn đặt trong ta câu hỏi: Có đáng ra tay cứu
vớt một con người tội đến như thế không? Một con người hủ bại đến như
thế không? Và trong suốt câu chuyện, Nguyễn Đình Chính luôn lật ngược
lại vấn đề cho ta nhận ra rằng cái khát khao được lưu truyền giống nòi
vốn là bản tính tự nhiên của con người. Đó là công cuộc văn hóa. Như thế
là Trương Vĩnh Cần là người có văn hóa bị bóp nghẹt. Và y đã gây tội
với cô bé Ma Thị Thảo. Oán như thế có thể gọi là đã trả xong, nhưng ân
thì chưa. Đó cũng là vòng ân, oán, vay, trả, luân hồi Đó là mũi dao
chích vào lòng tự trọng của ta. đó là ảo giác, nó đọng lại trong tâm hồn
ta, tuy ta luôn nghĩ là ta sẽ không làm như thế. Nhưng trong tâm thức
ta thèm khát điều đó.Ta phải từ chối nó chỉ vì lề luật xã hội không cho
phép. Những mâu thuẫn tình cảm, lý trí, đó là một thủ pháp: trong đó tác
giả đối thoại với độc giả, độc giả đối thoại với tác giả, rồi bạn đọc
nhận ra cuộc đời của các nhân vạt trong truyện và cuộc đời của bạn .
Nguyễn Đình Chính đã đi đến lô-gích tâm lý hiện đại:
phân-tâm-học-tâm-lý. Điều đó buộc chúng ta phải im lặng như ta vẫn
thường tỏ thái độ im lặng trước những gì quá bất ngờ. Nó mới mẻ quá, lớn
quá, ta bị ngập trong cảm giác rờn rợn khi ta nhận ra vũ trụ này bao la
quá, náo nhiệt quá, còn ta đã cô đơn từ lâu rồi, từ rất lâu rồi! Như
Nguyễn Đình Chính đã nhận ra trước ta.
Đêm
Thánh Nhân là một cuốn sách được đọc một cách âm thầm như số phận nó
phải có. Những ảo giác nó gây nên làm linh hồn ta rung động. Những lời
thoại của các nhân vật như những ánh đèn đỏ trong đêm tối giúp ta nhận
ra lối đi, những ký ức từ dĩ vãng được dựng dậy làm bừng tỉnh tâm thức
ta. Tất cả những điều phức tạp này có được là nhờ nghệ thuật ngôn từ
sành điệu của Nguyễn Đình Chính. Đôi chỗ ta thấy anh đã cố tình bỏ quên
những dấu phẩy, dấu chấm, những đại từ, trạng từ… Đó không phải là sai
sót, mà đấy chính là nghệ thuật đã làm chủ kỹ thuật. Chính lúc đó ta
thấy kỹ thuật chỉ là thứ dụng cụ phục vụ mục đích của nghệ thuật. Người
nghệ sĩ thích quăng đi lúc nào thì quăng. tôi không có ý khen ngợi điều
này vì đó không phải là điều hay cho số đông các nhà văn đang bì bõm học
viết. Không phải là người phi thường không làm được điều đó mà kẻ giả
cầy thì quá đông. Điều mà khiến tôi ngưỡng mộ là thái độ của anh. Khi
gọi các tội nhân đến công đường, Nguyễn Đình Chính không đưa ra một hình
ảnh Diêm vương, hay một kẻ luận tội nào. Làm như thế Nguyễn Đình Chính
đã tự hạ mình xuống ngang hàng với độc giả, nhường phần phán quyết cuối
cùng cho trí óc minh mẫn của bạn. Nhưng chính vì lẽ đó mà chúng ta phải
nghiêng mình, khi ta nhận ra rằng ta không đủ sức phán quyết, ta bắt
buộc phải tìm đến anh. Người đã cho ta biết thế nào là ân, thế nào là
oán thì người cũng sẽ cho ta biết thế nào là công bằng. Đó là lý do tại
sao ta phải lùi lại nghiêng mình tỏ lòng tôn kính để được chiếu cố.
Hà Nội – Xuân 2000.
H.Q.T
1 comment:
Tái bản đi Ung Chính ơi!
Post a Comment