Sinh
năm 1906 tại Straßburg (Elsaß) khi ấy còn thuộc Đức, theo học văn
chương Đức và Pháp, ông sớm gia nhập Đảng Dân Chủ Xã Hội Đức và tham gia
các hoạt động chống phát-xít, để cuối cùng phải sang Pháp, trốn sự truy
bức của chính quyền Quốc Xã. Tại Pháp, lại bị quản chế vì bị tình nghi
là gián điệp Đức, năm 1939 ông chọn con đường gia nhập quân đoàn lê
dương của Pháp để thoát tù đầy và hi vọng đứng dưới ngọn cờ Pháp chống
lại Đức phát-xít. Nhưng sau 2 năm ở Algérie rồi sang Đông Dương, thất
vọng về mục tiêu tái chiếm Việt Nam làm thuộc địa của Pháp, ông cùng
Rudolf Schröder, một trí thức cánh tả Đức, và Ernst Frey, một người Áo,
đảng viên cộng sản, thành lập một chi bộ cộng sản trong quân đoàn lê
dương của Pháp và bắt liên lạc với Việt Minh. Khi Nhật hất cẳng Pháp tại
Đông Dương, ông bị Nhật giam giữ một số tháng. Năm 1945, cùng 2 người
đồng chí kể trên, ông được một chiếc xe hơi Mĩ của Việt Minh đón về đại
bản doanh của lực lượng kháng chiến, và được Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn
Đồng và Trường Chinh đích thân đón nhận vào hàng ngũ kháng chiến. Trong
suốt 9 năm kháng chiến, Erwin Borchers giữ nhiều trọng trách trong hoạt
động tuyên huấn và địch vận, ra tờ báo đầu tiên của Việt Minh bằng tiếng
Pháp, kêu gọi lính Pháp và lính lê dương trong quân đội Pháp bỏ hàng
ngũ, về với chính nghĩa của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam, giáo
dục hàng binh và tù binh Pháp,... và có mặt trong trận Điện Biên Phủ
lịch sử.
Khác
với Ernst Frey và Rudolf Schröder - cả hai đều trở về châu Âu khi ảnh
hưởng của Trung Hoa Đỏ từ đầu những năm 50 ngày càng lớn và những cuộc
chỉnh huấn trong Việt Minh theo mô hình Mao ngày càng gia tăng- Erwin
Borchers ở lại Việt Nam với gia đình, người vợ Việt Nam và ba đứa con,
làm việc cho Thông tấn xã Cộng hoà dân chủ Đức ADN tại Hà Nội. Trong
thời kì Nhân văn-Giai phẩm, ông bị canh gác và theo dõi. Năm 1965, ông
cùng gia đình rời khỏi Việt Nam, về sống tại Đông Berlin thuộc CHDC Đức,
làm phóng viên đài phát thanh. Năm 1968, vì nhiệt liệt đón chào Mùa
Xuân Praha, ông gặp rắc rối với "cấp trên", và một lần nữa đi tìm một
quê hương mới: Erwin Borchers trốn sang Tây Berlin. Ông rất muốn trở về
Strasbourg nay đã thuộc Pháp, nhưng không thể, vì tại đó ông sẽ bị bắt
giam và truy tố vì tội đào ngũ và phản quốc. Năm 1984, 5 năm trước ngày
bức tường Berlin sụp đổ, Erwin Borchers mất ở Tây Berlin, sau nhiều năm
cô đơn và trầm cảm. [1]
Đầu
năm 2004, Viện Goethe tại Hà Nội đã tổ chức một hội nghị về những người
Đức phục vụ trong quân đội Pháp, bỏ hàng ngũ sang phía Việt Minh trong
chiến tranh Đông Dương. Bài phát biểu sau đây của Claudia Việt-Đức
Borchers, con gái Erwin Borchers, được đọc trong hội nghị này. Claudia
Việt-Đức Borchers, hoạ sĩ, hiện sống ở Berlin.
Kính
thưa các cô các bác, các vị khách quý cùng người chị gái, anh rể, cả
con trai tôi cùng đi từ Berlin tới đây khiến lòng tôi vui mừng khôn
xiết!
Ngày
hôm nay và chính tại đây trên thành phố Hà Nội thân yêu, nơi tôi lớn
lên, tôi coi việc được nói chút ít về người cha của mình là một điều
vinh hạnh.
Hẳn
không là ngẫu nhiên, sau 36 năm tôi lại lại có duyên với ông già
Goethe, như người Đức thường gọi. Lần đầu tiên biết đọc và hiểu bài thơ
Chào và Giã biệt của Goethe, tôi đã thật tự hào. Có lẽ khi đó tôi thuộc
về số ít người nhiệt thành tìm hiểu tác phẩm của thi hào được giới thiệu
như vậy ở nhà trường chăng?
Khi
ông Heinz Schütte mời tôi nói về cha tôi, tôi đã nghĩ rất nhiều. Trước
hết là câu hỏi: người đàn ông ấy có ý nghĩa gì trong tôi, đứa con gái
của ông, vì với chúng tôi, các con ông, ông mang vẻ gì xa lạ. Ông là
người Âu, có chiếc mũi dài, một người "mũi lõ", trắng trẻo và sáng sủa.
Ðôi khi tôi sợ hãi vẻ xa lạ của ông. Ðó là một cảm giác pha trộn giữa
yêu và sợ. Ông là một người cha dịu dàng: khi tôi khóc, ông bế tôi vào
lòng và dỗ dành. Có lần mẹ kể rằng ngày giải phóng, khi chúng tôi từ
rừng núi trở về Hà Nội, cha bế tôi trên tay vì sợ có sự gì xảy ra với
tôi, suốt dọc đường hành quân dài 20 km mới tới trạm nối tiếp. Khi đó
tôi mới 4 tuổi. Tôi được đặt tên là Việt-Ðức, hàm nghĩa Việt Nam và Ðức,
nhờ trận đánh Ðiện Biên Phủ. Tôi sinh ra dưới một lán lều tre - nên mới
đầu mẹ gọi tôi là con bé Mai. Dạo ấy cha tôi đi suốt ngày, một bữa về
nhà nói với chúng tôi rằng ông phải đi Ðiện Biên Phủ, vậy nên đứa bé
phải mang một cái tên gì gợi nhớ tới ông, nếu chẳng may ông không trở về
từ mặt trận này. Và thế là tôi nhận cái tên Việt Ðức, một cái tên đã
khiến tôi khá khổ sở. Tôi không ưa cái tên này vì nó đặc chất đàn ông.
Trong trường học, chúng bạn coi tôi là cậu bé và điều đó khiến tôi giận
dỗi. Còn ở Ðức, các bạn Ðức phát âm cái tên này cứng như "vịt đúc bằng
sắt" vậy. Ngoài ra tôi biết quá ít về cha tôi. Những gì lọt vào tai tôi
là những điều ta thán của mẹ như "bố con chẳng thấy mặt mũi đâu", "bố
con chỉ ưa đám đàn ông tụ họp, chẳng chăm lo gì cho gia đình". Nhưng ông
đi đâu? Chẳng lẽ ông luôn đi vắng? Tôi chỉ lờ mờ dự cảm rằng ông ở sâu
trong rừng rậm. Trong lời kể của mẹ, cha tôi luôn vắng nhà. Suốt thời
quân Nhật chiếm đóng Hà Nội, mẹ tôi nuôi giấu cha tôi một nơi, chăm bẵm
ông, lo cháo cơm và thuốc lá. Hẳn bà phải rất yêu ông, vì dạo đó ai nuôi
giấu một người Tây sẽ chịu tội tử hình.
Cha
tôi có là một trí thức cao ngạo không? Gì thì gì, trong số người Đức
rời bỏ hàng ngũ, ông bị nhiều kẻ luôn ganh tị. Tuy vậy cha thường nói
với tôi rằng những năm tháng chiến tranh Ðông Dương là quãng thời gian
bổ ích nhất của đời ông, cả khi trong rừng sâu đầy thiếu thốn. Nhiều khi
không có gì mà ăn. Nhưng sự đồng cam cộng khổ của con người dạo đó,
tình yêu của người Việt Nam dành cho ông đã xóa nhòa gốc gác Âu châu của
ông. Cũng vì vậy, với chúng tôi, cha tôi có chút gì đặc biệt. Nếu cha
và mẹ nói tiếng Pháp với nhau thì các con ngồi chầu rìa vì chúng tôi
không hiểu tiếng Pháp. Căn nhà của chúng tôi là điểm gặp gỡ của người
Ðức. Cha tôi là người thích quây quần.
Cách
đây vài năm, ở một làng vùng Mecklenburg, do một sự tình cờ tôi gặp
được một người Ðức xưa đi lính lê dương. Dạo ấy người đàn ông này bị bắt
làm tù binh. Ông ta kể tôi nghe về cha tôi rằng, thay vì việc phải tẩy
não người ta về mặt chính trị bố tôi lại thích trò chuyện về những chủ
đề phi chính trị và còn uống bia với họ.
Trong
thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm, nhà chúng tôi ở bị theo dõi. Cha tôi có
nhiều mối giao du với các trí thức ở Hà Nội. Ông có học và hiểu biết
rộng. Chẳng ai ngạc nhiên là ông được nhiều phụ nữ bám quanh. Sau ngày
giải phóng, ông gặp rắc rối với Đảng ở đây. Có thể nói là người ta đã bỏ
rơi ông, coi ông là "quá tư sản", không đủ lòng "trung thành với đường
lối" thời ấy. Ông cấm con cái là chúng tôi không đựợc hát những bài hát
thiếu nhi mang màu sắc chính trị học ở trường về, bởi nội dung các bài
hát đó quá giáo điều. Cha tôi luôn chống đối mọi giáo điều, nhưng trong
thẳm sâu con tim ông vốn nguyên là một người cộng sản. Thất vọng vì tất
cả, ông không muốn tham gia cuộc chiến tranh giải phóng tiếp theo ở Việt
Nam. Thế nên trong hoàn cảnh đó, ông quyết định trở về quê hương, nước
Đức. Chuyện đó xảy ra năm 1966.
Về
đến Cộng hoà dân chủ Ðức, lúc đầu cha tôi hào hứng bởi ý tưởng một nước
Ðức mới. Sự bẽ bàng đã tới cùng với mùa xuân Praha 1968. Ông đã thẳng
thừng nói tuột ý nghĩ trong một cuộc họp chi bộ Đảng để rồi sống lặng
lẽ, rút sâu mãi vào nội tâm. Nhưng càng vậy ông càng chăm lo hơn tới
những đứa con đang học đại học của mình. Mười năm trước khi bức tường
Berlin sụp đổ, ông nói với tôi: "Bố cứ cho nhà nước này giỏi lắm là 10
năm nữa. Nếu cứ tiếp như vậy thì sụp đổ hết mà thôi."
Cha
tôi là một con người tốt bụng. Tôi cho rằng, dòng máu miền đất sông
Rhein đã bảo tồn con người ông trải qua nhiều tháng năm rối ren và tàn
tệ trong đời. Có lần ông nói với tôi rằng ông muốn được rắc nắm tro của
mình vào một nơi nào đó trên đất Việt Nam. Việc đó chẳng bao giờ thực
hiện được. Lúc tuổi đã cao, ông lại đổi chiến tuyến, bởi chua chát và
thất vọng: ông sang Tây Berlin. Tuy vậy sau này tôi được biết, trước khi
mất, hàng năm ròng ông rơi vào trạng thái u uất trầm cảm. Trong tôi còn
lại một người cha, thế nào đó, như thể một người không có quê hương.
Ðôi
khi tôi ước rằng cha tôi còn sống, để được nghe ý kiến của người về
thời thế hôm nay. Người ta hay hỏi tôi: tôi suy nghĩ trong tiếng Ðức hay
trong tiếng Việt. Ðiều ấy thật không mấy quan trọng nữa. Với người Ðức,
tôi nghĩ bằng tiếng Ðức và bên bè bạn Việt Nam, tôi nghĩ bằng tiếng
Việt. Tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ của tôi. Tôi tự hào làm người con của mẹ
cha khác biệt hai dòng máu. Hoàn cảnh đó đã làm cuộc đời tôi phong phú
hơn.
Xin chân thành cảm ơn mọi người đã dành chút thời gian lắng nghe!
Phạm Kỳ Đăng dịch
No comments:
Post a Comment