HAI NHÂN TÀI VIỆT NAM Ở tk20
PHAN HUY ĐƯỜNG
Trần Văn
Giàu từng nhận xét : "Năm trăm năm sau
cách mạng tháng Tám, dân ta sẽ còn nhớ chỉ tên
của một mình cụ Hồ, mình ông Giáp."[1]
Bản thân
Trần Văn Giàu cũng có thể sánh vai sát cánh với hai
người ấy. Những năm 1940, khi thời cuộc
nghiêng ngả, một mình, Trần Văn Giàu phân
tích tình hình thế giới, tình hình Việt Nam và tình hình Nam
Bộ, vạch ra đường lối đấu tranh,
xây dựng lực lượng, lãnh đạo và chỉ
đạo quần chúng vùng lên cướp chính quyền.
Leclerc, một danh tướng Pháp, theo quân Anh đổ
bộ vào Nam Bộ, đành phải đối diện
với một thực trạng hoàn toàn mới trong thời
đại thực dân : đây là đất nước
đã có chủ.
Tài năng ấy,
so với chuyện cướp chính quyền tại Hà
Nội dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí
Mình, tám lạng nửa cân.
Nếu Trần Văn Giàu không
bị Đảng Cộng Sản Ziao Chỉ trù
dập và nếu ông phát huy
được tài năng của mình trong suốt chặng
đường lịch sử dẫn tới ngày Việt
Nam hoàn toàn độc lập và thống nhất, tên tuổi
của ông sánh vai sát cánh với Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp,
thật xứng đáng.
*
Trong lịch
sử thế kỷ 20, trên thế giới, không thiếu
chính trị gia lỗi lạc, tướng tài. Ai có
được hào quang của Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp
trong lòng người tứ xứ ? Vì sao ?
Trong lịch
sử nhân loại, Hồ Chí Minh là người đầu
tiên được hàng chục quốc gia tự
nguyện thụ quốc tang.
Võ Nguyên Giáp
chết, thế giới nhắc tên tuổi và sự
nghiệp.
Trận
Điện Biên Phủ, so với những trận trong
chiến tranh thế giới 1 và 2, không lớn lắm[2]. Nhưng nó ghim vào ký ức
của người đời.
Khỏi nói
tới cuộc đụng đầu với quân đội
Mỹ đổ bộ vào miền Nam và oanh tạc miền
Bắc : chưa dân tộc nào đã phải chịu
đựng và dám kháng cự suốt bấy nhiêu năm
một hoả lực như thế mà không gục, lại
chiến thắng !
Người
đời không quên. Vì sao ?
Vì Hồ Chí Minh và
Võ Nguyên Giáp đã giúp nhân loại tiến lên nửa
bước : mở đường khai tử chủ
nghĩa thực dân cũ (1945) và mới (1975) đã
từng thống trị nhân loại hàng trăm năm. Ý
nghĩa và giá trị đặc thù của hai con
người này ở đó.
Ngày nay, bộ mặt thế giới
mang dấu ấn của họ. Chủ nghĩa thực dân
đã vĩnh viễn chìm vào quá khứ. Chủ nghĩa
thực dân kiểu mới chưa chết hẳn, vẫn
hoành hành ở Châu Phi và vài nơi khác. Nhưng khả
năng tồn tại của nó ngày càng bấp bênh.
Điều trên
không có nghĩa là sẽ không xuất hiện một thứ
chủ nghĩa khác cho phép một quốc gia khống
chế một quốc gia và một dân tộc khác. Cứ
coi chính sách bành trướng Đại Hán đối
với các nước lân cận và nhiều nước Châu
Phi, thậm chí Châu Âu thì thấy. Nhưng nó không thể
thực hiện ý đồ của nó theo kiểu thực
dân cũ và mới nói trên.
Trong lịch
sử nhân loại, chính trị gia lỗi lạc,
tướng tài, không hiếm. Đọc lịch sử
Trung Quốc, Hy Lạp, La mã, Châu Âu hay Mỹ, thiếu
gì ?
Nhưng chính
trị gia và tướng tài có khả năng mở
đường cho nhân loại bước từ thời
đại này qua thời đại khác, có thể
đếm trên đầu ngón tay.
Trong đó, ở thế
kỷ 20, có hai người Việt.
Họ đã
mở đường cho nhân loại tiến lên… nửa
bước : độc lập. Bước
tiếp, cũng là hoài bão và mục tiêu cuối cùng của
họ, tự do và hạnh phúc, họ không thực
hiện được. Hai mục tiêu họ đeo
đuổi đòi hỏi hai loại tài năng khác nhau, có
khi trái ngược nhau. Xin miễn bàn. Quá dài và, hiện nay,
không đủ khả năng.
Hai mục đích
"độc lập" (trong nghĩa muôn đời) và
"tự do, hạnh phúc" (trong nghĩa hiện
đại) gắn liền với nhau, dường như
tự nhiên, ai cũng hiểu được. Chẳng
tự nhiên tí nào. Sự kiện chúng chỉ cùng
xuất hiện trong ước mơ của cả
loài người ở thế kỷ 19-20 thôi, là tính
đặc thù của một thời đại. Thời
đại nào ? Thời đại có đủ nhân
tố cho phép con người có và bắt đầu
thực hiện 2 ước mơ ấy.
*
Lịch sử
thực nó vậy : không bao giờ đơn giản
dễ hiểu như khi ta cấu một mẩu, nhốt
vào vài khái niệm hình thức để suy luận,
giải thích, ca ngợi, chửi bới, uýnh nhau, e
tutti quanti, cho tới ngày tận thế vẫn… hạ
hồi phân giải.
Ở bất
cứ đâu, ở bất cứ thời điểm nào,
lịch sử "thực" trong đầu ta
đều do sự đan chéo của nhiều thời
đại mà hình thành. Vì con người, kẻ làm nên
lịch sử (Marx), là một con vật văn hoá lạ
lùng, có ký ức của muôn đời kết tinh ờ mình,
có khả năng phủ định chính mình nên có khả
năng tưởng tượng tương lai. Có khả
năng làm mình, hôm nay.
Ở thế
kỷ 20, tại Việt Nam, lịch sử thực do
thời đại phong kiến, thực dân, thực dân
kiểu mới và thời đại dân tộc chủ
nghĩa đan chéo nhau mà hình thành.
Chủ nghĩa
phong kiến Ziao Chỉ, mặt tốt cũng như
mặt xấu, còn đang tồn tại trong đầu óc,
tình cảm của con người, chi phối hành
động của nó, là nhân tố nội tại hình thành
xã hội Việt Nam thời ấy. Ngay thời nay, nó
vẫn là một nhân tố cấu tạo người
Việt. Cứ coi quan lại của chính quyền đua
nhau tham nhũng, vét của dân xây Nhà Thờ Tổ thì
thấy.
Thực dân, cũ
và mới, với những ý thức hệ và hành
động của nó, đương nhiên là nhân tố
ngoại tại.
Chống lại
chủ nghĩa thực dân cũ và mới : chủ
nghĩa dân tộc.
Nhưng, bao trùm
tất cả, là thời đại tư bản : nó
thống trị cả thế giới, những hình thái
tồn tại hay tiêu vong của các thời đại trên
đều bị nó trực tiếp chi phối. Nó
thống trị nhân loại không chỉ về mặt kinh
tế : nó là phương thức sản xuất
tiến bộ nhất ; luôn cả về mặt văn
hoá. Ở đây cần phải ghi rõ : không thể
đồng nhất văn hoá tư sản của
Tây Âu với chủ nghĩa tư bản. Văn
hoá tư sản không do những nhà tư bản ngày đêm
đeo duổi lợi nhuận mà hình thành và phát triển, mà
do tài năng và tấm lòng của nhiều nhà văn hoá,
nghệ thuật và khoa học tạo ra. Hầu hết
những người ấy không là nhà tư bản !
Nhưng, đích thực, giai cấp tư bản ở Tây
Âu đã dựa vào văn hoá đó để làm cách
mạng, nắm chính quyền, xây dựng và củng cố
chế độ tư bản, chinh phục thế
giới dưới nhiều hình thức khác nhau.
-Chỉ trong thời đại tư bản, lý
tưởng tự do và bình đẳng trong
nghĩa hiện đại mới có thể hình thành và càng
ngày càng biến thành ước mơ của cả nhân
loại : phương thức sản xuất tư
bản đòi hỏi người lao động tự do
và trao đổi bình đẳng.
-Chỉ trong thời đại tư bản, khoa
học mới phát triển nhanh chưa từng
thấy : phương thức sản xuất tư
bản không ngừng đòi hỏi phát triển và ứng
dụng khoa học vào sản xuất, tổ chức, quản
lý, kinh doanh và… chinh chiến.
-Chỉ trong thời đại tư bản, lý
tưởng hoà bình mới trở thành khát khao phổ
biến lớn nhất của nhân loại : những
chiến tranh khốc liệt nó gây ra trong thế kỷ 20
đâu phải chuyện đùa chữ nghĩa.
Cả ba
điều trên Marx, người hiểu sâu sắc nhất
phương thức sản xuất tư bản, đã
giải thích rõ ràng. Xin miễn lải nhải thêm.
*
Ngày nay thế
nào ?
1/ Dưới hình
thái này nọ, hầu hết nhân loại đã bước
vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản.
Về mặt kinh
tế, Trung Quốc đã trở thành cường quốc
tư bản thứ 2, với một chế độ
chính trị toàn trị và một ý thức hệ… hè hè.
Ziao Chỉ
Quận đã biến thành tư bản rừng, phi
luật lệ, phi văn hoá, phi khoa học, phi đạo
đức, nhưng đích thực tư bản, tuy ở
cấp vặt. E tutti quanti.
2/ Chủ nghĩa
dân tộc vẫn cực thịnh, nhưng bất lực
về mặt kinh tế, cứ coi kết quả của
những cuộc vùng dậy ở các nước Ả Rập
vừa qua thì thấy. Không có con đường nào khác ngoài
con đường tư bản.
3/ Chủ nghĩa
tư bản không còn "đối thủ". Những
anh tư bản gộc, Tây Tàu Anh Mỹ Nga Nhật
Đức Brazil Ấn Độ, e tutti quanti,
cạnh tranh lẫn nhau, khi cần thì bắt tay nhau.
Cần nữa thì đánh nhau, tốt nhất một cách
gián tiếp.
4/ Hơn 20 năm
qua, nó phát huy ngày càng triệt để và khôn khéo lôgích
vận động đặc thù của nó, mau chóng dồn
cả nhân loại vào hai thị trường vốn là nôi
sinh nở, phát triển và bành trướng của nó :
thị trường sức lao động và thị trường
hàng hoá. Hàng hoá Tây Âu sản xuất với sức lao
động rẻ ở Trung Quốc đã khiến các anh
tư bản Tây Âu kiếm lời nhảy vọt. Anh tư
bản và nhà nước Trung Quốc dĩ nhiên
hưởng lây không ít. Bàn dân Trung Quốc lại có công
ăn việc làm, dù tồi tệ còn hơn chết đói.
Hàng hoá của anh tư bản Trung Quốc tràn ngập
thị trường Tây Âu cũng làm giàu anh tư bản
chuyên xuất nhập cảng và phân phối hàng hoá ở Tây
Âu, cứ vào Supermarket PhuLăngXa thì thấy. Song song,
nạn thất nghiệp và lao động bấp bênh
cũng lan tràn trong xã hội Tây Âu, không sao cưỡng được.
Hiện tượng này sẽ kéo dài dài. Cho rằng
"Giờ thì Trung Quốc đã chạm điểm Lewis –
nói thẳng ra, Trung Quốc đã cạn nguồn lao
động thặng dư nông thôn"...[3] thì sức lao
động rẻ tiền của nó ở thành thị,
từ lao động thủ công tới lao động tri
thức, vẫn cho phép nó giữ vai trò nó chiếm được
trong nền kinh tế tư bản toàn cầu hoá 20 năm
qua. Thế thôi. Tóm lại, tuy có cạnh tranh, các anh
"tư bản toàn cầu" có chung quyền lợi.
Ở PhuLăngXa đã có nhiều hãng tư bản không
nhỏ, tên Tây, chủ Tàu. Từ bán nước hoa
(Marionnaud) đến… sản xuất xúc xích (Cochonou) !
Mấy ngày qua, đọc báo PhuLăngXa nghe tin có một anh
tư bản Tàu đang thương lượng mua 30%
cổ phiếu của hãng sản xuất ôtô để
trở thành ông chủ chính của hãng Peugeot…
5/ Tóm lại,
thời đại này là thời đại cực
thịnh của chủ nghĩa tư bản. Không thích,
không muốn, cũng thế thôi.
Trong hình thái tư
bản toàn cầu hoá, quyền lợi của các anh tư
bản gộc không còn gắn bó với quyền lợi
của các quốc gia nữa. Quyền lực kinh tế và
chính trị của họ cũng đã vượt lên trên
quyền lực Nhà Nước ở nhiều quốc gia.
Cứ coi chủ quyền của các nước trong Liên
Minh Châu Âu càng ngày càng bị gặm mòn thì thấy. Mâu
thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản toàn cấu
hoá và chủ nghĩa dân tộc sẽ càng ngày càng tăng,
không thể khác được.
*
Trăng tròn,
trăng phải khuyết.
Ngày nay, khát khao hoà
bình, tự do, dân chủ và hạnh phúc vẫn là một lý
tưởng, không chỉ của những dân tộc lệ
thuộc, thua kém, nghèo nàn. Ngay cả với bàn dân
PhuLăngXa cũng thế, chí it đối với một
số không nhỏ người càng ngày càng đông. Những
khủng hoảng kinh tế, xã hội, chính trị,
niềm tin và ý thức hệ liên miên từ 30 năm qua
cũng cho thấy.
a/ Hoà bình.
Sau hai thế chiến, bàn dân PhuLăngXa đã
được hưởng gần 70 năm hoà bình.
Chẳng mấy ai ham chiến tranh. Nhưng chính phủ Pháp
vẫn cứ phải – và muốn – tham chiến đây
đó, tuy nho nhỏ thôi.
b/ Tự do.
Ở đâu tự do hơn ở xứ PhuLăngXa
này ? Nhưng là tự do của kẻ lệ thuộc,
bắt buộc phải bán sức lao động mới có
quyền sống, và phải bán trong hoàn cảnh bình
đẳng theo pháp luật này : tôi nắm hết phương
tiện sản xuất, kinh doanh, e tutti quanti ;
anh hai bàn tay trắng, không lấy đâu ra bữa ăn cho
ngày mai ; anh muốn làm việc cho tôi với giá này
không ? Anh cứ tự do chọn lựa. Trên cơ
sở ấy, có một ông chủ đã từng hứa
hẹn với người làm thuê : tôi đảm
bảo công ăn việc làm của anh với điều
kiện anh xách vợ con qua Roumanie, lao động ăn
lương trong điều kiện xã hội và thị
trường lao động ở Roumanie… Tùy cách
đếm, khoảng 10-15% bàn dân PhuLăng ở tuổi lao
động đang thụ hưởng hình thái của
tự do kiểu ấy : tự do thất nghiệp,
tự do sống bám vào trợ cấp xã hội ngày càng eo
hẹp, rất nhục đối với đa số, hay
tự do… ăn mày, ăn cắp, cướp giựt…
hoặc tự do tự tử.
c/ Dân
chủ. Niềm tin này của bàn dân PhuLăngXa đã và
đang suy thoái trầm trong : một người
một lá phiếu ! Nhưng bầu cho Tả
(Đảng Xã Hội) hay Hữu (Đảng UMP), cũng
thế thôi : 30 năm qua, lời mỵ dân thì khác nhau, càng
ngày càng sáo, càng ngày càng ngập lụt dưới một
đống "khái niệm" (concept !) mới rỗng
tuyếc, nhưng khi nắm chính quyền, chính sách như
nhau với những hậu quả y hệt. Dân chủ
giữa những con người bất lực.
d/ Hạnh
phúc. Phức tạp lắm. Nhưng chỉ cần
ăn no, mặc ấm, có mái nhà che mưa nắng gió
tuyết, con cái được học hành, quá đủ
rồi. Thế mà cũng vẫn là giấc mơ
dường như bất khả thi với nhiều người,
trong thời đại nhân loại thừa khả năng
nuôi chính mình và, từ từ, cùng khá lên.
Những giấc
mơ của nhân loại hôm nay do chủ nghĩa tư
bản vay mượn của văn hoá tư sản
khơi ra. Chính nó cũng đã tạo ra những
điều kiện vật chất để thực
hiện chúng ở một mức tối thiểu nào đó.
Và chính nó đang ngăn cản chúng trở thành hiện
thực đối với đại đa số. Món
đó gọi là mâu thuẫn nội tại của
phương thức sản xuất tư bản.
Một hình thái xã hội không bao giờ biến
mất trước khi phát triển hết tất cả
lực lượng sản xuất mà nó có khả năng
chứa đựng. Không bao giờ những quan hệ
sản xuất mới, cao cấp hơn, thay thế nó
trước khi những điều kiện tồn tại
vật chất của những quan hệ sản xuất
mới ấy đã nhú mầm ngay trong lòng xã hội cũ.
Chính vì thế nhân loại chẳng bao giờ đặt ra
những vấn đề ngoài những vấn đề
mà nó có khả năng giải quyết, vì, xét cho kỹ,
bản thân vấn đề chỉ xuất hiện khi
những điều kiện vật chất để
giải quyết nó đã có, hay, chí ít, đang hình thành.[4]
Marx, Phê phán kinh tế chính trị học.
Diễn nôm :
phương thức sản xuất tư bản chưa
phát triển hết khả năng của nó, chớ mơ
tới một phương thức sản xuất nào hơn.
Nhưng chính nó sẽ tạo ra những điều
kiện vật chất loại trừ nó, thay thế nó
bằng một phương thức sản xuất tốt
đẹp hơn. Lúc đó, người đời mới
bắt đầu đặt vấn đề về nó. Vì
những điều kiện vật chất để
giải quyết vấn đề, nếu chưa hiện
thực đầy đủ thì cũng đang trong quá trình
hình thành.
Bốn lý
tưởng trên đã trở thành khát khao của một
phần đông nhân loại. Tại sao mọi người
chưa được hưởng ? That is the
question. Vấn đề ở đó.
Phải chăng,
hôm nay, những điều kiện vật chất
để giải quyết những vấn đề này
đã có hay đang nhú mầm, cho phép nhân loại
bước qua một thời đại mới ?
Bước đó
đòi hỏi nhiều tri thức, trí tuệ, sáng tạo,
của cơ man người. Toàn là vấn đề
kiến thức và văn hoá.
Trên bước
đường đó, sẽ có tên một người
Việt không ?
Tôi mong : có. Dân
ta đã khổ, đã nhục quá rồi.
PHAN HUY ĐƯỜNG
2013-10-15
[1]
Hồi Ký Trần Văn Giàu, http://amvc.fr/Damvc/GioiThieu/TranVanGiau/TranVanGiau-TAB.htm
[2]
Phía quân đội Pháp : chết =
2 293, tù binh = 11 721
http://fr.wikipedia.org/wiki/Bataille_de_Di%C3%AAn_Bi%C3%AAn_Phu#Organisation_du_camp_retranch.C3.A9
[3]Phát triển Kinh tế Trung Quốc
đụng tường? Paul
Krugman, người đoạt giải Nobel kinh tế
năm 2008.
** phđ :
Cụm từ
"nguồn lao động thặng dư nông
thôn" vô nghĩa. Trong lịch sử môn kinh tế
học lý thuyết, khái niểm thặng dư,
plus-value, do Marx tạo ra (Tư Bản Luận),
gắn liền với những khái niệm giá
trị của hàng hoá, giá trị của sức lao
động, giá trị thặng dư, giá trị siêu
thặng dư. Định nghĩa mácxít của nó
là : giá trị thặng dư = giá trị của hàng
hoá - giá trị của sức lao động tạo ra hàng
hoá. Nó là nguồn gốc của những hình thái kinh
tế – chính trị như : lợi
nhuận (của tư bản sản xuất, profit), tiền
lời (của tư bản tài chính, intérêt)
hay thuế (của nhà nước, impôts
et taxe). Tuy là một khái niệm mácxít, dưới
một tên chẳng khác gì về nội dung, valeur-ajoutée,
nó đã được một công chức tài ba của
PhuLăngXa vận dụng và chủ trương thành
lập thuế TVA (Taxe sur la Valeur-Ajoutée). Chính
trị gia PhuLăngXa chốp ý liền. Cả Châu Âu và
thế giới mau chóng bắt chước. Ngày nay, TVA là
thuế lớn nhất nuôi dưỡng Nhà Nước
PhuLăngXa.
Có thể ông Krugman
đặc biệt yêu chữ nghĩa, "khái
niệm", dù rỗng tuếch, nên dùng từ "sâu
sắc" để nói một ý tầm thường. Câu
trên của ông, có thế có nghĩa trong ngôn ngữ thô
thiển của tục dân : ở nông thôn Trung Quốc
không còn người đang chết đói, muốn mua
sức lao động của họ với giá nào cũng
được. Cũng có thể. Nhưng điều này
thì chắc chắn : ở những thành thị Trung
Quốc, từ lao động thủ công tới lao
động tri thức bậc cao, có đầy
người tài năng ngang hàng với người Mỹ
nhưng sẵn sàng bán sức lao động của mình cho
hãng Mỹ rẻ hơn mười lần người
Mỹ. Thế thôi. LôGích vận động của
phương thức sản xuất tư bản sẽ
dẫn ông chủ tư bản Mỹ đi tới
quyết định nào ? Khỏi cần bàn.
[4]
4 "Une
formation sociale ne disparaît jamais avant que soient développées toutes les
forces productives qu'elle est assez large pour contenir, jamais des rapports
de production nouveaux et supérieurs ne s'y substituent avant que les
conditions d'existence matérielles de ces rapports soient écloses dans le sein
même de la vieille société. C'est pourquoi l'humanité ne se pose jamais que des
problèmes qu'elle peut résoudre, car, à y regarder de plus près, il se trouvera
toujours, que le problème lui-même ne surgit que là où les conditions
matérielles pour le résoudre existent déjà ou du moins sont en voie de
devenir."
http://www.marxists.org/francais/marx/works/1859/01/km18590100b.htm
nguồn : ăn mày văn chương (amvc.fr)
nguồn : ăn mày văn chương (amvc.fr)