Tác giả : Bình Nguyên Lộc
Truyện Rừng Mắm đã được dịch ra Pháp văn do
Nghiêm Xuân Việt, đăng ở tạp chí Pen Club.
Bản dịch ra Anh văn do nhà văn J. Banerian ở San
Diego, đã xuất bản trong tập Vietnamese Short Stories.
Chim đang bay lượn bỗng đứng khựng lại, khiến thằng
Cộc thích chí hết sức. Nó theo dõi con chim thầy bói ấy từ nãy đến giờ, chờ đợi
cái phút này đây.
Thật là huyền diệu, sự đứng yên
được một chỗ trên không trung, trông như là chim ai treo phơi khô ngoài sân
nhà.
Chim thầy bói nghiêng đầu dòm xuống mặt rạch giây
lát rồi như bi đứt dây treo, nó rơi xuống nước mau lẹ như một hòn đá nặng. Vừa
đụng nước nó lại bắn tung trở lên như một cục cao su bị tưng, mỏ ngậm một con
cá nhỏ.
Cộc ngửa mặt trở lên trời để theo ông câu kỳ dị và
tài tì nh ấy nữa, nhưng mắt nó bị ngọn dừa nước bên kia bờ rạch níu lại.
Trên một tàu dừa nước, một con chim thằng chài xanh
như da trời trưa tháng Giêng, đang yên lặng và bền chí rình cá.
Trong thế giới bùn lầy mà thằng Cộc đang sống, ai
cũng là ông câu cả, từ ông nội nó cho đến những con sinh vật nhỏ mọn quy tụ
quanh các ngọn nước.
Màu xanh của chim thằng chài đẹp không có màu xanh
nào sánh kịp. Sự bền chí của nó cũng chỉ có sự bền chí của các lão cò sầu não
là ngang vai thôi, cái bền chí nhìn rất dễ mê. nhưng mê nhứt là mũi tên xanh bắn
xuống nước nhanh như chớp, mỗi khi thằng chài trông thấy con mồi.
Thằng Cộc là một đứa bé bạc tình. Một đàn cò lông
bông bay qua đó, đủ làm cho nó quên thằng chài ngay. Là vì đầu cò chơm chởm những
cọng lông bông, nhắc nhở nó như ng kép võ hát bội gắn lông trĩ trên mão kim
khôi mà nó đã mê cách đầy năm năm, hồi gia quyến nó còn ở trên làng.
Hồi ấy nó sướng lắm. Quanh nhà nó, có hàng trăm nhà
khác, có vườn cây trái, có nước ngọt quanh năm, có trẻ con để nó làm bạn, để nó
đùa giỡn với.
Nhưng không hiểu sao một hôm, tía má nó bán chiếc
chòi lá đi rồi ông nội nó, tía nó, má nó và nó, một đứa bé mười tuổi, kéo nhau
xuống một chiếc xuồng cui, một thứ xuồng to mà người ta gọi là xuồng mẹ, ghe
con, rồi họ đi lang thang từ rạch hoang vắng này đến kinh hiu quạnh nọ, và rốt
cuộc dừng bước nơi cái xó không người này mà ông nội nó đặt tên là xóm Ô Heo.
Nghĩ đến những năm cũ, thằng Cộc bỗng nghe thèm người
vô cùng, thèm còn hơn thèm một trái xoài ngọt, một trái khế chua mà từ năm năm
nay nó không được nếm.
Những người di cư năm nọ trên chiếc xuồng cui, vẫn
còn sống đủ cả. Những chiều nghi ngút sương từ đất lầy bốc lên, và những đêm
mưa gào gió hú, những người ấy thường kể chuyện cho Cộc nghe, những chuyện đời
xưa đẹp như một mái lá, hoặc những chuyện ma, rởn óc như ăn phải trái bần chua.
Nhưng dầu sao, Cộc cũng thích người khác hơn, cũng như nó thích vườn tược sầm uất
hơn cảnh rừng tràm tối mịch hoặc cảnh đồng không bái ngát ở đây. Ở đây, cho đến
tiếng chó sủa, tiếng gà gáy nó cũng không nghe từ lâu. Con chó săn và mấy con
gà giống mang theo đã ngã lăn đùng ra mà chết ngay trong tháng mới tới. Thằng Cộc
ngạc nhiên mà thấy sao người vẫn không chết trong khí hậu tàn ác nầy: nóng, ẩm,
còn muỗi mòng thì quơ tay một cái là nắm được cả một nắm đầy.
Chưa bao giờ mong mỏi của Cộc được thỏa mãn mau lẹ
như hôm nay. Nó vừa thèm người thì tiếng hò của ai bỗng vẳng lên trong rừng
tràm, rồi tiếp theo đó là tiếng chèo khua nước.
Hò ơ... tháng ba cơm gói ra hòn,
Muốn ăn trứng nhạn phải lòn hang mai.
Mũi xuồng cui ló ra khỏi khúc quanh của con rạch,
và trên xuồng, không chèo lái, vợ ngồi không trước mũi mà hò. Cặp vợ chồng này
Cộc quen mặt mấy năm nay, nhưng không biết họ từ đâu đến. Nó chỉ biết họ ra biển
để bắt cua và ba khía, một năm mấy kỳ. Nghe tiếng người lạ nói, nhứt là nghe
hát, Cộc sướng như có lần tía nó cho nó ăn một cục đường từ nơi xa mang về.
Thà là không được ăn, chớ còn ăn một chút xíu thì
cái vị của món ăn còn chọc thèm hơn bao giờ cả. Nên chi Cộc nhìn xuồng chèo khuất
dạng thì xây lưng tức khắc để chạy lên Ô Heo.
Trọn vùng nầy, ông nội nó đã đặt tên là Ô Heo.
Nhưng riêng trong gia quyến nó thì Ô Heo chánh hiệu là một cái gò xa ở tận trên
kia, cách mé rạch đến hai dặm hú.
Số là hồi trước, ngày đầu tới đây, ông nội nó với
tía nó đi kiếm đồ ăn trong rừng, đã gặp nơi đó một ổ heo rừng.
Cả ổ heo đều bị sát hại hôm đó và canh tác của gia
quyến nó về sau nầy đã đuổi thú dữ đi xa. Tuy nhiên, đề phòng chúng trở về, ông
nội nó đã cấm nó lên Ô Heo một mình. Thằng Cộc lại thích lên đó, ban đầu chỉ vì
Ô Heo có sức quyến rũ của một trái cấm. Nhưng về sau, nó đã gặp người nơi. Đó
là vài người đờn ông và đờn bà, nói là ở xa lắm, cách đó một ngày đường sông. Đờn
ông thì đến để gác cuốc, gác nhan-sen, còn đờn bà thì để nhổ bồn-bồn về làm đưa
bán.
Đó là những người bạn bí mật của nó, nó giữ kín
không cho nhà nó biết. Họ hay kể chuyện xóm làng, chuyện đám cưới, đám ma, đám
hát, đám cúng đình, tóm lại tất cả sanh hoạt của làng mạc mà từ lâu Cộc không
thấy và ngậm ngùi tưởng đến như nhớ những kỷ niệm xa xôi.
Cộc chạy qua khỏi ruộng nhà, và đứng lại nghỉ mệt.
Nó mệt lắm vì nó chạy dưới nước và dưới bùn mặc dầu lúa đã đến mùa gặt.
Năm xưa, gia quyến nó đến đây vào cuối tháng Giêng,
sau khi cúng ông vải xong ở quê cũ.
Ông nội nó với tía nó đốt rừng tràm từ ngoài bờ rạch.
Gió thổi vô rừng và lửa, như con vật khổng lồ, đã táp một cái vào khối thịt
xanh um của biển rừng tràm này. Thành ra ruộng nhà của nó mang một hình tròn kỳ
dị, không tròn đều đặn vì không ai chỉ huy được sự cháy rất là rắn mắt của ngọn
lửa.
Cộc nhìn ruộng mình một hơi rồi cười khan lên. Đám
rừng bị khoét một lỗ để làm ruộng, trông như đầu tóc trẻ con được mẹ cạo, nhưng
mới cạo có một mảng thì có chuyện gấp, bỏ dở cóng việc; đứa trẻ bi chúng bạn chế
nhạo là đầu chó táp.
Lúa ruộng chín, cây lúa cao quá, ngã rạp xuống đề
lòi trăm ngàn gốc tràm lên, trông như ai đóng cộc để cất nhà sàn; năm xưa đốt rừng
nhưng không đủ sức đánh những gốc tràm tươi rói không cháy được nầy, tía thằng
Cộc đành cấy lúa giữa những gốc ấy, mãi cho đến ngày nay mà gốc vẫn chưa mục.
Tía nó nói mười năm nữa tràm chết cũng vẫn còn đưa cẳng lên như vậy.
Sau lưng Cộc là những rặng tràm bị cháy sém dưới trận
lửa khai hoang, không chết ngay, nhưng “CHẾT NHÁT”, cứ mỗi năm chết lần mòn
thêm vài mươi cây. Mấy hàng tràm đầu nám đen và trụi nhánh như cột nhà cháy,
căm hận nhìn chiếc chòi lá xa tít mù dưới mé rạch đang chứa chấp kẻ thù đã lấn
đất của chúng, đã sát hại chúng.
Sau đó, rừng tràm dày mịt, chằng chịt những dây
bòng bong, dây choại bò từ thân cây này sang thân cây khác.
Thằng Cộc lắng tai nhưng không nghe tiếng động nào
cả. Nó đánh bạo chen qua những cây bình bát, cây rán, mọc xen với tràm, để đi tới
đích.
Một ổ chồn cộc bỗng chạy qua trước mặt nó khua lên
một cái roạch, làm nó giựt mình, nhưng tiếng người trên Ô Heo cách đó chừng hai
hàng cây giúp nó vững dạ.
Tiếng đờn bà hỏi:
- Anh hổng sợ thằng Mùi hay sao?
Tiếng đờn ông đáp:
- Thằng Mùi thì qua cho một loi là nhào hớt.
Cộc vẹt cỏ lá, đi mau đến đó và khi nó chun ra khỏi
khối xanh thì hai người có mặt trên gò Ô Heo sợ hãi ngồi dang xa ra. Người đờn
ông gác cuốc là người quen, người đờn bà nhổ bồn bồn thì lạ hoắc. Chị nầy trẻ đẹp
hơn tất cả những chị nó quen biết từ lâu. Người đờn ông trấn tĩnh lại ngay, ngoắc
nó lại mà hỏi:
- Muốn về trển hay không Cộc? Muốn thì đi theo chị
hai mầy đây, chỉ có một đứa em gái ngộ lắm.
Trong khi thằng Cộc mắc cở tía tai thì chi đờn bà hỏi
anh kia:
- Ở miệt nầy có người sao anh?
- Chỉ có một nhà thôi. Mới tới đây chừng năm năm.
- Quen hay lạ?
- Lạ. Họ ở trên Sa Đéc lận.
Chị đờn bà an lòng, vui lại được và nói với Cộc để
mua lòng kẻ đã bắt chợt việc thầm lén của chị:
- Em của chi không bao giờ chịu về làm dâu một chỗ
như vầy. Em có muốn thì phải ở rể thôi.
Rồi hai người lớn cười ngặt nghẹo với nhau.
Thằng Cộc mới mười lăm, nhưng cao lớn gần bằng người
đàn ông kia. Mình trần của nó nổi u nổi nần những bắp thịt rắn như nắn bằng đất
sét gắn vào đó rồi nung cho đen và cứng.
Sự nẩy nở của thân thể nó đi song đôi với sự trưởng
thành của đời sống sinh lý bên trong của nó. Năm nay nó đã bắt đầu bâng khuâng
mỗi khi chiều xuống, mặt trời đốt cháy đỏ đầu rừng tràm trầm thủy trước nhà.
Nhưng sống cô đơn ở đây, nó không biết chuyện trai gái như vậy là xấu đến mức
nào và phải có thái độ làm sao nên bối rối lắm. Chị đờn bà nắm tay nó, rị nó ngồi
xuống bên cạnh chị, vỗ lên đầu nó rồi dỗ ngọt:
- Chị không ăn thịt em rể chị đâu mà sợ. Mầy mà về
trển làm ruộng thì ai cũng ưa. Làm rể có công ba năm thì má chị gả con Thôi cho
mầy liền. Nói thiệt đó mà.
- Nó muốn trốn để theo qua dữ lắm, người đờn ông
nói, nhưng nó còn ngại.
- Ngại gì?
- Thì lo sợ cái việc xa xôi, đất lạ đó mà.
- Em nè, chị đờn bà lại hỏi, nhà có mấy người?
- Bốn người.
- Ai với ai?
- Ông nội tôi, tía tôi, má tôi, với tôi.
- Làm mấy công đất?
- Hồi đó bốn công, bây giờ mười công.
- Gặt được mấy giạ mỗi mùa?
- Tám giạ.
Chị đờn bà cười ngất một hơi rồi day lại hỏi nhân
tình:
- Trời ơi, ruộng gì mà mười công đất chỉ gặt được
có tám giạ thôi?
Người đờn ông không cười, đáp:
- Đất nước mặn nào mới khai hoang cũng như vậy hết.
- Rồi lấy gì mà ăn, em nhỏ?
- Tía tôi đi đổi lúa thêm, ở đâu không biết, xa lắm.
- Đổi bằng gì?
- Bằng cá khô. Với lại nhiều khi ăn rùa, ăn rắn trừ
cơm. Ở đây rùa nhiều như kiến. Đốt rừng rồi đón trên đầu gió một cái là chúng
nó lạch cạch chạy trốn. bắt không kịp lận.
Chị đờn bà tỏ vẻ ái ngại một hơi rồi nói:
- Nãy giờ chị nói chơi đó. Nhưng biết được tình cảnh
của em, chi thật bụng thấy là em cần đi theo chị hoặc theo anh đây cũng được.
Chị ta vói tay ra sau lưng lấy bầu nước ngọt, mở
nút ra rồi ngước mặt lên trời, róc nước vào miệng. Chị nuốt ừng ực vài cái rồi
nói:
- Em có được ăn chè lần nào không?
- Không, từ năm năm nay rồi. Cách đây một ngày đường
không có nhà cửa ai cả, không có quán, tiệm gì hết. Với lại cũng không có tiền.
- Ở Sa Đéc sao lại không vô Tháp Mười mà nhè xuống
U Minh nầy?
- Tui cũng không biết tại sao? Ở Tháp Mười dễ chịu
hơn hả?
- Chị cũng không biết. Chỉ biết đất hoang ở Tháp Mười
gần quê cũ của em hơn. Quê em ở gần Cao Lãnh hay không?
- Gần.
- Em có nhớ xoài Cao Lãnh hôn?
- Tui lạy chị. đừng có nhắc chè, nhắc xoài nữa tui
thèm muốn chết đi. Năm năm nay, tui không có biết món ngọt là gì. Mấy cây chuối
trồng sau nhà cũng chết queo vì đất còn mặn quá. Năm nay một cây trổ buồng, chắc
tui sẽ được ăn ngọt đây. Úy chà! Trưa rồi chắc tới bữa cơm, thôi tui về nha anh
chị?
- Ừ, về, mai mốt lại lên đây nữa nha?
- Xuồng anh chi ở đâu?
- Dưới kia. Nhổ bồn bồn ở dưới ấy, nhưng lên đây
cho khô ráo để ăn cơm trưa é mà! Em Cộc nè, em của chị ngộ lắm, trắng lắm nghe
không?
Chuỗi cười của hai người nhân tình ấy đuổi theo sau
lưng Cộc khiến cho nó trong giây phút không muốn về nhà nữa.
Ra khỏi rừng tràm râm mát, mắt Cộc bỗng dưng như đổ
hào quang trước ánh nắng tháng Mười. Không khí bị đốt cháy đang rung rinh như
nước xao, và nó tưởng chừng như mái lá nhà nó, đen thui dưới kia, sắp cháy đến
nơi.
Thằng Cộc về tới nhà thì cơm trưa đã dọn xong.
- Mầy đi đâu mà tới đứng bóng mới về? Má Cộc hỏi.
- Tôi đi lượm lông chim lông-ô.
- Lông đâu?
- Mà kiếm hoài hổng có.
- Mồ tổ cha mầy, nhiều chuyện. Chim lông ô đời xưa
chớ đời nay đâu còn nữa. Mai gặt nghe không. Ăn cơm khuya rồi xuống đồng cho sớm,
đừng đi đâu hết.
Cả nhà lặng lẽ ngồi quanh mâm cơm, không ai nói với
ai lời nào. Những người này, sống biệt tích ở đây lâu ngày rồi, đã gần biến
thành á khẩu vì thói quen.
Riêng thằng Cộc, sự cần nói của tuổi thơ đang lên mạnh
lắm như cần chạy nhảy, cần ăn uống vậy. Câu chuyện hồi nãy trên gò Ô Heo khiến
nó càng bắt mùi nói thêm, nên nín không được, nó hỏi ông nội nó:
- Nội nè, hồi mới tới, giữa mùa nắng, mình uống nước
gì tui quên rồi?
Nó hỏi như vậy vì nó vừa nhìn ra cái giếng bên hè
và nhớ ra là giếng đã ngọt nước hôm mùa nắng trước, mặc dầu đã được đào năm năm
rồi.
- Uống nước đọng trên lung, trên rừng chớ nước gì.
- Sao mình lại tới đây ông nội?
- Đã nói cho mầy biết rồi. Trên xứ, mình không có
ruộng, làm công khổ cả đời.
- Ở đây, mình có ruộng, nhưng cũng khổ cả đời.
Ông nội thằng Cộc làm thinh. Nó nhìn ông nội nó rồi
chợt nhận ra năm nay ông cụ già quá. Tóc râu ông cụ đã trắng bông. Nhớ ra ông cụ
thường than mình chết ngày nào không biết chừng, thường than mình nhớ mồ mả ông
bà quá, nó bùi ngùi thương ông, nên dòm ra sân để quên.
Bấy giờ bóng bốn nói rau đã tròn vành, chỉ rằng thật
đúng ngọ. Bốn cái nồi bể ấy, hèn thế mà rất nhiều công dụng đối với gia đình
nó.
Để tránh nước mặn tràn bờ ngập sân, tía nó đã đóng
mười hai cây cộc, làm thành bốn cái giá ba chơn tréo như giá trống của bọn đờn
thổi đám ma. Trên mỗi giá đặt một cái nồi lủng đít, và trong nồi để đầy đất mà
tía nó mang từ xa về. Đất ở đây mặn chát dùng không được. Hành, ớt, rau râm,
rau mồ om được trồng trong mấy vườn cao cẳng đó. Đó là bốn thứ tối cần, đất mặn
bao nhiêu cũng phải lập thế mà trồng cho được không thôi không có món gia vị
nào để ăn cá nữa.
Bốn miếng vườn cao cẳng và tí hon lại là chiếc đồng
hồ của nhà này vào mùa khô. Cứ xem bề dài của bóng giá là tính giờ được ngay và
khi bóng nồi tròn vụm che mất bóng giá là đúng ngọ ngay bon.
Nhìn ra sân một hơi, nhai nuốt hết cơm, nó day vô hỏi
tía nó:
- Năm nay mình gặt cỡ bao nhiêu tía?
- Nhờ ông bà, đất nước, được hăm lăm giạ là ít lắm.
- Cũng chưa đủ ăn.
- Đủ gì mà đủ, má nó nói, nhà mình phải ăn trăm rưởi
là số chót.
- Với lại, tía thằng Cộc trở vào câu chuyện, tại
lúa nàng Cụm thất gạo lắm. Năm tới tao gieo giống Tầm Vuột chắc được gạo hơn
nhiều. Năm nay hễ chuối trổ buồng là năm tới tao trồng sả, trồng ổi được rồi
đó.
Cả nhà đều hớn hở trước dự định tương lai tốt đẹp
kia. Nhưng thằng Cộc chưa thấy gì là sáng lạn cả. Trồng ổi cũng phải lâu mới có
trái, trong khi đó, nó tiếp tục thèm chè, thèm xưng-xa, nhớ đám cúng đình, nhớ
hát bội và bị một hình ảnh mới quyến rũ, hình ảnh của con Thôi, chắc là giống hệt
chi nhổ bồn bồn, tức là có duyên lắm.
Con trai làng thấy con gái thường là thế, mà họ còn
thầm lén rủ nhau đi một ngày đường nước để ra đây gặp nhau, huống hồ gì là nó
chưa được nói chuyện với con gái lớn lần nào hết. Những đứa con gái bạn của nó
cách đây năm năm, nó nhớ lại là không có gì quyến rũ cả. Đứa nào cũng cạo trọc
chừa bánh bèo phía sau và giữa chiếc bánh bèo mọc ra một chòm đuôi dài trông đến
buồn cười.
Nhưng mà con gái lớn phải khác. Cộc chưa thấy con
gái lớn, nhưng tin chắc như vậy. Có một linh cảm gì, ở đâu từ kiếp tiền thân của
nó bay lại và giúp cho nó biết như vậy.
Những cô con gái lớn chưa thấy hình ấy, mà đã có tiếng
kêu được, chúng âm thầm gọi Cộc, tiếng gọi như văng vẳng đâu trong không trung.
Thẫn thờ, thằng Cộc nói lại câu hồi nãy và giận dỗi
thêm một đoạn khiến ông nội nó giật mình, chống đũa mà nhìn nó trừng trừng:
- Ở đây mình có ruộng, nhưng cũng khổ cả đời. Tui
muốn đi quá, đi đâu cũng được, miễn là ở đó có làng xóm, có người ta.
*
Thằng Cộc thích mấy câu nọc nạng lắm. Bó lúa nào
gác lên đó cũng nằm yên cả chứ không chực rớt xuống nước ruộng như những bó lúa
gác lên đầu nọc thường. Đó là những gốc tràm mà cháng hai chẻ ra rất thấp. Khi
đốn tràm cháy, tía thằng Cộc đã trù xa, đốn ở trên cháng hai ấy độ một gang rưỡi,
nên bây giờ họ mới có nọc nạng rất tiện mà dùng gác lúa.
Ông nội thằng Cộc chống xuồng trên ruộng, len lỏi
qua mấy gốc tràm. Ông ghé từng gốc để cho lúa xuống xuồng.
Đủ thứ là cò, cò ma, cò lông bông, cò quắm, cò
hương, thân mật nhìn gia đình bốn người gặt lúa nhà. Đây là bốn người độc nhứt
mà chúng thấy mỗi ngày ở vùng hoang vắng nầy; ban đầu chúng sợ hãi họ, nhưng về
sau thấy họ hiền từ quá, chúng làm quen với họ đã được ba bốn thế hệ cò rồi.
Má thằng Cộc lội sình tới đầu gối, và lội nước gần
tới háng nhưng vui vẻ hơn ngày nào hết.
Bà ta tằng hắng rồi cất tiếng hò:
Hò ơ... Tiếng anh ăn học làu thông
Lại đây em hơi khăn lông mấy đường.
Hò xong câu đố ấy, bà lắng đợi chồng bà hò đáp.
Nhưng tía thằng Cộc cứ làm thinh mà gặt, khiến bà đâm ngượng nên cười rồi cự chồng
cho đỡ mắc cở:
- Tía nó sao câm cái miệng, không bắt vậy!
- Hứ, nhiều chuyện nà! Già rồi mà còn hò với hát, bắt
với ghẹo. Bộ còn trai gái gì đó sao?
Vì vui kết quả của cần cù nên má thắng Cộc quên rằng
bà ta đã quá mùa hò rồi. Tía nó nhắc lại bà ta mới chợt nhận ra. Tuy nhiên bà vẫn
ngậm ngùi nhớ cái thú vui ấy thuở bà còn con gái và ngay bây giờ đây tóc đã nhuốm
hoa râm rồi, bà cũng có thể hưởng được nếu còn ở làng, hưởng bằng cách khuyến
khích bọn trai trẻ hò đối đáp với nhau.
Thằng Cộc thì xôn xao trong lòng, nhớ lại lời chị
nhổ bồn bồn bảo rằng nó mà về làng làm ruộng thì ai cũng ưa. Ừ nó sẽ hò đối đáp
với con Thôi. Chậc! mà nó phải nhờ má nó dạy hò mới được. Nó có nghe hò lần nào
đâu để mà thuộc giọng và biết câu.
Đến chiều thì xong xuôi cả. Ông nội thẳng Cộc chống
xuồng lúa ra bờ rạch, còn tía, má nó và nó thì lội nước sình mà về bộ.
Đập lúa và phơi phong mất hết mười ngày. Trong những
ngày buồn tẻ phẳng lì giữa cảnh bùn lầy nước đọng ấy, thằng Cộc càng nao nức muốn
về làng.
Lại đây em hỏi khăn lông mấy đường!
Câu hò của má nó ám ảnh nó từ hôm gặt đến nay. Nếu
con Thôi mà hỏi đố nó câu ấy chắc nó phải ngậm câm, cho dẫu được phép trả lời bằng
văn xuôi.
Khăn lông là vật dụng mà nó quên rồi thì còn biết
là mấy đường để đáp cho thông. Từ lâu, nó chỉ có một chiếc quần xà lỏn trên người,
mùa nắng cháy như mùa mưa lạnh. Đêm khuya nhờ nóp che thân cho đỡ bị muỗi đốt
và gió cắt da.
Những món đồ cần dùng của thế giới văn minh ấy cũng
thuộc vào những thứ gợi thèm như là bánh trôi nước. bánh ít trần và mái tóc của
con Thôi.
Hôm ấy dừng bồ cho con cháu đổ lúa khô vào, ông nội
thằng Cộc long trọng nói:
- Ngày mai ra biển.
Không ai hỏi ra biển để làm gì hết. Thằng Cộc cũng
làm thinh, trái với mọi ngày mà nó hỏi không kịp đáp.
Con rạch Ô Heo trước nhà, nếu có đi trên ấy thì phải
về ngọn, nó nghĩ như vậy, đi về ngọn để rẽ qua những kinh rạch khác mà tìm làng
mạc sầm uất, chớ xuôi dòng ra biển thì còn nghĩa lý gì nữa chớ?
Nó chưa được ra biển lần nào cả và mấy năm trước
đây nó muốn theo ghe của bọn bắt cua đi một chuyến lắm, mà không được phép đi.
Chuyến đi đầu đến một chân trời lạ mà ông nội nó vừa
cho biết, không làm cho nó phấn khởi chút nào cả.
Ông nội nói tiếp, dặn mẹ nó:
- Con mẹ trùm, ngày mai phải dậy khuya nấu cơm. Tao
đi với thắng Trùm và thằng Cộc, đi thật sớm đề gặp con nước lớn ngay tại cửa và
về cho tiện.
*
Rạch Ô Heo nhỏ xíu cho nên tràm ở hai bên bờ giao
nhành với nhau được, và phủ kín cả mặt nước.
Rạch tối om, đi như đi trong hang. Bây giờ thằng Cộc
mới hiểu thấu nghĩa hai tiếng “hang mai” trong câu hát của bọn đi bắt ba khía.
Những nơi ánh nắng lọt vào được thì hai bên bờ, ô
rô và cóc kèn mọc đầy.
Nước ròng chảy xiết, xuồng trôi bon bon, tuy vậy,
ông nội và tía cũng chèo cẩn thận để mau tới, hầu về kịp nội buổi chiều đó.
Gần tới trưa, xuồng không đi mau nữa.
- Nước đứng rồi, ông nội nói, tức là gần tới cửa rồi.
Họ nghỉ chèo, để xuồng trôi linh đinh, không tiến
cũng chẳng lùi, rồi lấy cơm dỡ trong mo ra ăn.
Không đi thời thôi, đã trót đi, và lúc gần đến đích
thằng Cộc nghe thích thấy biển coi ra sao. Nó và cơm hối hả rồi hỏi:
- Ra đó làm gì ông nội?
- Rồi mấy sẽ biết.
Họ ăn cơm xong thì nước bắt đầu lớn. Họ chèo nước
ngược cho đến quá đứng bóng thì đến một nơi mà ông nội tuyên bố rằng đó là biển.
Thằng Cộc ngạc nhiên lắm mà không thấy biền đâu cả.
Con rạch tiếp tục đi xa ra ngoài kia, ngoài một chỗ xa tít mù khơi, hai bên bờ
rạch cây vẫn mọc xanh um và ở đầu ngoài kia, hai hàng rào cây như đứt khúc, đâm
vào một tấm vách tường xanh như da trời.
- Biển ở đâu, ông nội? Cộc hỏi.
- Đằng xa kia. xanh xanh đó.
- Sao không ra ngoải, ông nội?
- Không cần.
Tía thằng Cộc chèo mũi, rút sào câm xuống bùn, theo
lịnh của ông nội nó.
Ông nội gọi Cộc lại gần rồi hỏi:
- Con có thấy gì khác lạ không?
- Không, ông nội à?
- Không thấy? Cây ở đây không khác cây sau lưng
mình à?
- À... phải rồi.
Cộc nhìn lại thì quả như lời ông nội nó nói. Nơi
đây, đất đã hết. mà chỉ có bùn, tràm mọc tới mé đất cuối cùng thì dừng lại, như
là dân ở biên giới một nước kia dừng lại nơi bìa lãnh thồ mình.
Hết tràm thì có một khoảng trống nửa bùn nửa đất,
trên ấy cỏ ống mọc rậm ri và chim cao cẳng đủ loại đáp đầy trong cỏ.
Tràm đứng trước bãi cỏ mà nhìn dân láng giềng mọc
trên bùn đen. Đó là những cây ốm nhom, chen nhau mà vượt lên cao, cây nầy cách
cây kia không đầy bốn gang tay.
Bờ biển thoai thoải dốc xuống, trông rừng cây lạ ấy
như một đạo binh xuống núi, tuôn tràn từ trên cao xuống mé biển ngoài xa.
Xa, xa lắm, có những cây mọc lẻ tẻ như những tên
lính xung phong mau bước tiến tới để hãm thành lập công.
- Nhìn xuống gốc cây! Ông nội bảo.
Nước chưa lớn hẳn, đề lộ bùn đen dưới gốc cây ra.
Bùn đen từng nơi lại trắng xóa những đóa hoa năm cánh, hai màu đối chọi trông rất
đẹp.
- Cây gì mà lạ vậy ông nội? Trổ bông ngay dưới gốc?
- Bông trổ trên đầu nhưng cái rễ ăn lên mà người ta
gọi là rễ gió. Cây nầy là cây mắm, đây là rừng mắm đây.
- Cây mắm? Sao tui không nghe nói đến cây ấy bao giờ?
- Con không nghe, vì cây ấy không dùng được để làm
gì cả, cho đến làm củi chụm cũng không được.
- Vậy chứ trời sanh nó ra làm chi mà vô ích dữ vậy
ông nội, lại sanh hằng hà sa số như là cỏ ấy.
- Bờ biển nầy mỗi năm được phù sa bồi thêm cho rộng
ra hàng mấy ngàn thước. Phù sa là đất bùn mềm lủng và không bao giờ thành đất
thịt được để ta hưởng, nếu không có rừng mắm mọc trên đó cho chắc đất. Một khi
kia mắm sẽ ngã rạp. Giồng tràm lại nối ngôi nó. Rồi sau mấy đời tràm, đất thuần,
cây ăn trái mới mọc được.
Thấy thằng cháu nội ngơ ngác chưa hiểu, ông cụ vịn
vai nó mà tiếp:
- Ông với lại tía con là cây mắm, chơn giẫm trong
bùn. Đời con là đời tràm, chơn vẫn còn lấm bùn chút ít, nhưng đất đã gần thuần
rồi. Con cháu của con sẽ là xoài, mít, dừa, cau.
Đời mắm tuy vô ích, nhưng không uổng, như là lính
ngoài mặt trận vậy mà. Họ ngã gục cho kẻ khác là con cháu họ hưởng.
Con, con sắp được hưởng rồi, sao lại muốn bỏ mà đi.
Vả lại con không thích hy sanh chút ít cho con cháu của con hưởng sao?
Thằng Cộc nhìn lại ông nội nó và thương không biết
bao nhiêu ông già đã bỏ mồ, bỏ mả ông cha để hì hục năm năm trong đồng chua, nước
mặn ở Ô Heo.
Phải, cứ theo dự đoán của gia đình thì nó sắp được
hưởng tuy không nhiều, mà rồi sẽ nhiều.
Nó nắm chặt tay ông nội nó và thấy ông nội nó giỏi
quá. Ông có biết chữ nho kia mà.
- Ông ôi, nó than, nhưng tràm buồn quá!
- Tràm sẽ khỏi buồn nữa. Năm tới, đất thuần, ta làm
ba mươi công, và sẽ gọi dân cấy gặt ở xa tới để phụ lực. Rồi tía con sẽ cưới vợ
cho con, rồi thiên hạ sẽ bắt chước tràn tới đây mà phá rừng, vùng Ô Heo sẽ sầm
uất, vui biết bao nhiêu.
Tràm hết buồn vì sẽ đẻ ra cau, dừa, xoài, quít, đầy
nhà, nước sẽ ngọt một khi đất thuần...
- Và sẽ có chè ăn?
Ông nội cười ha hả mà rằng:
- Gì chớ chè thì sẽ có lu bù.
- Mà ông nội nè, cưới vợ làm sao được, ai thèm về Ô
Heo!
- Hai năm nữa người ta sẽ đồn đất Ô Heo thuần... Những
kẻ nghèo khó như ta chỉ mong được tới đây.
Ông nói điều nầy, không biết con hiểu được hay
không. Là tổ tiên ta ngày xưa từ miền Trung tràn vào đây đều chịu số phận làm
cây mắm cả, từ xứ Đồng Nai nước ngọt tới đây, ở đâu cũng hoang vu cả.
Họ đã ngã rạp trong chốn ma thiêng nước độc nầy để
lót đường cho con cháu họ đi tới, y như là đàn kiến xung phong, tốp đầu liều chết
đuối lội qua tộ nước rộng hũ đường để làm cầu cho bạn đi sau vào đến nơi có chất
ngọt.
Tất cả mấy lớp tiên phuông đầu đều ngã gục như rừng
mắm rồi ông sơ ông cố con, ông nội đây là tràm mới kiếm được miếng ăn...
- Tía!
Thằng Cộc lo lắng không biết tía nó sẽ làm tràm như
nó được hay không và kêu tía nó bằng một giọng thương yêu trìu mến hết sức.
- Thôi nhổ sào đi về cho kịp con nước, ông nội ra lịnh.
Ông nội vui vẻ quá, ông bỗng nhớ sực lại những câu
hò của thế hệ người tiên phuông đi khai thác đất hoang ở miền Nam. mà ngày nay
thế hệ tràm không hát nữa. Ông cất giọng khàn khàn lên:
Hò... ơ Rồng chầu ngoài Huế,
Ngựa tế Đồng Nai,
Nước sông trong sao cứ chảy hoài.
Thương người xa xứ lạc loài đến đây.
BÌNH NGUYÊN LỘC