Vẻ đẹp của tiếng Việt trong thơ Chân Phương
Khi
giải lao công việc, lúc tự giải trí cho bản thân, tôi đôi lúc bắt gặp mình cứ
tìm thơ Chân Phương để đọc.
Có
một cái gì đó quyến rũ từ giọng thơ này - cái gì vậy ? -
Tôi
đọc thật chăm chú, gắng tìm hiểu, gắng cảm nhận và suy nghĩ.
Vẫn
chưa tìm ra.
Vẫn
thích thú đọc.
Một
hôm nhận ra dấu ấn cảm giác đọc thơ anh, qua so sánh cảm giác nghe một bản nhạc
ưa thích. Thêm một thú vị cảm nhận.
Nhưng
vẫn chưa hết băn khoăn.
Cái
gì vậy ? -trong giọng thơ này- một riêng biệt hấp dẫn ?
Đến
hôm nay, tôi nghĩ, tôi đã chợt nhận ra :
Đấy
là vẻ đẹp của tiếng Việt trong thơ Chân Phương.
Đúng
thế, nghệ thuật dùng tiếng Việt của anh đã tạo nên vẻ hấp dẫn đặc biệt cho thơ
anh, đây là một thứ tiếng Việt được chọn lọc, giống như một khung vải công phu
cho một bức tranh cầu kỳ sắp ra đời, một bình sứ trắng muốt, sẵn sàng tôn vinh
vẻ đẹp của hoa hồng mùa xuân hay cúc vàng ngát mùa thu, một sắp đặt thứ tự hai
mươi tư chữ cái, cho đứa con tinh thần sắp hiện chân dung.
Tiếng
Việt trong thơ Chân Phương là chất liệu đã ra công từ tay một nghệ sĩ có nghề,
biết rằng linh hồn của sự vật không thoát khỏi hình hài bên ngoài của hình thức
chứa đựng nó, trái lại, tăng thêm nỗi tò mò, sự thích thú cảm nhận khi nhận ra,
và nỗi thưởng thức cùng nhịp của người viết và người đọc, khi cùng chung một
cung bậc tâm hồn.
Tôi
đọc : "Lý lịch của lời" : những triết lý đời người,
cách nhìn sự vật, sự diễn giải về cái thông thái, về tri thức nhân loại… ta
nhận ra ngay trong nội dung câu thơ.
Ban
đầu tò mò muốn biết, tôi lần theo những lý giải về những nội dung này, để xem
xem Chân Phương hy vọng gì sau những diễn giải, biết
đâu tìm ra khúc mắc hoặc quằn quại linh hồn nào đó của nhà thơ sau mọi chân lý.
Thật
bất ngờ, tôi tìm thấy hy vọng khi làm thơ của anh : dùng tiếng Việt giải
nghĩa kiến thức mình, linh hồn mình, một cách rất…thơ.
Rất
thơ vì ngôn ngữ Việt của anh rất ngắn gọn, giàu hình ảnh, đa ý nghĩa, gợi hình,
gợi cảm, tóm lại rất khác với một giọng văn xuôi.
Rất
thơ vì anh hay dùng những hình ảnh so sánh độc đáo, dùng lối ví von bất ngờ
nhưng rất tự nhiên, thể hiện thói quen chìm ngập vào suy nghĩ của cảm xúc, và
trình độ đọc cao cấp, dày dặn, để biết gọi tên sự vật chính xác như là nó.
Chân
Phương cho người ta cảm giác, anh không thể không biến hóa tiếng Việt như anh
muốn, trong các bài thơ, khi tiếng Việt trong anh, đã trở thành một mảng tri
thức nhuần nhuyễn trong mức độ văn hóa của riêng anh.
Đến
đây thì tôi biết một trong những bí quyết của thơ là gì : lôi cuốn người
đọc bằng những từ ngữ thật súc tích, nhưng vẫn đủ ý, đủ nghĩa, và mang hoàn
toàn dấu ấn của cá nhân người viết. Sự lối cuốn của thơ, phụ thuộc vào dấu ấn
cá nhân ấy.
„Lời
cất tiếng
hiện
tại chào đời
mặt
trời mở
biển
núi phân thân
mắt
đêm khép
quanh
co con đường tối nghĩa” ( Bập bẹ)
„
Bàn tay mù
quờ
quạng tìm cảm giác câm
cảm
giác câm
chờn
vờn trước khung vải trắng
vải
trắng bắt đầu mơ mộng” (Bài tập,1)
Đúng
thế, thơ Chân Phương cho ta thấy, không chỉ nhận thức bắt đầu chuyển động từ số
không, hình thức cũng thế, thơ bắt đầu từ những chữ cái riêng biệt :
a,b,c,d,đ… chúng bắt đầu lộn nhào trong óc người đọc ra sao đây ?
Tôi
thích sự nhạy cảm khi chọn lọc động từ của Chân Phương, anh tìm ra những động
từ rất sát nghĩa, nâng danh từ chỉ sự vật lên mức chính xác tối đa của nó, khi
đi kèm với trạng từ hoặc tính từ, cả câu thơ hoặc một đoản thơ lập tức được mở
rộng đến vô tận và sinh động, uyển chuyển lạ lùng.
Không
thể trích dẫn hết mọi câu thơ của Chân Phương, làm minh họa cho nhận định này,
vì mỗi bài thơ của anh là một ý khác nhau của đời sống, và cũng chính vì thế,
mang lại sự phong phú vô tận của từ vựng tiếng Việt anh dùng.
Tính
chính xác của cách dùng các thể loại từ, mang lại màu sắc tất nhiên của nội
dung sự vật, nhịp điệu cần có của chuyển động hình hài sự vật.
Chẳng
hạn bài : "Âm bản gốc", từ ngữ anh dùng ở đây đều âm u, lạnh
lẽo, nhợt nhòa, đầy âm tính :
„con
mắt
là
trứng thời gian ung thối
con
đường vắng
lũ
tượng cụt đầu bất động
con
mắt
là
phòng thí nghiệm ảo ảnh
những
hình bóng
tách
đôi tách đôi
bờ
bãi giật lùi
con
mắt
đạo
diễn cuốn phim
THỊ
GIÁC KHÔNG NGƯỜI
Rồi
chiếu khắp trời
âm
bản gốc”
Trong
bài thơ ”Độc hành” - Chân Phương tả cái cô độc „đến cực cùng” bằng những từ ngữ
bậc trung, không gợi sự dứt khoát, cũng chẳng nhắc đến cái tận cùng, như khi
anh triết lý về nhân tình thế thái.
Bởi
sự cô độc là trạng thái nằm giữa, là trạng thái lúc có lúc không, được anh đưa
vào hình ảnh con người lẻ loi giữa hai khoảng đất trời mông lung, mà câu thơ
cuối cùng, bằng một dấu hỏi, xác định sự cô độc này là có thật với người
viết :
„Tiếng
chuông đâu đổ chậm
âm
vang rạn nứt lòng,
tôi
nằm nghe suối khóc,
em
có biết gì không ?”
Tiếng
Việt trong thơ Chân Phương, đi kèm với những khám phá trăn trở nhiều dạng của
cảm xúc tâm hồn, khiến ta đọc một bài, lại tò mò muốn đọc thêm bài nữa, và
không thể dừng lại, nếu chưa đọc tiếp.
Và
thích thú giữa chừng, bằng ngôn từ tiếng Việt, nhận ra những đồng cảm chia xẻ
của chính mình, với tác giả, khi thấy anh quả thật có trách nhiệm với từng từ
lựa chọn, sao cho chính xác bày tỏ nội dung nhất, hình như đây là bản năng của
một người viết có trình độ, không chịu dừng lại ở cái tầm tầm, cái dễ dãi, mà
cứ thích hành hạ mình, vươn tiếp, đến sự hoàn thiện…