Tuesday, November 19, 2013

SALMAN RUSHDIE




     NHỮNG NGƯỜI BẤT ĐỒNG CHÍNH KIẾN HÔM NAY

    Nhật báo Le Monde / Sélection Hebdomadaire ( bài tuyển trong tuần) ngày 25-5-2013 đăng trong mục Débats (Tranh luận) ba tham luận của Salman Rushdie, Liao Yiwu, Philip Roth kèm lời giới thiệu của Nicolas Truong, Comment être dissident aujourd’hui ? phác họa về hoạt động bất đồng chính kiến trong bối cảnh chính trị toàn cầu hôm nay.
 Cả ba ngòi bút nói trên đều cảnh giác về sự lơ là đáng ngại của phương Tây đối với cuộc đấu tranh chung cho các quyền làm người sau khi Chiến Tranh Lạnh kết thúc và mặt trận kinh tế toàn cầu trở thành mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia và chính khách. Nếu trước đây phương Tây từng ngưỡng mộ và ủng hộ cuộc chiến đấu can đảm của Soljenitsyn, Sakharov, Havel, Mandela, Aung San Suu Kyi …, hào quang của các nhà bất đồng chính kiến hôm nay đã nhạt mờ trước xu thế dân chủ hóa những phong trào quần chúng phản kháng lan rộng nhờ các mạng xã hội, đặc biệt là  microbloggers, và không cần các gương mặt tiếng tăm phất cờ đi trước theo lối tranh đấu trước đây. Tuy nhiên đáng lo ngại hơn là thị trường và cuộc chạy đua tìm lợi nhuận khiến thiên hạ nhắm mắt bỏ qua thực tế tiêu cực của các chế độ phi nhân và nạn độc tài đảng trị, như Nicolas Trương  có nêu lên nhận xét  les valeurs d’échange supplantent les valeurs morales dans le nouvel ordre économique”(các giá trị trao đổi đã thay thế các giá trị đạo đức trong trật tự kinh tế mới ). Điển hình là sự bắt tay làm ăn của các nước Âu-Mỹ với Trung Quốc - như lời tố cáo của Liệu Diệc Vũ – quay mặt làm ngơ trước chính sách đàn áp tự do ngôn luận và các quyền công dân của chế độ toàn trị Bắc Kinh.
                                    
                                                       * * *

  Sau bản dịch giới thiệu Liệu Diệc Vũ (post trên amvc.fr và láxanh2015), mời các bạn đọc tiếp  tham luận của Salman Rushdie về vấn đề  bất đồng chính kiến. Không cần dài dòng về tiểu thuyết gia gốc Ấn này, người đã nổi tiếng toàn cầu sau vụ fatwa Hồi giáo vì đã xúc phạm giáo chủ trong cuốn The Satanic Verses và cũng là tác giả của Midnight’s Children - một trong những tiểu thuyết hàng đầu của hậu bán thế kỷ 20. Với kinh nghiệm về cuộc chiến Ấn độ- Pakistan do xung đột tôn giáo, và bi kịch bản thân với các thế lực Hồi giáo cuồng tín đã kết án tử hình ông, Salman Rushdie là một tiếng nói quốc tế luôn sát cánh với các ngòi bút bất đồng chính kiến. Các độc giả từng sống dưới chế độ cộng sản sẽ tìm thấy ở ông một đồng minh đầy nhiệt tình đã quan tâm liên tục đến số phận các ngòi bút dưới ách toàn trị . Ông từng nhắc lời Milan Kundera “ Cuộc tranh đấu giữa con người và quyền lực là cuộc tranh đấu của ký ức chống sự lãng quên.” ( trong tiểu luận Imaginary Homelands,1991). Trong bài tham luận dưới đây nổi bật một ý thức thời đại bên cạnh một lương tâm toàn cầu đã không ngừng kêu đòi tự do tư tưởng và ngôn luận. Nếu trước đây Rushdie chú ý đến các nhà văn Nga và Đông Âu, hiện nay ông đang theo dõi sinh hoạt tư tưởng và văn học ở Á châu, đặc biệt là Nam Á và Trung Quốc. Ông rất minh bạch về chức năng  chính trị của văn học, nhất là tiểu thuyết : …miêu tả  tự nó là một hành động chính trị;  cũng như… tiểu thuyết là một cách phủ nhận phiên bản chính thức về sự thật của các nhà chính khách. (Imaginary Homelands).
  Tóm lại, Salman Rushdie cũng như Liệu Diệc Vũ kêu gọi người đọc lên tiếng. Thái độ tích cực này sẽ biến từng người công dân thành chứng nhân có ý thức chống lại các âm mưu đánh tráo hoặc bôi xóa sự thật lịch sử của các chế độ toàn trị và bạo quyền.  

                                                                                             CHÂN PHƯƠNG





       CAN ĐẢM CHÍNH TRỊ, 
                 MỘT ĐỨC TÍNH NGÀY NAY BỊ NGHI NGỜ


   Hình như ta dễ dàng khâm phục sự gan dạ thể xác hơn là sự can đảm tinh thần vào thời buổi loạn thế này. Chúng ta ca ngợi người mang nón cao bồi can cường leo qua rào chắn để cứu nguy các nạn nhân lúc Boston bị đặt chất nổ trong lúc những kẻ khác tháo chạy. Nhưng khó hơn cho chúng ta khi muốn công nhận lòng can đảm ở các vị có tinh thần trách nhiệm chính trị, trừ Nelson Mandela và Aung San Suu Kyi ra.  Có lẽ chúng ta đã thấy biết quá nhiều, và bị các trò thỏa hiệp khó tránh với quyền lực đẩy ta vào thói hoài nghi nhạo báng (cynisme). Còn đâu cái thời của Gandhi với Lincoln!

   Điều còn lạ lùng hơn là chúng ta lại đi ngờ vực những ai có thái độ chống các lạm dụng quyền lực hay giáo điều. Trước đây đâu có như vậy.  Các ngòi bút và trí thức chống cộng, như Alexander Soljenitsyn và Andrei Sakharov, được ngưỡng mộ rộng rãi vì lập trường của họ. Nhà thơ Osip Mandelstam được khâm phục vì đã viết bài thơ châm biếm Stalin vào năm 1933. Vị lãnh tụ đáng gờm ấy được miêu tả bằng những từ dũng cảm: “ Lúc ông ta cười, râu mép động đậy như loài gián”. Bài thơ ấy khiến thi sĩ bị tù đày và sau cùng chết trong một trại lao động xô viết.

   Cũng gần đây thôi, vào năm 1989 hình ảnh một người đang xách hai túi thực phẩm dám chặn đường xe tăng giữa Thiên An Môn đã gần như tức thời trở thành biểu tượng toàn cầu của lòng can đảm. Sau đó hình như sự thế đã đổi khác. “ Người chặn xe tăng” đã rơi vào quên lãng ở Trung Quốc; và các người biểu tình cỗ vũ cho dân chủ, kể cả những ai đã bỏ mạng trong mấy vụ thảm sát hai ngày 3 và 4 tháng 6 -1989, đã bị giới cầm quyền Bắc Kinh tố cáo gán cho tội chống phá cách mạng.

    Thuật diễn giải lại các sự việc là cuộc tranh chấp không ngừng và nó làm rối mù khả năng lĩnh hội của chúng ta khi phán xét những người “can đảm”. Đấy là cách nhà cầm quyền Trung quốc xử lý những kẻ chống đối có danh tiếng nhất. Thói kết án “ nghịch tặc” gán cho nhà cầm bút Lưu Hiểu Ba và tội trốn thuế gán cho nghệ sĩ Ngải Vị Vị là những mưu toan cố tình nhằm xóa nhòa lòng can đảm của họ và biến họ thành tội đồ.

   Ở Nga, ảnh hưởng của giáo hội Chính Thống mạnh đến đổi các thành viên bị cầm tù trong ban nhạc Pussy Riot còn bị dư luận nói chung kết tội xúc phạm luân lý vì đã trình diễn sự phản kháng lẫy lừng của họ nơi các khuôn viên của giáo hội. Quan điểm họ cho rằng giới lãnh đạo giáo hội Nga có liên hệ quyền lợi quá khăng khít với tổng thống Putin đã bị bọn người bài bác đông đảo lờ đi, và hành động của ban nhạc thay vì được khen can đảm lại bị cho là thất cách.

   Hai năm trước ở Pakistan, cựu thống đốc Punjab là Salman Taseer  đã bảo vệ Asia Bibi, một phụ nữ theo đạo Thiên Chúa bị kết án tử hình sai lầm vì pháp luật khắt khe của địa phương đối với tội miệt thị tôn giáo. Do đó ông bị một người bảo vệ của mình ám sát. Tay này, Mumtaz Qadri, lại được hoan nghênh và được thiên hạ đón bằng trận mưa hoa hồng trên đường đến tòa án. Về phần Salman Taseer, ông phải chịu nhiều chỉ trích và dư luận đã chống báng ông.

   Tháng Hai 2012, một ký giả kiêm thi sĩ ở Ảrập Sau-đi là Hamza Kashgari đã phổ biến ba ý kiến trên Tweeter về nhà tiên tri Mahomet. Sau đó ông khẳng định rằng “  đã giành lại quyền “ tự do tư tưởng và ngôn luận của mình. Chẳng có bao nhiêu người ủng hộ ông, ông bị kết án phản đạo và có lắm kẻ lên tiếng đòi xử tử ông. Hiện nay ông vẫn ngồi tù.

   Các nhà văn và trí thức thời Khai Sáng ở Pháp cũng đã thách đố sự chính thống tôn giáo (orthodoxie religieuse) của thời đại họ, và qua đó sáng lập khái niệm hiện đại về tự do tư tưởng. Voltaire, Diderot, Rousseau với nhiều nhân vật khác trở thành những người hùng trí thức của chúng ta. Khốn khổ thay, chẳng có mấy người trong thế giới hồi giáo dám nói về Hamra Kashgari như thế.

   Tư tưởng mới cho rằng phải kết tội các nhà văn, giáo chức đại học và nghệ sĩ đấu tranh chống sự chính thống tôn giáo và sự bất khoan thứ (intolerance) vì họ đã làm phiền thiên hạ một cách vô ích đang lan truyền nhanh chóng ở cả những xứ như Ấn Độ - trước đây từng có thể tự hào về sự tự do trên khắp đất nước mình.

   Những năm gần đây, đại họa gia của hội họa Ấn là Maqbool Fida Husain đã buộc phải lưu vong sang Dubai, rồi Luân Đôn nơi ông qua đời. Người ta trách ông đã thể hiện trần truồng nữ thần Ấn độ giáo Sarawasti ( trong lúc chỉ cần quan sát qua loa các tượng hình Ấn độ giáo cổ xưa là có thể nhận ra sự thoát y khá thường xuyên của nữ thần này, cho dù trên người bà đeo đầy ngọc ngà và trang sức.)

   Cuốn tiểu thuyết lừng danh của Rohinton Mistry ( bản dịch tiếng Pháp Un si long  voyage - Một chuyến đi quá dài , 2003), bị rút khỏi chương trình giảng dậy của đại học Bombay vì những kẻ cực đoan địa phương bài bác nội dung tiểu thuyết. Giáo sư Ashis Nandy  bị tấn công vì đã phát biểu các ý tưởng không được chính thống lắm về sự đồi trụy của các giai cấp thấp hèn. Và trong mỗi trường hợp như thế, dư luận chính thức có vẻ đã thu thập sự đồng tình của nhiều bình luận viên cùng một phần quan trọng của dư luận đường phố khi kết luận rằng các nghệ sĩ và giới chức đại học ấy  đã tự mình gây ra những phiền lụy nọ và không nên đổ lỗi người khác.  Những kẻ mà vào các thời điểm khác trước đây sẽ được ngợi ca là có đầu óc độc lập không giống ai bây giờ càng lúc càng được nghe nhiều người khuyên can: “ Mi nên ngồi xuống đi, không khéo mi sẽ làm lật ghe chìm xuồng”

   Đây là thời buổi buồn nản đối với những ai tin vào quyền đẩy lùi các giới hạn của tự do, quyền thử thách rủi ro, cũng như đôi khi quyền biến đổi cách nhìn thế giới  của các nghệ sĩ và các công dân bình thường đang bị áp bức. 

   Không còn gì khác ngoài việc tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của đức tính can đảm này và cố gắng bảo đảm làm thế nào các nạn nhân của sự đàn áp như Ngải Vị Vị, ban nhạc Pussy Riot, Hamza Kashgari, không bị tước đoạt thực chất của họ: những người đàn ông và đàn bà  chiến đấu trên tuyến đầu của tự do. Bằng cách nào làm được việc này? Đóng góp chữ ký của bạn vào các kiến nghị chống lại cách đối xử của bạo quyền, tham gia vào các phong trào phản đối. Hãy lên tiếng. Mỗi sáng kiến dù nhỏ bé thế nào cũng có tầm quan trọng của nó.

                                                                                       SALMAN  RUSHDIE


Nguồn: Nhật báo LE MONDE 25-5-2013. “Le courage politique, une vertu hier célébrée dont on se méfie à présent”. Gérard Meudal dịch nguyên tác sang Pháp văn. Bản dịch Việt ngữ và các đoạn in đậm do dịch giả nhấn mạnh. Bản dịch này cũng là món quà tặng nhỏ cho các trí thức VN can đảm đã lên tiếng cho dân chủ và nhân quyền lâu nay. C.P.

Ảnh chụp SALMAN RUSHDIE trên bìa tập tiểu luận nhận định và phê bình văn học IMAGINARY HOMELANDS, bên cạnh là tiểu thuyết được giải Booker Prize 1981: MIDNIGHT'S CHILDREN.