Chủ nghĩa hiện thực và sự thể nghiệm
Kathryn VanSpanckeren
Văn
chương tự sự từ Thế chiến thứ hai chống lại sự khái quát hóa bởi vì nó
cực kỳ phong phú và đa diện. Nó được hồi sinh bởi các trào lưu văn học
thế giới, như là chủ nghĩa hiện sinh châu Âu và chủ nghĩa hiện thực
huyền ảo châu Mỹ Latin, trong lúc kỷ nguyên điện tử đã biến thế giới
rộng lớn thành một ngôi nhà chung. Ngôn ngữ nói trên truyền hình đã mang
cuộc sống mới đến cho truyền thống văn học nói. Những thể loại truyền
miệng, phương tiện thông tin đại chúng và văn hóa phổ thông ngày càng
ảnh hưởng tới văn chương tự sự.
Trong quá khứ, nền văn hóa bác
học đã ảnh hưởng đến văn hóa bình dân qua vị thế và mẫu mực của nó; điều
ngược lại có vẻ đúng với nước Mỹ ngày nay. Những nhà văn nghiêm túc như
Thomas Pynchon, Joyce Carol Oates, Kurt Vonnegut, Jr., Alice Walker và
E. L. Dotorow đã vay mượn và bình luận về truyện bằng tranh trên báo,
những cuốn phim, thời trang, những ca khúc và lịch sử.
Nói lên
điều này không nhằm tầm thường hóa nền văn học đương đại: Các nhà văn ở
Mỹ đang đặt nhiều câu hỏi nghiêm túc, nhiều câu trong đó có bản chất
siêu hình. Họ có tinh thần đổi mới và tự nhận thức mình, hay “phản
tỉnh”, rất cao. Thông thường họ thấy những kiểu cách truyền thống không
mấy hiệu quả. Họ tìm kiếm sức sống trong chất liệu thông thường, rộng
lớn hơn. Nói một cách khác: nhà văn Mỹ, trong những thập kỷ gần đây đã
phát triển một cảm thức hậu - hiện đại. Việc điều chỉnh lại các quan
điểm của các nhà văn theo chủ nghĩa hiện đại không còn phù hợp đối với
họ; cái chính là điều kiện cho những quan điểm mới ra đời.
DI
SẢN KẾ THỪA CỦA CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC VÀ NHỮNG NĂM CUỐI CỦA THẬP NIÊN 40
Giống
như tiểu thuyết trong nửa đầu thế kỷ 20, tiểu thuyết ở nửa sau của thế
kỷ phản ánh đặc điểm của mỗi thập kỷ. Những năm cuối thập kỷ 40 đã chứng
kiến hậu quả của Thế chiến II và sự bắt đầu của cuộc Chiến tranh Lạnh.
Chiến
tranh Thế giới Thứ hai đã cung cấp những chất liệu cơ bản cho nhiều tác
phẩm. Norman Mailer trong tác phẩm The Naked and the Dead (Kẻ
trần truồng và người chết - 1948) và James Jones trong From Here to
Eternity (Từ đây đến vô tận - 1951) là hai nhà văn đã sử dụng những
chất liệu sống tốt nhất. Cả hai đều khai thác chủ nghĩa hiện thực rất
gần với chủ nghĩa tự nhiên trần trụi; cả hai đều cố hết sức để không tôn
vinh cuộc chiến. Điều này cũng xảy ra với The Young Lions (Sư
tử non - 1948) của Irwin Shaw. Herman Wouk trong The Caine Mutiny
(Cuộc tạo phản ở Caine - 1951), cũng cho thấy những nhược điểm của con
người hiện rõ trong thời chiến cũng như trong cuộc sống dân sự. Về sau,
Joseph Heller mô tả Chiến tranh Thế giới Thứ hai bằng những từ ngữ có
tính cách châm biếm và phi lý, chẳng hạn như Catch-22[1] (Cạm bẫy - 1961), lập luận rằng chiến
tranh luôn kết hợp với sự điên loạn. Thomas Pynchon trình bày một tình
huống nổi bật, phức tạp nhại theo và thay thế những tình huống khác nhau
trong thực tế trong cuốn Gravity’s Rainbow (Cầu vồng của trọng
lực - 1973). Kurt Vonnegut, Jr., đã trở thành một trong những ngọn hải
đăng của trào lưu phản văn hóa trong những năm đầu thập niên 70 sau khi
xuất bản cuốn Slaughterhouse - Five: or, The Children’s Crusade
(Lò sát sinh số 5 hoặc cuộc thập tự chinh của trẻ con - 1969). Cuốn
tiểu thuyết chống chiến tranh của ông nói về cuộc đánh bom ở Dresden
(Đức) của lực lượng Đồng minh trong Chiến tranh Thế giới Thứ hai (cuộc
ném bom mà ông đã chứng kiến từ dưới mặt đất khi là tù binh).
Thập
niên 40 cũng chứng kiến sự lên ngôi của đội ngũ tài năng trẻ, bao gồm
nhà thơ - tiểu thuyết gia - nhà viết tiểu luận Robert Penn Warren, hai
nhà soạn kịch Arthur Miller và Tennessee Williams, những nhà văn viết
truyện ngắn Katherine Anne Porte và Endora Welty. Tất cả đều là những
nhà văn người miền Nam trừ Miller. Tất cả đều khám phá thân phận cá nhân
trong gia đình hay cộng đồng và xoáy vào sự cân bằng giữa sự phát triển
cá nhân và trách nhiệm đối với cộng đồng.
Robert
Penn Warren
(1905-1989)
Robert Penn
Warren, một trong những nhà văn nhóm Fugutive ở miền Nam, gặt hái được
thành công mỹ mãn hầu như trong suốt thế kỷ 20. Suốt cuộc đời mình, ông
quan tâm đến những giá trị dân chủ khi chúng xuất hiện trong các bối
cảnh lịch sử khác nhau. Cuốn tiểu thuyết ngự trị lâu dài nhất của ông là
All the King’s Men (Tất cả thần dân của vua - 1946), xoáy sâu
vào những khía cạnh đen tối của giấc mơ Mỹ - được bộc lộ trong câu
chuyện về con đường tiến thân đầy những uẩn khúc của một thượng nghị sĩ
miền Nam khoe khoang và ranh mãnh - Huey Long.
Authur
Miller
(1915- )
Nhà soạn kịch, viết tiểu
thuyết, viết tiểu luận và viết tiểu sử người New York - Authur Miller -
đạt đến đỉnh cao vào năm 1940, với cuốn Death of a Salesman
(Cái chết của người chào hàng). Cuốn sách là một công trình nghiên cứu
của một con người trong cuộc tìm kiếm danh dự và giá trị của anh ta
trong cuộc sống và sự nhận thức rằng thất bại luôn chờ phía trước một
cách chắc chắn. Chuyện xảy ra trong gia đình Loman, xoay quanh những mối
quan hệ khập khiễng giữa người cha và những đứa con trai, giữa chồng và
vợ. Nó là tấm gương phản chiếu tình hình văn học vào thập niên 40 - một
sự kết hợp phong phú giữa chủ nghĩa hiện thực với hơi hướng của chủ
nghĩa tự nhiên: các nhân vật được khắc họa cẩn thận, tròn trịa; và nhấn
mạnh vào giá trị của mỗi cá nhân, mặc cho những thất bại và lỗi lầm. Death
of a Salesman là một bài ca chiến thắng thật cảm động cho những
con người bình thường - như bà góa phụ Willy Loman ca ngợi, “phải chú ý
đến họ”. Thương tâm và ảm đạm, nó cũng là câu chuyện về những giấc mơ.
Như một nhân vật ghi nhận một cách mỉa mai, “một người chào hàng cũng
phải mơ ước, bé ạ. Nó đến cùng với đất đai”.
Death of a
Salesman, một tác phẩm đặc sắc, vẫn chỉ là một trong nhiều vở kịch
Miller viết qua nhiều thập kỷ, gồm All My Sons[2] (Tất cả đều là con tôi - 1947) và The
Crucible[3] (Thử thách cam go - 1953). Cả hai đều
mang tính chính trị - một vở về thời hiện đại, vở kia lấy bối cảnh thời
thuộc địa. All My Sons nói về một nhà sản xuất dù biết rõ vẫn
cho phép những phụ tùng không đạt yêu cầu được lắp ráp ở những công ty
máy bay trong Chiến tranh Thế giới Thứ hai, dẫn đến cái chết của chính
đứa con trai của ông và những người khác. The Crucible khắc họa
những phiên tòa xử phù thủy ở Salem (Massachusetts) vào thế kỷ 17 trong
đó một số người định cư Thanh giáo đã chết oan vì bị cho là phù thủy.
Tuy nhiên, thông điệp của nó - rằng “cuộc thanh trừng phù thủy” nhắm vào
những người dân vô tội là con ghẻ của nền dân chủ - lại có liên quan
đến giai đoạn trong đó vở kịch được dàn dựng, đó là những năm đầu thập
niên 50, khi một chiến dịch chống cộng do thượng nghị sĩ Joseph Mc
Carthy và những người khác lãnh đạo đã hủy hoại mạng sống của bao người
dân vô tội.
Tennessee Williams
(1911
- 1983)
Tennessee Williams, người vùng Mississippi, là
một trong những nhà văn khá phức tạp trên văn đàn nước Mỹ vào giữa thế
kỷ 20. Tác phẩm của ông tập trung vào những xúc cảm xáo trộn, rối rắm và
vấn đề tính dục chưa được giải quyết ổn thỏa trong đời sống gia đình -
hầu hết là ở miền Nam. Ông nổi tiếng về những câu nói lặp đi lặp lại như
thần chú, một cách diễn đạt đầy chất thơ của miền Nam, về những bối
cảnh Gothic kỳ lạ, và những khám phá về những khát khao tình dục theo
Freud. Là một trong những nhà văn Mỹ đầu tiên công khai sống như một
người đồng tính luyến ái, Williams giải thích rằng đời sống tính dục của
các nhân vật bị đọa đầy của ông diễn đạt sự cô đơn của họ. Những nhân
vật của ông sống và chịu đau khổ một cách sâu xa.
Williams viết
hơn 20 vở kịch dài, nhiều vở mang tính chất tiểu sử tự thuật. Ông đạt
đến đỉnh cao trong sự nghiệp tương đối sớm - vào thập niên 40 - với The
Glass Menagerie (Bầy thú bằng thủy tinh - 1944) và A Streetcar
Named Desire (Chiếc xe điện mang tên Dục vọng - 1947). Không một
tác phẩm nào trong suốt hơn 2 thập kỷ sau đó đạt được mức độ thành công
và phong phú như hai vở kịch này.
Katherine
Anne Porter
(1890 - 1980)
Cuộc đời và sự
nghiệp dài lâu của Katherine Anne Porter trải qua nhiều mốc lịch sử. Tác
phẩm thành công đầu tiên của bà, câu chuyện “Flowering Judas” (Judas
Hoàn thiện - 1929), lấy bối cảnh ở Mexico trong thời kỳ cách mạng. Những
truyện ngắn trau chuốt tuyệt vời mang lại danh tiếng cho bà qua những
mảng đời được bộc bạch một cách tinh tế: “The Jilting of Granny
Weatherall” (Người tình phụ bạc của bà ngoại Weatherall) chẳng hạn, đã
chuyển tải những cảm xúc lớn lao một cách chính xác, ngắn gọn. Bà thường
mô tả đời sống nội tâm của phụ nữ và sự lệ thuộc của họ vào đàn ông.
Những
sắc thái biểu cảm của Porter chịu ảnh hưởng nhiều từ những câu chuyện
của nhà văn sinh ở New Zealand, Katherine Mansfield. Những tập truyện
của Porter bao gồm Flowering Judas (1930), Noon Wine (Rượu
trưa - 1937), Pale Horse, Pale Rider (Ngựa còi, nài
cọc - 1939), The Leaning Tower (Tháp nghiêng - 1944) và Collected
Stories (Truyện ngắn chọn lọc - 1965). Vào đầu những năm 60, bà
sáng tác một tiểu thuyết dài mang tính chất phúng dụ với một đề tài phi
thời gian về trách nhiệm giữa người với người. Câu chuyện có tựa đề Ship
of Fools (Con tàu của những người ngu - 1962) xảy ra trên boong
một con tàu chở khách mang những con người thuộc xã hội thượng lưu Đức
và những người dân tị nạn của Đức trốn chạy bọn phát xít Đức vào cuối
những năm 30.
Tuy không viết nhiều, sáng tác của Porter vẫn ảnh
hưởng đến nhiều thế hệ nhà văn, trong số họ có những bạn văn miền Nam
của bà là Eudora Welty và Flannery O’Connor.
Eudora
Welty
(1909- )
Sinh ở Mississippi trong một
gia đình khá giả sau này chuyển lên sống ở miền Bắc, Eudora Welty được
Warren và Porter dẫn dắt vào nghề. Thật ra, Porter đã viết lời giới
thiệu cho tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của Welty, A Curtain of
Green (Màn cửa xanh lá cây - 1941). Welty nương theo khuôn mẫu của
Porter để viết các tác phẩm của mình nhưng nữ văn sĩ trẻ quan tâm hơn
đến những điều khôi hài và lập dị. Cũng như với Flannery O’Connor sau
này, các nhân vật trung tâm của bà thường bất thường, quái dị hay ở
những trường hợp ngoại lệ.
Mặc dù tác phẩm của bà có nhiều yếu tố
bạo lực, trí thông minh của Welty tự bản chất mang tính nhân bản và lạc
quan, ví dụ như trong câu chuyện thường được đưa vào các tuyển tập
chính của bà: Why I Work at the P.O. (Tại sao tôi làm việc ở
Bưu điện), nói về một đứa con gái bướng bỉnh và độc lập bỏ nhà đến sống
trong một bưu điện nhỏ xíu. Những tập truyện của bà bao gồm The Wide
Net (Mạng rộng - 1943), The Golden Apples (Những trái táo
vàng - 1949), The Bride of the Innisfallen (Cô dâu của
Innisfallen - 1955), và Moon Lake (Hồ Trăng - 1980). Welty cũng
viết những cuốn tiểu thuyết như Delta Wedding (Đám cưới Delta -
1946), kể chuyện một gia đình ở một trang trại trong thời hiện đại và The
Optimist’s Daughter (Con gái người lạc quan - 1972).
THẬP
NIÊN 50 SUNG MÃN NHƯNG THA HÓA
Trong thập niên 50 người
ta đã thấy rõ tác động của hiện đại hóa và kỹ thuật hóa trong cuộc sống
hàng ngày, một ảnh hưởng còn sót lại từ thập niên 20 - trước cuộc Đại
khủng hoảng kinh tế. Chiến tranh Thế giới Thứ hai đã đưa Hoa Kỳ thoát
khỏi cuộc Đại khủng hoảng và thập niên 50 đã cung cấp cho hầu hết dân cư
Mỹ thời gian tận hưởng sự giàu có vật chất đã chờ đợi từ lâu. Công việc
kinh doanh, đặc biệt trong thế giới các công ty, hình như mang lại cuộc
sống tốt đẹp (thường là ở ngoại vi đô thị), với những dấu hiệu thực sự
và là biểu tượng của sự thành công - nhà cửa, xe hơi, truyền hình và đồ
điện gia dụng.
Tuy nhiên, sự cô đơn trên hết vẫn như là một đề tài
nổi bật, con người thuộc một đám đông không nhân mạo đã trở thành khuôn
mẫu đặc trưng trong cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất của Sloan Wilson The
Man in the Gray Flannel Suit (Người đàn ông mặc bộ đồ len xám -
1955). Sự tha hóa của nước Mỹ được khái quát trong một công trình nghiên
cứu nghiêm túc của nhà xã hội học David Riesman - cuốn The Lonely
Crowd (Đám đông đơn độc - 1950) - những công trình nghiên cứu khác
ít hoặc nhiều tính khoa học tiếp nối nhau xuất hiện: từ cuốn The
Hidden Persuaders (Người thuyết phục giấu mặt (1957) và The
Status Seekers (Những kẻ chạy theo danh vọng - 1959) của Vance
Packard, đến The Organization Man (Người của tổ chức 1956) của
William Whyte và các cuốn White Collard (Viên chức - 1951) và
The Power Elite (Giới tinh hoa quyền lực - 1956) có tính trí tuệ
hơn của Wright Mill. Viện sĩ hàn lâm và nhà kinh tế học John Kenneth
Galbraith đã đóng góp cuốn The Affluent Society (Một xã hội sung mãn -
1958). Hầu hết các tác phẩm này đều tán đồng các giả định có từ thập
niên 50 rằng mọi người dân Mỹ cùng chia sẻ một lối sống chung. Những
công trình nghiên cứu này dùng lối nói phổ thông chỉ trích những công
dân đã đánh mất bản sắc cá nhân thời khai phá trở thành những kẻ sống
quá rập khuôn theo tập tục chung của xã hội (ví dụ, Riesman và Mills) và
khuyên mọi người trở thành thành viên của một “giai cấp mới” mà khoa
học kỹ thuật và thời gian rảnh rỗi đã tạo nên (như có thể thấy trong các
tác phẩm của Galbraith).
Thập niên 50 thật sự là thập niên của
những áp lực trên mọi lĩnh vực và rất khó nhận biết. Những cuốn tiểu
thuyết của John O’Hara, John Cheever và John Updike cố khám phá sự căng
thẳng lẩn quất trong bóng tối của cảm giác thỏa lòng. Những tác phẩm hay
nhất khắc họa những con người bị rớt đài trong cuộc vật lộn để đạt đến
thành công, như trong Death of a Salesman của Authur Miller và
tiểu thuyết Seize the Day (Sống qua ngày - 1956) của Saul
Bellow. Có vài nhà văn đi xa hơn khi lần theo những con người bỏ cuộc
như J.D. Salinger trong The Catcher in the Rye (Bắt trẻ đồng
xanh - 1951), Ralph Ellison trong Invisible Man (Người vô hình -
1952) và Jack Kerouac trong On the Road (Trên con đường tự do[4] - 1957). Và trong những tháng ngày cuối
cùng của thập kỷ, Philip Roth xuất hiện cùng với một loạt những truyện
ngắn phản ánh sự tha hóa khỏi cội nguồn Do Thái của mình (Goodbye,
Columbus - Vĩnh biệt, Columbus - 1959). Những suy ngẫm tâm lý của ông đã
cung cấp chất liệu cho tiểu thuyết và về sau cho cả tiểu sử tự thuật
của những năm 90.
Tiểu thuyết của những nhà văn Mỹ - Do Thái như
Bellow, Bernard Malamud và Isaac Bashevis Singer - một vài gương mặt
điển hình trong thập niên 50 và những năm tiếp theo sau - cũng là những
tác phẩm thực sự có giá trị, một sự bổ sung hấp dẫn vào bản phác họa văn
học Mỹ. Tác phẩm của ba nhà văn này nổi tiểng vì tính khôi hài, mối
quan tâm đạo đức, và những miêu tả về cộng đồng Do Thái ở Cựu và Tân thế
giới.
John O’Hara
(1905 -
1970)
Được đào tạo làm nhà báo, John O’Hara là nhà văn
sung sức viết nhiều vở kịch, truyện ngắn và tiểu thuyết. Ngòi bút của
ông thực sự điêu luyện trong việc xây dựng chu đáo các tình tiết và được
độc giả nhớ đến nhiều nhờ một số cuốn tiểu thuyết hiện thực, hầu hết
được viết vào thập niên 50, về những con người có bề ngoài thành đạt
nhưng những lỗi lầm giấu kín và sự bất mãn sâu xa trong tâm hồn làm cho
họ rất dễ bị tổn thương. Đó là những cuốn Appointment in Samarra
(Hẹn gặp ở Samarra - 1934), Ten North Frederick (Mười người ở
Bắc Frederick - 1955), và From the Terrace (Từ hiên nhà -
1958).
James Baldwin
(1924
- 1987)
James Baldwin và Ralph Ellison là tấm gương phản
ánh cuộc sống của người Mỹ Da đen vào thập niên 50. Nhân vật của họ phải
chịu đựng cảnh sống thiếu bản sắc, hơn là đau khổ vì quá cao vọng.
Baldwin, lớn nhất trong chín anh em trong một gia đình ở Harlem, New
York, là con nuôi của một mục sư. Khi còn trẻ, Baldwin đôi lúc cũng
giảng đạo trong nhà thờ. Kinh nghiệm này giúp hình thành khả năng hùng
biện hết sức cuốn hút trong văn xuôi của ông, thể hiện rõ nhất trong các
bài tiểu luận như “Letter from a Region of My Mind” (Thư tự lòng tôi)
trong tập The Fire Next Time (Ngọn lửa tương lai - 1963). Trong
cuốn sách này, những lập luận gây xúc động sâu xa của ông là nhằm chấm
dứt nạn phân biệt các chủng tộc.
Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của
Baldwin, cuốn Go Tell It On the Mountain (Đi mà kể trên núi -
1953) mang tính chất tự truyện, có lẽ là cuốn nổi tiếng nhất của ông.
Đây là câu chuyện của một thiếu niên 14 tuổi trong cuộc tự tìm kiếm bản
thân và niềm tin tôn giáo; như khi cậu bé vật lộn với những vấn đề cải
đạo Thiên Chúa trong một tiền sảnh nhà thờ. Những tác phẩm quan trọng
khác của Baldwin bao gồm Another Country (Xứ người - 1962), một
cuốn tiểu thuyết đề cập đến vấn đề chủng tộc và đồng tính luyến ái và
cuốn Nobody Knows My Name (Không ai biết tên tôi - 1961), một tuyển tập
những tiểu luận mang dấu ấn cá nhân tràn đầy nhiệt tình về nạn kỳ thị
chủng tộc, vai trò của người nghệ sĩ và văn học.
Ralph
Waldo Ellison
(1914 - 1994)
Ralph Ellison,
một người miền Trung Tây, sinh ở Oklahoma, học ở Học viện Tuskegee ở
miền Nam Hoa Kỳ. Ông có một trong những sự nghiệp kỳ lạ nhất trong văn
học Mỹ - chỉ với một cuốn sách duy nhất, ông đã có chỗ đứng trên văn
đàn. Cuốn tiểu thuyết Invisible Man (1952) là câu chuyện về
cuộc sống của một người Da đen chỉ là một sự tồn tại dưới mặt đất trong
một cái hang được chiếu sáng bởi ánh điện ăn cắp của một công ty dịch vụ
công cộng. Cuốn sách kể lại chuỗi sự kiện quái đản và những mộng đẹp
tan tành của anh ta. Khi anh nhận được một học bổng ở một trường đại học
dành cho người Da đen, anh đã bị những người Da trắng sỉ nhục; khi anh
vào đại học, anh chứng kiến thầy hiệu trưởng người Da đen khinh bỉ bác
bỏ những vấn đề bức xúc của người Mỹ Da đen. Cuộc sống cũng thối rữa bên
ngoài trường đại học. Ví dụ, ngay cả tôn giáo cũng không phải là một sự
an ủi: Một giáo sĩ giảng đạo thực ra lại là một tên tội phạm. Cuốn tiểu
thuyết lên án xã hội đã hoàn toàn không trao cho các công dân - đen
cũng như trắng - những lý tưởng cao đẹp để vươn tới và những thể chế khả
dĩ có thể biến chúng thành hiện thực. Cuốn tiểu thuyết chứa đựng nội
dung sâu sắc về chủng tộc bởi lẽ “con người vô hình” ấy trở nên trong
suốt không phải do bản thân anh ta mà do những người khác, mù lòa vì
định kiến, đã không thể nhìn thấy anh ta, không biết đến sự tồn tại của
con người đó.
Flannery O’Connor
(1925
- 1964)
Flannery O’Connor, người vùng Georgia, sống một
cuộc đời ngắn ngủi vì bệnh Luput, một bệnh về máu dễ gây tử vong. Tuy
vậy, bà từ chối những biểu hiện tình cảm ủy mị, điều đó được thể hiện rõ
trong những câu chuyện cực kỳ khôi hài nhưng ảm đạm và không thỏa hiệp
của bà. Không giống như Porter, Welty, và Hurston, O’Connor thường miêu
tả nhân vật ở cự ly gần, không ngại ngần vạch ra các thiếu sót và ngu
ngốc của họ. Những nhân vật miền Nam thất học trong những cuốn tiểu
thuyết của bà thường gây ra tội ác và bạo lực bởi sự mê tín hoặc các hủ
tục, như ta có thể thấy trong tiểu thuyết Wise Blood (Dòng máu
khôn ngoan - 1952) của bà, kể về một kẻ cuồng tín tôn giáo, tự xây dựng
giáo hội của riêng mình.
Đôi lúc bạo lực xuất phát từ thành kiến,
như trong truyện “The Displaced Person” (Người bị thay thế) kể về một
người mới nhập cư bị giết chết bởi những người dân quê dốt nát, ngu
muội; những kẻ bị đe dọa bởi cung cách sống kỳ lạ và lao động siêng năng
của anh ta. Thường thì những sự cố tàn bạo xảy ra một cách đơn giản với
những nhân vật của bà, như trong “Good Country People” (Dân quê lương
thiện), câu chuyện về một cô gái bị một người đàn ông dụ dỗ, rồi ăn cắp
cái chân giả của cô.
Óc khôi hài mang đặc trưng Da đen của
O’Connor rất gần gũi với Nathanael West và Joseph Heller. Những tác phẩm
của bà bao gồm những tuyển tập truyện ngắn A Good Man is Hard to
Find (Người tử tế thật khó tìm - 1955) và Everything That Rises
Must Converge (Mọi thứ rốt cuộc đều giống nhau - 1965); cuốn tiểu
thuyết The Violent Bear It Away (Bọn hung bạo mang nó đi -
1960); và một tuyển tập thư từ The Habit of Being (Thói quen
hiện hữu - 1979). Cuốn Complete Stories (Toàn tập truyện ngắn)
của bà ra đời vào năm 1971.
Saul Bellow
(1915- )
Sinh ra ở Canada và lớn lên ở
Chicago, Saul Bellow có gốc Nga-Do Thái. Ông theo học nhân chủng học và
xã hội học ở trường đại học, điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến tác phẩm
của ông cho đến tận ngày nay. Ông đã biểu lộ lòng biết ơn sâu xa với
Theodore Dreiser, vì các tác phẩm của Theodore Dreiser, đã hướng ông đi
vào những kinh nghiệm đủ loại và sự dấn thân đầy xúc cảm của ông với nó.
Được đánh giá rất cao, ông nhận giải Nobel văn học vào năm 1976. Những
cuốn tiểu thuyết hiện sinh đầu tiên có phần u ám của Saul Bellow bao gồm
Dangling Man (Người chờ đợi - 1944), một sự khảo sát mang
phong cách Kafka về một người chờ đợi được tuyển mộ đi lính và The
Victim (Nạn nhân - 1974), về quan hệ giữa người Do Thái và người
không phải Do Thái. Vào thập niên 50, quan điểm của ông trở nên hài hước
hơn: Ông sử dụng một loạt những người kể chuyện ngôi-thứ-nhất nhiệt
tình và mạo hiểm trong The Adventures of Augie March (Cuộc
phiêu lưu của Augie March - 1953) - một nghiên cứu về một nhà đầu tư ở
thành phố giống như Huck Finn sau trở thành một tay bán chợ đen ở châu
Âu - và trong Henderson the Rain King (Henderson vua Mưa - 1959), một
cuốn tiểu thuyết xuất sắc nửa nghiêm túc nửa khôi hài về một nhà triệu
phú đứng tuổi với những tham vọng không thỏa mãn cuối cùng đã đưa ông
đến châu Phi. Những cuốn về sau của Bellow bao gồm Herzog (1964),
về cuộc đời rắc rối của một giáo sư người Anh bị thần kinh với ám ảnh
tìm cho ra ý nghĩa về cái tôi lãng mạn; Mr Sammler’s Planet (Hành
tinh của ông Sammler - 1970); Humboldt’s Gift (Phần thưởng của
Humboldt - 1975); và cuốn tự truyện The Dean’s December (Tháng
12 trong đời ông trưởng khoa - 1982).
Cuốn Seize the Day (Sống
qua ngày - 1956) của Bellow là một cuốn tiểu thuyết sáng chói thường
được giảng dạy trong chương trình trung học hoặc đại học bởi vì sự tuyệt
vời và sự cô đọng của nó. Nhân vật trung tâm trong truyện là một thương
gia thất cơ lỡ vận, Tommy Wilhelm, đã cố gắng che giấu cảm xúc đau đớn
vì thất bại của mình bằng cách mang một bộ mặt mãn nguyện. Cuốn truyện
bắt đầu một cách giễu cợt: “Khi phải che giấu những rắc rối của mình,
Tommy Wilhelm tỏ ra chẳng kém cạnh ai cả. Vì thế ít nhất anh ta
nghĩ...”. Sự tiêu hao năng lượng này, thật oái ăm chỉ dẫn đến sự xuống
dốc của ông. Wilhelm quá day dứt với cảm giác bất cập đến nỗi ông trở
nên hoàn toàn bất lực - thất bại với phụ nữ, với công việc, với máy móc
và với thị trường hàng hóa, rồi cuối cùng ông ta mất hết tiền bạc. Ông
ta là một ví dụ về một gã khờ khạo, vụng về luôn thất bại trong truyện
dân gian Do Thái - một người luôn luôn gặp những điều xui xẻo. Seize
the Day tổng kết lại nỗi sợ bị thất bại đã ám ảnh bao người Mỹ.
Bernard Malamud
(1914 - 1986)
Bernard
Malamud sinh ở New York, cha mẹ là dân nhập cư Nga gốc Do Thái. Trong
cuốn tiểu thuyết thứ hai The Assistant (Người phụ tá - 1957),
Malamud đã tìm ra được những chủ đề đặc trưng của mình - cuộc đấu tranh
sống còn chống lại mọi trở ngại và những nền tảng đạo đức của những
người nhập cư Do Thái đương đại.
Tác phẩm xuất bản đầu tiên của
Malamud là The Narural (Tự nhiên - 1952), một sự kết hợp của
chủ nghĩa hiện thực và hoang tưởng, đặt trong thế giới kỳ bí của môn
bóng chày chuyên nghiệp. Những tiểu thuyết khác bao gồm A New Life
(Cuộc đời mới - 1961), The Fixer (Người hối lộ - 1966), Pictures
of Fidelman (Những bức ảnh của Fidelman - 1969), và The
Tenants (Những người thuê nhà - 1971). Ông cũng là một bậc đại gia
sung mãn trong làng truyện ngắn. Qua những truyện ngắn của ông trong các
tuyển tập như là The Magic Barrel (Chiếc thùng mầu nhiệm -
1958), Idiots First (Ưu tiên kẻ ngu ngốc - 1963), và Rembrandt’s
Hat (Chiếc mũ của Rembrandt - 1973), ông truyền đạt - hơn tất cả
những nhà văn khác sinh ra ở Mỹ một ý thức về hiện tại và quá khứ mang
màu sắc Do Thái, cái thực và siêu thực, sự kiện và huyền thoại.
Một
tác phẩm hoành tráng của Malamud - mà nhờ nó ông được giải thưởng
Pulitzer và giải Sách quốc gia - cuốn The Fixer lấy bối cảnh ở
Nga khoảng đầu thế kỷ 20, nó là cái nhìn chất chứa những bí ẩn về một
trường hợp vu cáo bẩn thỉu - một chuyện có thật - vụ án tai tiếng của
Mendel Beiliss năm 1913, một vết nhơ đen tối trong vụ bài Do Thái trong
lịch sử hiện đại. Như trong nhiều tác phẩm của mình, Malamud nhấn mạnh
sự chịu đựng của nhân vật của ông, Yako Bok và cuộc đấu tranh chống lại
mọi trở ngại để tồn tại.
Isaac Bashevis
Singer
(1904 - 1991)
Tiểu thuyết gia đoạt
giải Nobel và bậc thầy truyện ngắn Isaac Bashevis Singer là một người Ba
Lan di cư đến Mỹ năm 1935. Ông là con của một trưởng giáo sĩ Do Thái ở
Warszawa. Suốt đời viết bằng tiếng Yiddish (ngôn ngữ pha trộn giữa tiếng
Đức và Hebrew từng là ngôn ngữ thông dụng của người Do Thái trong nhiều
thế kỷ qua), ông viết về những điều huyền bí và hiện thực của hai nhóm
người Do Thái đặc biệt - kiều dân của các Shtetls (những làng nhỏ) ở Cựu
thế giới và những di dân bị sóng gió đại dương vùi dập trước và sau
Chiến tranh Thế giới Thứ hai.
Các tác phẩm của Singer là tư liệu
về hai thời kỳ trước và sau Chiến dịch Holocaust - việc tàn sát nhiều
cộng đồng Do Thái châu Âu do Đức quốc xã và những kẻ hợp tác với chúng
tiến hành. Một mặt, ông mô tả - trong những tiểu thuyết như The
Manor (Thái ấp - 1967) và The Estate (Điền trang - 1969),
lấy bối cảnh nước Nga thế kỷ 19, và The Family Moskat (Gia đình
Moskat - 1950), xoay quanh một gia đình Do Thái - Balan giữa hai cuộc
Thế chiến - cuộc sống của cộng đồng Do Thái ở châu Âu hiện không còn
nữa. Mặt khác, một số tác phẩm của ông lấy bối cảnh sau chiến tranh, như
Enemies, A Love Story (Những kẻ thù, một chuyện tình -
1972), mà nhân vật chính là những người sống sót sau cuộc khủng bố
người Do Thái, tìm cách xây dựng cuộc đời mới cho chính mình.
Vladimir Nabokov
(1889 - 1977)
Cũng
giống như Singer, Vladimir Nabokov là người di dân từ Đông Âu. Sinh ra
trong một gia đình giàu có ở nước Nga Sa Hoàng, ông đến Mỹ năm 1940 và
năm năm sau trở thành công dân Mỹ. Từ năm 1948 đến 1959 ông giảng dạy
văn học ở Đại học Cornell ở phía bắc của tiểu bang New York; năm 1960,
ông chuyển sang sống hẳn ở Thụy Sĩ. Ông nổi tiếng nhờ những tiểu thuyết
của mình, trong đó có cuốn tự truyện Pnin (1957) - một câu
chuyện về một giáo sư nhập cư người Nga không thành công và cuốn Lolita
(xuất bản tại Mỹ năm 1958), về một người Âu trung niên, có học vấn si
mê cuồng dại một cô bé người Mỹ 12 tuổi thơ ngây. Một tiểu thuyết mô
phỏng của Nabokov, Pale Fire (Lửa tàn - 1962) lại là một sự mạo
hiểm thành công khác, nói về một bài thơ dài do một nhà thơ tưởng tượng
đã chết sáng tác và những lời bình về bài thơ do một nhà phê bình viết
và những tác phẩm của nhà phê bình này thấm đẫm bài thơ bắt đầu sống
cuộc đời đầy những bất ngờ của riêng chúng.
Nabokov là nhà văn có
nhiều ảnh hưởng bởi bút pháp tinh tế, sự châm biếm sắc sảo và những cách
tân độc đáo về mặt hình thức. Tất cả điều đó đã khơi nguồn cảm hứng cho
những tiểu thuyết gia như John Barth. Nabokov ý thức được vai trò cầu
nối của mình giữa hai thế giới văn học Nga và Mỹ; ông đã viết một cuốn
sách về Gogol và dịch tiểu thuyết thơ Engene Onegin của
Pushkin. Những chủ đề táo bạo, có phần ảnh hưởng của chủ nghĩa biểu
hiện, như tình yêu kỳ quặc trong Lolita, góp phần giới thiệu những trào
lưu biểu hiện châu Âu thế kỷ 20 vào truyền thống văn học mang nặng tính
hiện thực của Mỹ. Giọng văn của ông, phần châm biếm phần hoài niệm, cũng
gợi tới một kiểu mới để tái hiện cảm xúc nửa trang nghiêm nửa khôi hài,
sau này rất hữu dụng cho các nhà văn như Pynchon, người phối hợp những
mặt tương phản của trí thông minh và sợ hãi.
John
Cheever
(1912 - 1982)
John Cheever thường
được gọi là một “tiểu thuyết gia đa phong cách”. Ông nổi tiếng vì những
truyện ngắn nhiều liên tưởng, tao nhã và tuyệt hay của mình, những
truyện ngắn mổ xẻ giới kinh doanh của New York qua những ảnh hưởng của
nó đối với các nhà kinh doanh, vợ con, bạn bè họ. Một khát khao gượng
gạo, bi thiết có vẻ như vô vọng nhưng không bao giờ bị dập tắt về những
đam mê hay sự xác tín siêu hình ẩn giấu trong bóng tối của những câu
chuyện tinh tế của Cheever, theo phong cách Chekhov, tập hợp trong The
Way Some People Live (Cách người ta sống - 1943), The
Housebreaker of Shady Hill (Kẻ đột nhập ở Shady Hill - 1958); Some
People, Places and Things That Will Not Appear in My Next Novel
(Một vài người, vài địa điểm và vài chuyện sẽ không bao giờ xuất hiện
trong cuốn tiểu thuyết sắp tới của tôi - 1961), The Brigadier and
the Golf Widow (Thiếu tướng và người góa phụ chơi golf - 1964), và The
World of Apples (Thế giới những trái táo - 1973). Tựa đề những
cuốn sách của ông bộc lộ sự lãnh đạm, đùa nghịch, một sự bất kính và một
sự gợi ý về chủ đề, nội dung. Cheever cũng xuất bản nhiều cuốn tiểu
thuyết - The Wapshot Scandal (Vụ tai tiếng của gia đình Wapshot
- 1964), Bullet Park (Công viên đạn - 1969), và Falconer
(Người luyện chim ưng - 1977) - cuốn sau cùng này mang nhiều yếu tố tự
thuật.
John Updike
(1932 -
)
Cũng như Cheever, John Updike được xem là nhà văn đa
phong cách với những bức tranh về cuộc sống đô thị, chủ đề xoay quanh
cuộc sống gia đình, phản ánh tâm trạng chán chường, tiếc nuối. Tiểu
thuyết của ông thường xảy ra ở vùng Bờ Đông ở Massachusetts và
Pennsylvania. Updike rất nổi tiếng với bốn tác phẩm loại Rabbit miêu tả
cuộc sống của một người đàn ông tên là Harry “Rabbit” Angstrom với những
thăng trầm trong cuộc đời ông qua bốn thập kỷ của lịch sử chính trị và
xã hội Mỹ. Rabbit, Run (Rabbit, chạy - 1960) là tấm gương phản
chiếu nước Mỹ thập niên 50, trong đó Angstrom là một anh chồng trẻ bất
mãn; sống hoàn toàn không có mục đích. Rubbit Redux (Rubbit trở
lại phong độ - 1971) tập trung làm nổi bật hiện tượng phản văn hóa của
thập niên 60. Trong tập này, Angstrom vẫn không có một mục tiêu, hoặc lý
tưởng rõ ràng trong cuộc sống hoặc là có một cách thức hợp lý để trốn
khỏi sự nhàm chán, vô vị của nó. Trong Rabbit Is Rich (Rabbit
giàu có - 1981), Harry trở nên giàu có nhờ của cải thừa hưởng trong bối
cảnh thập niên 70 thịnh vượng và vị kỷ, khi mà cuộc chiến ở Việt Nam đã ở
vào giai đoạn cuối. Tập cuối cùng Rabbit at Rest (Rabbit an
nghỉ - 1990), lướt qua sự hòa giải của Angstrom với cuộc đời, và cái
chết khinh suất của ông trong bối cảnh lịch sử những năm 80. Ngoài bộ
tiểu thuyết trên, Updike còn viết các cuốn tiểu thuyết khác như
The Centaur (Con nhân mã - 1963), Couples (Những cặp
vợ chồng - 1968) và Bech: A Book (Bech: Một cuốn sách - 1970).
Updike có một thi pháp nổi bật, sáng chói của bất cứ nhà văn hiện đại
nào và những truyện ngắn của ông là mẫu mực về sự lỗi lạc và sắc sảo xét
cả về tầm vóc phản ánh và tính sáng tạo của chúng. Tuyển tập truyện
ngắn của ông gồm có The Same Door (Cùng một cánh cửa - 1959), The
Music School (Trường nhạc - 1966), Museums and Women (Bảo
tàng và phụ nữ - 1972), Too Far To Go (Đường xa - 1979) và Problems
(Những vấn đề - 1979). Ông cũng viết nhiều tập thơ và tiểu luận.
J.D. Salinger
(1919- )
Là
người đưa tin của thập niên 60, J. D. Salinger đã khắc họa những cố
gắng đào thoát ra khỏi xã hội. Sinh ở New York, ông đã đạt đến đỉnh cao
trong sự nghiệp văn học nhờ vào việc xuất bản cuốn tiểu thuyết The
Catcher in the Rye (Bắt trẻ đồng xanh - 1951) viết về một cậu bé
nhạy cảm 16 tuổi, Holden Caulfield, đã trốn khỏi một trường nội trú danh
giá để gia nhập vào thế giới bên ngoài của người lớn để sau đó phải vỡ
mộng bởi cái chủ nghĩa vật chất và sự giả dối của nó.
Khi được hỏi
lớn lên cậu bé thích làm gì, Caulfield đã trả lời “thích làm người bắt
trẻ ngoài đồng”, nhại theo một bài thơ của Robert Burns. Trong mơ ước
của mình, ông muốn bản thân là hình ảnh hiện đại của một hiệp sĩ Da
trắng, người bảo vệ duy nhất cho sự trong sáng, ngây thơ. Ông tưởng
tượng ra một cánh đồng lúa mạch đen bao la, lúa cao đến nỗi không thể
nhìn thấy một bầy trẻ con đang chạy nhảy vui đùa trong đám lúa. Ông là
người lớn duy nhất ở đấy. “Tôi đang đứng trên bờ đá cao ghê hồn. Tôi
phải làm gì? Tôi phải bắt bất cứ đứa trẻ nào toan vượt qua bờ đá đó”.
Rơi xuống bên kia vách đá có nghĩa là đánh mất tuổi thơ và sự thơ ngây
(đặc biệt là về tính dục) - một chủ đề trở đi trở lại trong thời kỳ này.
Những tác phẩm khác của nhà văn ẩn cư và viết rất kén này gồm: Nine
Stories (Chín câu chuyện - 1953), Franny and Zooey (1961)
và Raise High the Roof - Beam, Carpenters (Cao cao trên xà
nhà, Bác thợ mộc - 1963) một tuyển tập truyện ngắn từ báo The New
Yorker. Sau khi một truyện ra mắt độc giả vào năm 1965, Salinger - sống ở
New Hampshire - vắng bóng trên bầu trời văn học Mỹ.
Jack Kerouac
(1922 - 1969)
Là
con trai của một gia đình gốc Pháp - Canada nghèo khổ, Jack Kerouac
trăn trở với vấn đề ý nghĩa và giá trị cuộc sống của lớp người trung
lưu. Ông đã có những cuộc giao lưu với nhóm văn nghệ Beat bí mật khi còn
là sinh viên của Đại học Columbia ở New York. Tiểu thuyết của ông chịu
nhiều ảnh hưởng của những tác phẩm mang ít nhiều yếu tố tự thuật của
tiểu thuyết gia miền Nam - Thomas Wolfe.
Tiểu thuyết hay nhất của
Kerouac là cuốn On the Road (Trên con đường tự do - 1957) miêu
tả “các thành viên của nhóm Beat” lang thang khắp nước Mỹ tìm kiếm một
giấc mơ lý tưởng về cuộc sống cộng đồng và cái đẹp. Cuốn The Dharma
Bums (Phật pháp của những kẻ cầu bơ cầu bất - 1958) tập trung phản
ánh về những trí thức phản văn hóa sống lang thang bất định và sự say mê
nhất thời của họ đối với Thiền tông - Phật giáo. Kerouac cũng sáng tác
một tập thơ Mexico City Blues (Điệu blues ở Mexico City - 1959)
và những tập sách về cuộc đời ông với thành viên của nhóm Beat như nhà
văn viết tiểu thuyết thể nghiệm William Burroughs và thi sĩ Allen
Ginsberg.
THẬP NIÊN 60 RỐI REN NHƯNG ĐẦY SÁNG TẠO
Áp
lực và sự tha hóa tiềm tàng trong thập niên 50 tìm được tiếng nói thích
hợp vào thập niên 60 ở Mỹ trong phong trào đấu tranh đòi quyền bình
đẳng, phong trào đấu tranh cho quyền phụ nữ, chống chiến tranh, hoạt
động của cộng đồng ít người và sự xuất hiện của phong trào phản văn hóa
mà ảnh hưởng của nó vẫn còn dai dẳng trong xã hội Mỹ. Những tác phẩm về
văn hóa xã hội và chính trị nổi bật trong thời kỳ này gồm có những bài
diễn thuyết về quyền bình đẳng của nhà lãnh đạo Da đen, tiến sĩ Martin
Luther King, những trước tác thời kỳ đầu của nhà lãnh đạo phong trào nữ
quyền Betty Friedan (The Feminine Mystique - Sự huyền diệu của phụ nữ,
1963) và The Armies of the Night (Đội quân của bóng đêm - 1968)
của Normal Mailer về cuộc biểu dương lực lượng chống chiến tranh năm
1967.
Những năm 60 được đánh dấu bởi sự xóa nhòa ranh giới giữa hư
cấu và sự thật, giữa tiểu thuyết và phóng sự điều tra và điều này vẫn
còn tiếp diễn cho đến tận ngày nay. Tiểu thuyết gia Truman Capote, một
con người ăn nói huỵch toẹt từng làm độc giả choáng váng vào cuối thập
niên 40 đầu thập niên 50 trong những tác phẩm như Breakfast at
Tiffany (Ăn sáng ở Tiffany - 1958) - giờ lại làm độc giả sững sờ
với In Cold Blood (Máu lạnh - 1966), một phân tích vô cùng hấp
dẫn về một vụ tàn sát tập thể hết sức tàn bạo xảy ra ở một vùng trung
tâm nước Mỹ, lôi cuốn bạn đọc như một cuốn tiểu thuyết trinh thám. Cùng
lúc đó, “phong cách báo chí mới” nổi lên, 268 269 những tác phẩm không
có yếu tố hư cấu kết hợp với phong cách viết báo và kỹ thuật viết tiểu
thuyết hoặc là sử dụng thường xuyên các dữ kiện thật, nhào nặn chúng lại
để tạo tính xác thực và ly kỳ cho câu chuyện được kể. Cuốn The
Electric Kool - Aid Acid Test. (Cuộc thử nghiệm của dân hippy([5])) của Tom Wolfe (1968) ca
ngợi những chuyện ngộ nghĩnh, dễ thương trong những đam mê phiêu bồng
phản văn hóa của tiểu thuyết gia Ken Kesey. Còn cuốn Radical Chic
and Mau - Mauing the Flak Catchers cười nhạo nhiều khía cạnh của
phong trào cánh tả. Sau này Wolfe viết một cuốn lịch sử hết sức sâu sắc
và phong phú về giai đoạn đầu của chương trình không gian Hoa Kỳ, cuốn
The Right Stuff (Chuyện tào lao - 1979) và tiểu thuyết The Bonfire
of the Vanities (Ngọn lửa của sự phù hoa - 1987) là bức tranh toàn
cảnh về xã hội Mỹ trong thập niên 80.
Vào những năm 60, văn học
cũng nhập cuộc với những rối ren trong thời kỳ này. Một cái nhìn mỉa
mai, bỡn cợt cũng xuất hiện, phản ánh trong phong cách ngụ ngôn của một
số nhà văn, trong số đó có truyện One Flew Over the Cuckoo’s Nest (Bay
qua tổ chim cúc cu - 1962) - một truyện hài hước ảm đạm của Ken Kesey
về cuộc sống trong một nhà thương điên trong đó các nhân viên y tế lại
còn quậy phá điên rồ hơn cả bệnh nhân. Trout Fishing in America (Câu
cá hồi ở Mỹ - 1967) của Richard Brautigan là một cuốn tiểu thuyết tưởng
tượng đến mức quái dị. Hài hước và tưởng tượng kết hợp để tạo ra một
phong cách mới nửa siêu hình nửa khôi hài trong các cuốn tiểu thuyết
hoang tưởng, xuất sắc của Thomas Pynchon nhan đề V (1963) và The
Crying of Lot 49 (Tiếng khóc than của lô 49), cuốn Giles Goat -
Boy (Giles - Cậu bé chăn dê - 1966) của John Barth và những truyện
ngắn kỳ dị của Donald Bartheme trong tuyển tập truyện ngắn đầu tiên Come
Back, Dr Calogari (Trở lại đi, Tiến sĩ Calogari) xuất bản vào năm
1964.
Trong lãnh vực sân khấu, Edward Albee sáng tác một loạt vở
kịch tâm lý phi truyền thống: Who’s Afraid of Virginia Woolf[6]? (Ai sợ Virginia Woolf? - 1962), A
Delicate Balance (Sự thăng bằng mong manh - 1966) và Seascape (Phong
cảnh biển - 1975). Những vở kịch phản ánh cuộc dò tìm nội tâm và cách
tiếp cận đầy nghịch lý của tác giả.
Đồng thời, thập niên 60 cũng
chứng kiến sự ra đời muộn màng của một tài năng văn học trong độ tuổi 40
- Walker Percy - một bác sĩ và một mẫu mực của phong cách tao nhã miền
Nam. Trong loạt tác phẩm của mình, Percy đã dùng địa phương quê nhà của
ông như một tấm thảm trang trí để ông trải lên đó những màn kịch tâm lý
ly kỳ hấp dẫn. The Moviegoer (Dân nghiền xinê - 1961) và The
Last Gentleman (Chính nhân quân tử cuối cùng - 1966) là hai vở
kịch nổi bật trong những tác phẩm được đánh giá cao của ông.
Thomas Pynchon
(1937 - )
Thomas
Pynchon là tác giả u huyền, không thích khoa trương tên tuổi. Ông sinh ở
New York, tốt nghiệp Đại học Cornell năm 1958, nơi có lẽ ông đã tiếp
nhận ảnh hưởng của Vladimir Nabokov. Có một điều chắc chắn là, những
tưởng tượng có tính cách tân của ông, sử dụng những chủ đề về việc diễn
giải những mấu chốt, những trò chơi, và các mật mã có thể xuất phát từ
Nabokov. Giọng văn linh hoạt của Pynchon có thể hòa nhập chứng hoang
tưởng vào trong thi ca.
Tất cả những tiểu thuyết của Pynchon đều
có kết cấu giống nhau. Luôn có ít nhất một nhân vật chính không biết gì
về dòng diễn biến phức tạp của câu chuyện, rồi sau đó trọng trách của
hắn là sắp xếp lại trật tự của cái mớ bòng bong các sự kiện và giải mã
thế giới. Công việc này, chính là nhiệm vụ của người nghệ sĩ truyền
thống, được chuyển giao cho người đọc, họ phải dõi theo các sự kiện, tìm
ra những điểm mấu chốt và lý giải về mọi sự. Quan điểm hoang tưởng này
phổ biến khắp các lục địa và chính thời đại này, bởi vì Pynchon đã sử
dụng ẩn dụ “entropy”[7] về sự suy tàn dần dần của vũ trụ. Ông là
bậc thầy trong việc tiếp thu và chuyển hóa văn hóa dân gian - đặc biệt
là trong tiểu thuyết khoa học viễn tưởng và tiểu thuyết trinh thám.
Tiểu
thuyết mang tựa đề V được cấu trúc lỏng lẻo xung quanh Benny Profane -
một kẻ thất bại lại lao vào những cuộc phiêu lưu vô mục đích với những
công việc làm ăn kỳ cục luôn thay đổi và đối thủ của anh ta, Herbert
Stencil, một trí thức có nhiệm vụ truy tìm một nữ điệp viên bí mật V (có
thể là Venus, Virgin hay Void). The Crying of Lot 49 (Tiếng
khóc than của lô 49), là một truyện vừa, đề cập đến một hệ thống bí mật
liên quan đến dịch vụ bưu điện Mỹ. Gravity’s Rainbow (Cầu vồng
của trọng lực - 1973) viết về những sự kiện xảy ra ở London trong thời
kỳ chiến tranh thế giới thứ II, vào lúc mà đạn bom tưới xuống thành phố
này. Nội dung xuyên suốt cuốn truyện là cuộc tìm kiếm nửa khôi hài nửa
biểu trưng những tên phát xít Đức và các nhân vật đội lốt khác. Sự mãnh
liệt trong biểu cảm, tính khôi hài và sự nhạy bén với những cái mới đã
gắn chặt tên tuổi của Pynchon với thập niên 60.
John
Barth
(1930- )
John Barth quê ở Maryland
là nhà văn quan tâm đến cách kể lại một câu chuyện như thế nào hơn là
nội dung của nó. Nhưng trong khi Pynchon tung hỏa mù đưa độc giả vào con
đường với những dấu vết giả tạo và những đầu mối khả dĩ vượt ra ngoài
một cuốn tiểu thuyết trinh thám, thì Barth lại mời bạn đọc bước vào một
ngôi nhà vui tươi của lễ hội, nơi chứa đầy những tấm gương dị dạng,
phóng đại một số nét này trong khi lại thu nhỏ một số đặc điểm khác. Chủ
nghĩa hiện thực là kẻ thù của Barth, tác giả của tuyển tập truyện ngắn Lost
in the Funhouse (Lạc lối trong ngôi nhà của niềm vui -
1968) gồm 14 truyện về quá trình viết văn và đọc sách. Mục đích của
Barth là nhắc nhở và cảnh báo cho độc giả về bản chất nhân tạo của việc
đọc và viết văn, và hơn nữa ngăn cản người đọc đừng bị lôi cuốn vào câu
chuyện như thể câu chuyện ấy là có thật trên đời. Để làm nổ tung cái ảo
tưởng về chủ nghĩa hiện thực, Barth đã dùng toàn bộ công cụ phản tỉnh để
nhắc nhở bạn đọc rằng chính là họ đang đọc sách.
Những tác phẩm
đầu tay của Barth cũng như của Saul Bellow chứa đựng rất nhiều vấn đề và
mang tính hiện sinh rõ nét, có những chủ đề của thập niên 50 về sự tẩy
chay xã hội và sự lang thang bất định của số phận con người. Cuốn truyện
The Floating Opera (Nhạc kịch lưu động - 1956) viết về một con
người toan tính tự tử. The End of the Road (Đoạn cuối của con
đường - 1958) miêu tả một cuộc tình phức tạp. Những tác phẩm vào thập
niên 60 của ông trở nên hài hước hơn và càng ít hiện thực hơn nữa. The
Sot - Weed Factor (1960) nhại theo thể loại tiểu thuyết giang hồ
thế kỷ 18, trong khi với Giles Goat Boy (Giles - Cậu bé chăn dê
- 1966), thế giới được thu nhỏ một cách hài hước thành một trường đại
học. Cuốn Chimera (Quái vật tưởng tượng - 1972) kể lại những
câu chuyện cổ của thần thoại Hi Lạp và trong Letters (Những lá
thư - 1979) thì chính Barth trở thành một nhân vật như là Normal Mailer
đã làm trong The Armies of the Night. Trong Sabbatical: A
Romance (Kỳ nghỉ của giáo sư: Một truyện tình - 1982) Barth sử dụng
một motif hư cấu quen thuộc về điệp viên, đấy là câu chuyện về một nữ
giáo sư dạy đại học và chồng nàng, một điệp viên đã giải nghệ sau trở
thành một tiểu thuyết gia.
Normal
Mailer
(1923- )
Normal Mailer được dư luận
rộng rãi công nhận là đại biểu cho những thập kỷ vừa qua, một tác gia có
khả năng thay đổi phong cách, nội dung và mối quan tâm khá nhiều lần.
Có xu hướng viết về những kinh nghiệm sống với cá tính mãnh liệt và tính
cách của một con người tham gia hoạt động xã hội đầy kịch tính, Mailer
đi theo con đường truyền thống của Ernest Hemingway. Tư tưởng của ông
hết sức mạnh bạo và đổi mới. Ông là tác giả trái ngược hẳn với Barth,
bởi vì đối với Barth, nội dung phản ánh không quan trọng bằng cái cách
mà nó được diễn đạt. Cũng không giống với Pynchon khó xác định, Mailer
luôn tranh thủ và đòi hỏi một sự chú tâm. Là nhà văn viết tiểu thuyết,
một nhà viết tiểu luận, đôi khi cũng là một chính khách, một nhà hoạt
động văn hóa và thỉnh thoảng còn là diễn viên, Mailer là nhân vật trung
tâm của “sân khấu” xã hội. Từ những tác phẩm mang phong cách “báo chí
mới” như Miami and the Siege of Chicago (Miami và việc vây hãm
thành Chicago - 1968), một phân tích về những hội nghị đề cử ứng viên
tổng thống Mỹ năm 1968 và sự nghiên cứu hết sức hấp dẫn của ông về vụ
hành quyết những kẻ bị kết tội sát nhân trong cuốn The Excutioner’s
Song (Bài ca của kẻ tử tội - 1979) ông chuyển sang viết những cuốn
tiểu thuyết nặng ký và đầy tham vọng như Ancient Evenings
(Những buổi chiều xưa - 1983) lấy bối cảnh ở Ai Cập cổ đại và cuốn Harlot’s
Ghost (Hồn ma Harlot - 1992) về những vấn đề xoay quanh cơ quan
tình báo trung ương Hoa Kỳ.
THẬP NIÊN 70 VÀ 80 NHỮNG HƯỚNG
ĐI MỚI
Vào khoảng giữa thập niên 70, kỷ nguyên của sự
củng cố bắt đầu. Chiến tranh ở Việt Nam đã kết thúc, tiếp sau đó là việc
nước Mỹ công nhận Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và việc kỷ niệm 200 năm
lập quốc. Chẳng bao lâu sau là những năm 80, “thập kỷ vì tôi” tiếp bước,
trong đó mỗi cá nhân có khuynh hướng tập trung vào những mối quan tâm
riêng tư của mình hơn là những vấn đề xã hội lớn lao hơn.
Trong
văn học, các trào lưu cũ vẫn còn tồn tại, nhưng cái sức mạnh đằng sau sự
thể nghiệm đơn thuần đã giảm dần. Các tiểu thuyết gia trẻ như John
Gardner, John Irving (với tiểu thuyết The World According to Garp
- Thế giới dưới con mắt của Garp, 1978), Paul Theroux (Trong The
Mosquito Coast - Bờ biển Mosquito, 1982), William Kennedy (Ironweed
- Hạt sắt, 1983) và Alice Walker (The Color Purple - Màu
tím, 1982) lên ngôi với những tiểu thuyết nổi bật rất có cá tính khắc
họa những tấn kịch cảm động về con người. Việc quan tâm tới hoàn cảnh,
nhân vật và những chủ đề kết hợp với chủ nghĩa hiện thực đã trở lại. Chủ
nghĩa hiện thực, bị bỏ rơi bởi các nhà văn thể nghiệm vào thập niên 60,
đã quay trở lại thường kết hợp với những yếu tố sáng tạo hết sức táo
bạo - một cấu trúc mới mẻ, đột phá như một “tiểu thuyết trong tiểu
thuyết” có thể thấy trong truyện của John Garner October Light (Ánh
sáng tháng Mười - 1976) hoặc là tiếng Anh của người Mỹ - Da đen trong The
Color Purple của Alice Walker. Văn học của các cộng đồng ít người
bắt đầu đua nở. Kịch nói đã chuyển từ chủ nghĩa hiện thực sang những kỹ
xảo điện ảnh và tốc độ hơn. Tuy vậy, cùng lúc đó, “Thập kỷ vì tôi” cũng
được phản ánh trong các tài năng trẻ khoa trương như Joy Mclnerny với Bright
Lights, Big City, (Ánh sáng rực rỡ nơi đô thị, 1984),
Bret Easton Ellis với Less Than Zero (Nhỏ hơn số không, 1985)
và Tama Janowits với Slaves of New York (Nô lệ của New York,
1986).
John Gardner
(1933-1982)
John Gardner xuất thân từ một nhà nông ở bang New York,
là người phát ngôn quan trọng nhất cho những giá trị đạo đức trong văn
học cho đến khi cái chết đã chấm dứt cuộc sống khá ngắn ngủi của ông
bằng một tai nạn môtô. Ông là giáo sư văn học Anh chuyên về giai đoạn
Trung đại. Cuốn tiểu thuyết Grendel (1971) nổi tiếng nhất của
ông kể lại sử thi cổ đại Anh về Beowulf nhìn từ góc độ hiện sinh của con
quái vật. Cuốn tiểu thuyết ngắn gọn, sinh động và thường vang lên tiếng
cười trào lộng này là một cuộc tranh luận tinh tế chống lại chủ nghĩa
hiện sinh đã dồn các nhân vật của nó vào nỗi tuyệt vọng tự hủy diệt và
một thái độ khuyển nho, yếm thế.
Là một nhà văn sung sức và hết
sức nổi tiếng, Gardner sáng tác theo phương pháp hiện thực nhưng lại sử
dụng các kỹ thuật mới mẻ như hồi tưởng, truyện trong truyện, kể lại các
huyền thoại và những câu chuyện tương phản - để phát hiện chân lý về
tình cảnh của con người. Sức mạnh của ông chính là sự đặc trưng hóa (đặc
biệt là trong những bức chân dung đầy cảm thông về những con người bình
thường) và phong cách đa dạng.
Những tác phẩm lớn của ông gồm The
Resurrection (Phục sinh - 1966), The Sunlight Dialogues (Cuộc
đối thoại dưới ánh mặt trời - 1972), Nickel Mountain (Núi
Nickel - 1973), October Light (Ánh sáng tháng Mười - 1976) và Mickenson’s
Ghosts (Những bóng ma của Mickenson - 1982).
Các kiểu tiểu
thuyết của Gardner gợi tả cái sức mạnh trị liệu của tình bằng hữu, bổn
phận và trách nhiệm gia đình và xét theo ý nghĩa này, Gardner là một tác
giả bảo thủ và truyền thống hết sức sâu sắc. Ông đã cố gắng chứng minh
rằng một số hành động và các giá trị nhất định sẽ dẫn đến một cuộc sống
viên mãn. Cuốn tiểu thuyết của ông On Moral Fiction (Tưởng
tượng đạo lý - 1978) kêu gọi tiểu thuyết nên chuyển tải những giá trị
đạo đức hơn là lòe bịp độc giả với những cách tân kỹ thuật trống rỗng.
Cuốn sách đã gây nên một làn sóng phẫn nộ, chủ yếu bởi vì Gardner đã phê
phán thẳng thừng những cây cao bóng cả trong làng văn đương đại đã thất
bại trong việc phản ánh những mối quan tâm đạo đức.
Toni Morrison
(1931 - )
Nữ
văn sĩ người Mỹ gốc Phi Toni Morrison sinh ở bang Ohio trong một gia
đình gia phong mà mối quan tâm chính là những giá trị tinh thần. Bà theo
học Đại học Howard ở thủ đô Washington, là biên tập cao cấp của một nhà
xuất bản lớn ở Washington và là giáo sư nổi tiếng của nhiều trường đại
học.
Tiểu thuyết đan kết phong phú của Morrison làm cho bà nổi
tiếng thế giới. Trong những cuốn tiểu thuyết phóng khoáng và cuốn hút
của mình bà đã xử lý những tính cách phức tạp của người Da đen bằng một
cách thức phổ quát. Trong tác phẩm đầu tay The Bluest Eye (Mắt
biếc - 1970) của bà, một cô gái Da đen trẻ giàu nghị lực đã kể lại câu
chuyện về Pecola Breedlove, người rốt cuộc đã trốn thoát cuộc sống với
một ông bố cục súc, thô bạo. Pecola tin rằng đôi mắt đen của cô đã biến
thành màu xanh da trời một cách kỳ diệu và chúng làm cô trở nên dễ
thương hơn. Morrison có nói rằng bà đã sáng tạo nên cái ý thức về diện
mạo văn học riêng của riêng bà với tư cách là một nhà văn qua cuốn tiểu
thuyết này “Tôi là Pecola, là Claudia, là mọi người”.
Tác phẩm Sula
(1973) miêu tả tình bạn thắm thiết mặn nồng giữa hai người phụ nữ.
Morrison khắc họa phụ nữ Mỹ gốc Phi như là những nhân vật đầy cá tính,
đơn nhất hơn là những con người điển hình. Cuốn Song of Solomon
(Bài ca của Solomon) của Morrison viết vào năm 1977 đã nhận được nhiều
giải thưởng. Nó tái hiện cuộc đời của một người Da đen tên là Milkman
Dead và những mối quan hệ phức tạp của anh ta với gia đình và cộng đồng
Da đen. Trong cuốn Tar Baby (Bé con - 1981) Morrison khai thác
các vấn đề của mối quan hệ giữa người Da trắng và người Da đen. Beloved
(1987) là một câu chuyện về nỗi thống khổ của một người đàn bà thà giết
chết những đứa con mình còn hơn là để chúng sống như những kẻ nô lệ.
Cuốn tiểu thuyết sử dụng những kỹ thuật như trong một giấc mơ của chủ
nghĩa hiện thực huyền bí trong việc phác họa một nhân vật huyễn hoặc,
Beloved, cô gái trở lại sống với người mẹ đã cắt cổ mình.
Morrison
cho rằng mặc dầu các tiểu thuyết của bà thuần túy là những tác phẩm
nghệ thuật hoàn hảo, chúng vẫn chứa đựng những ý nghĩa chính trị: “Tôi
không quan tâm đến việc nuông mình trong những tưởng tượng riêng tư...
Vâng, một tác phẩm nghệ thuật phải có ý nghĩa chính trị”. Năm 1993,
Morrison được trao giải Nobel văn chương.
Alice
Walker
(1944- )
Alice Walker là một người
Mỹ Da đen và là con của một gia đình nhà nông ăn chia theo mùa vụ ở vùng
thôn quê Georgia. Bà tốt nghiệp Đại học Sarah Lawrence, nơi có một
trong những người thầy của bà là nữ thi sĩ có khuynh hướng làm chính
trị, bà Muriel Rukeyser. Những người khác có ảnh hưởng đến sự nghiệp văn
chương của bà là Flannery O’Connor và Zora Neale Hurston.
Là một
nhà văn “rất nữ tính” như bà tự nhận; Walker từ lâu đã rất gắn bó với
phong trào đòi quyền bình đẳng cho phụ nữ, bà trình bày về sự hiện hữu
của người Da đen dưới cái nhìn của người phụ nữ. Cũng như Toni Morrison,
Jamaica Kincaid, Toni Cade Bambara và các tác giả Da đen đương đại
thành công khác, Walker sử dụng chủ nghĩa hiện thực trữ tình ở trình độ
nghệ thuật cao để phản ánh về những giấc mơ và thất bại của những con
người đáng tin cậy có thực. Tác phẩm của bà khắc họa đậm nét cuộc tìm
kiếm phẩm giá trong đời người. Bà là một nhà văn có văn phong rất mực
tinh tế, mượt mà đặc biệt thể hiện trong cuốn tiểu thuyết mang phong
cách ngôn ngữ thánh thư The Color Purple (Màu tím), tác phẩm
của bà có ý hướng giáo dục. Ở điểm này, Walker cũng giống như một tiểu
thuyết gia Mỹ đen khác là Ishmael Reed, tác giả của những tác phẩm trào
phúng phơi bày những vấn đề chủng tộc và xã hội.
The Color
Purple của Walker là một câu chuyện về tình yêu giữa hai chị em
người Da đen sống sót sau những tháng năm xa cách. Gắn bó với câu chuyện
này, bằng một cách nào đó trong cùng một thời điểm là việc một trong
hai chị em, một cô gái xấu xí, nhút nhát và thất học khám phá ra sức
mạnh tiềm tàng của mình nhờ sự giúp đỡ của một người bạn gái. Chủ đề về
sự nâng đỡ giữa những người phụ nữ gợi nhớ tiểu sử tự thuật của Maya
Angelou I Know Why the Caged Bird Sings ( Tôi biết vì sao chim
hót trong lồng - 1970) ngợi ca tình cảm giữa mẹ và con gái và tác phẩm
của các nhà văn Da trắng ủng hộ phong trào phụ nữ như Adrienne Rich. The
Color Purple mô tả đàn ông như là những con người về căn bản không
nhận thức được nhu cầu và sự hiện diện thực tế của người phụ nữ.
Những
năm cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90 chứng kiến sự kiện ngoạn mục
các tác phẩm của các cộng đồng ít người trở thành một bộ phận quan trọng
trong văn đàn Mỹ. Điều này cũng xảy ra với sân khấu cũng như văn xuôi.
August Wilson - người vẫn tiếp tục sáng tác và chứng kiến hàng loạt vở
kịch của mình về cuộc đời người Da đen ở thế kỷ 20 được đưa lên sân khấu
(trong đó có những vở đoạt giải Pulitzer như Fences (Rào cản -
1986) và The Piano Lesson (Bài học dương cầm – 1989) và tạo
được chỗ đứng cho mình bên cạnh các tiểu thuyết gia nổi tiếng như Alice
Walker, John Edgar Wideman và Toni Morrison.
Các nhà văn Mỹ gốc
châu Á cũng chiếm lĩnh vị trí của họ trên văn đàn: Maxine Hong Kingston
với The Woman Warrior (Nữ chiến binh, 1976) đã mở ra một con
đường cho các nhà văn nữ gốc châu Á của bà. Trong số họ có Amy Tan, tác
giả của những tác phẩm sáng chói về cuộc sống của người Hoa di cư sang
Mỹ sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai như cuốn The Joy Luck Club
(Phúc lạc hội, 1989) và cuốn The Kitchen God’s Wife (Vợ ông đầu
rau, 1991) chinh phục được đông đảo bạn đọc. Còn David Henry Hwang con
của một gia đình người Hoa sinh ra ở California đã làm nên tên tuổi của
mình trong làng kịch nghệ với những vở kịch như là F.O.B (Giao hàng lên
tàu - 1981) và M. Butterfly (Ông Butterfly - 1986).
Một
nhóm các nhà văn khá mới mẻ xuất hiện trên chân trời văn học là những
tác gia gốc Nam Mỹ, gồm tiểu thuyết gia gốc Cuba đoạt giải Pulitzer mang
tên Oscar Hijuelos, tác giả cuốn The Mambo Kings Play Songs of Love
(Các ông vua Mambo chơi nhạc tình yêu - 1989); nhà văn chuyên viết
truyện ngắn Sandra Cisneros (Women Hollering Creek and Other Stories
- Chuyện phụ nữ - 1991)[8] và Rudolfo Anaya, tác giả của cuốn Bless
Me, Ultima (Phù hộ cho tôi, Ultima) bán được 300.000 bản chủ yếu ở
miền Tây nước Mỹ.
VĂN HỌC PHONG CÁCH ĐỊA PHƯƠNG MỚI
Chẳng
có gì mới mẻ về truyền thống văn học địa phương trong văn chương Mỹ. Nó
cũng xa xưa như những truyền thuyết của người Da đỏ, cũng khơi gợi trí
tưởng tượng như các tác phẩm của James Fenimore Cooper và Bret Harte,
cũng nhiều âm vang như tiểu thuyết của William Faulkner và các vở kịch
của Tennessee Williams. Mặc dầu vậy, có một thời, vào khoảng sau Chiến
tranh thế giới thứ II, truyền thống đó dường như biến mất trong bóng
chập choạng của thời đại - trừ phi người ta nhận định, mà có lẽ là rất
đúng, rằng tiểu thuyết về đô thị cũng là một dạng của chủ nghĩa địa
phương. Tuy nhiên, trong thập kỷ vừa qua hay vào khoảng ấy, văn học địa
phương đã thực hiện một sự trở về ngoạn mục, vang dội trong nền văn học
Mỹ khiến cho độc giả có ý thức về không gian cũng như là có ý thức về
thời gian và thân phận con người. Và nó cũng trở nên thịnh hành trong
các thể loại tiểu thuyết phổ biến như là truyện trinh thám chẳng hạn,
cũng như trong văn học cổ điển với tiểu thuyết, truyện ngắn và kịch nói.
Ở đây có một vài lý do khả dĩ cho sự tái xuất hiện này. Cái
chính là, tất cả các loại hình nghệ thuật ở Mỹ đã trở nên phi tập trung
trong các thế hệ qua. Sân khấu, âm nhạc, múa có xu hướng phát triển mạnh
ở các vùng đô thị ở miền Nam, Tây Nam và Tây Bắc nước Mỹ cũng như những
thành phố lớn như New York và Chicago. Các công ty điện ảnh làm phim
trên khắp đất Mỹ hoặc vô số nơi khác. Văn học Mỹ cũng vậy. Các nhà xuất
bản nhỏ hơn tập trung vào tiểu thuyết đua nở rực rỡ bên ngoài “dãy phố
xuất bản” của thành phố New York. Các cuộc hội thảo và hội nghị của các
nhà văn trở thành mốt thời thượng hơn bao giờ hết, trong khi các lớp dạy
viết văn và học văn cũng trở thành cơn sốt ở khắp các trường đại học
trong nước. Chẳng có gì lạ khi các tài năng chớm nở có thể khai hoa bất
cứ ở đâu. Tất cả những cái mà người ta cần để viết văn chỉ là một cây
bút chì, giấy và quan điểm.
Những nét khỏe khoắn, thanh tân nhất
của trào lưu văn học địa phương mới là sự bành trướng và đa dạng của nó.
Nó tràn qua khắp nước Mỹ từ Đông sang Tây. Một cuộc hành trình văn học
xuyên suốt lục địa được bắt đầu ở vùng Đông Bắc ở Albany, New York với
trung tâm điểm của sự chú ý là người con của vùng đó, William Kennedy,
đã một thời là nhà báo. Kennedy, tác giả của những tiểu thuyết về Albany
trong số đó có các tiểu thuyết Ironweed (1983) và Very Old
Bones (Chuyện rắc rối cũ rích - 1992) là bức tranh ảm đạm về cuộc
sống của các cư dân ở các phố chợ và các quán rượu ở thủ phủ của bang
New York.
Là một nhà văn viết tiểu thuyết, viết truyện ngắn, viết
tiểu luận và cũng làm thơ rất sung mãn, giàu sức sáng tạo, Joyce Carol
Oates cũng xuất thân từ vùng Đông Bắc nước Mỹ. Trong các tác phẩm đáng
nhớ của bà, nỗ lực của các nhân vật bị ám ảnh phải đạt cho được thành
công trong những môi trường méo mó kỳ cục của họ cuối cùng đã dẫn họ đến
sự hủy hoại. Những tác phẩm hay nhất của bà được tuyển chọn trong các
tuyển tập như là The Wheel of Love (Bánh xe của tình yêu 1970)
và Where Are you Going, Where Have You Been? (Anh đi đâu, anh ở
đâu? - 1974). Stephen King, bậc thầy của thể loại tiểu thuyết kinh dị
bán chạy, thường lấy bối cảnh cho các tác phẩm kinh dị của ông tại Maine
- trong cùng một khu vực. Xuôi theo ven biển, trong vùng phụ cận
Baltimore bang Maryland, nhà văn Anne Tyler trình bày bằng cái giọng
giản dị, điềm tĩnh về những cuộc đời phi thường và những nhân vật kiệt
xuất. Những tiểu thuyết như Dinner at the Homesick Restaurant
(Ăn tối ở nhà hàng Nhớ nhà - 1982), The Accidental Tourist (Người
du khách bất ngờ - 1985), Breathing Lessons (Bài học hô hấp -
1988) và Saint Maybe (Thánh có thể - 1991) đã làm tên tuổi của
bà vang dội trong làng văn và trong lòng công chúng rộng rãi.
Cách
Baltimore không xa là thủ đô Washington cũng có truyền thống văn học
của riêng mình, nếu không muốn nói là một dòng văn học còn giấu mình
trong bóng tối ở giữa cái thành phố mà mối quan tâm chủ yếu là chính
trị. Trong số những nhà văn vẽ được những bức tranh rõ ràng về cuộc sống
ở trong và vành ngoài guồng máy chính phủ và quyền lực của đất nước, có
tiểu thuyết gia Ward Just - một cựu phóng viên quốc tế đã theo đuổi sự
nghiệp thứ hai của mình là viết về cái thế giới mà anh biết từng chân tơ
kẽ tóc: thế giới của các phóng viên báo chí, các chính trị gia, các nhà
ngoại giao, và giới binh nghiệp. Cuốn sách Nicholson at Large (Nicholson
tự do - 1975) một khảo cứu về giới làm báo trong và sau nhiệm kỳ của
tổng thống John F. Kenedy vào đầu những năm 1960, In the City of
Fear (Ở thành phố của nỗi sợ hãi - 1982) một phác thảo về
Washington trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam; và Jack Gane (1989),
một cái nhìn tỉnh táo về một chính khách Chicago và sự thăng tiến của
ông ta đến chức vụ Thượng nghị sĩ Mỹ, là vài cuốn tiểu thuyết trong số
những tác phẩm gây ấn tượng của Ward Just.
Cuốn truyện Children
of Power (Con cái của giới quyền lực - 1979) của Susan Richards
Shreve mổ xẻ cuộc sống riêng tư của nhóm con cái của các quan chức chính
phủ, trong khi tiểu thuyết gia nổi tiếng Tom Clancy, một công dân bang
Maryland đã dùng bối cảnh của giới chính trị - quân sự ở Washington làm
bệ phóng cho một loạt các câu chuyện ly kỳ mang tính sử thi hoành tráng
của ông.
Hướng về phía Nam, Reynolds Price và Jill McCorkle xuất
hiện trong tầm nhìn của chúng ta. Price, chính là bậc thầy của Tyler, đã
được một nhà phê bình mô tả hồi thập niên 70 là giữ một vị trí lỗi thời
của “nhà văn nội trú miền Nam”[9]. Ông gây được sự chú ý của dư luận lần
đầu tiên với cuốn A Long and Happy Life (Một cuộc đời dài lâu
và hạnh phúc - 1962) đề cập con người và mảnh đất về miền Đông bang Bắc
Carolina và đặc biệt là nhân vật nữ trẻ tuổi tên là Rosacoke Mustian.
Ông tiếp tục viết những câu chuyện về nữ nhân vật này nhiều năm sau đó,
rồi lại chuyển mối quan tâm của ông sang các chủ đề khác trước khi quay
trở lại với người phụ nữ này trong tác phẩm Kate Vaiden (1986)
khá nổi tiếng - tác phẩm duy nhất viết ở ngôi thứ nhất. Tác phẩm mới
nhất của Price, Blue Calhoun (Ông Calhoun sầu muộn - 1992) khám
phá ảnh hưởng của một cuộc tình say đắm, định mệnh qua nhiều thập kỷ
trong đời sống của một gia đình.
McCorkle sinh năm 1958 và vì vậy
là đại biểu cho thế hệ các nhà văn mới đã sáng tác các tiểu thuyết và
truyện ngắn của cô trong bối cảnh là những thị trấn nhỏ của bắc
Carolina, để khám phá những bí ẩn của tuổi vị thành niên (Cuốn The
Cheer Leader - Người xướng giọng hoan hô - 1984), những mối ràng
buộc giữa các thế hệ (trong cuốn Tending to Virginia - Hướng về
Virginia - 1987) và đặc biệt là sự nhạy cảm của phụ nữ miền Nam hiện
đại (Crash Diet - Ăn kiêng bằng mọi giá - 1992).
Một nhà
văn cũng của vùng đó là Pat Conroy, tác giả của những cuốn tiểu thuyết
mang tính tự thuật đầy kích thích về tuổi thơ của ông lớn lên ở nam
Carolina và người cha độc đoán, thô bạo của mình (Trong cuốn The
Great Santini - Santini vĩ đại - 1976) và The Prince of Tides (Ông
hoàng của các trào lưu - 1986). Đó là những cuốn truyện đầy ý thức về
vẻ đẹp thiên nhiên của vùng đất trũng ở bang Nam Carolina. Shelby Foote,
một người dân vùng Mississippi sống ở Memphis bang Tennessee một thời
gian dài, là nhà viết biên niên sử lâu năm của miền Nam. Những cuốn tiểu
thuyết và lịch sử của ông đã đem lại cho ông một vai diễn trong một
loạt phim truyền hình thành công về thời kỳ Nội chiến.
Vùng trung
tâm của nước Mỹ ấp ủ trong lòng nó rất nhiều tài năng văn chương, trong
số đó có Jane Smiley, một giáo sư dạy viết văn ở Đại học bang Iowa.
Smiley đoạt giải thưởng Pulitzer năm 1992 về tiểu thuyết cho cuốn A
Thousand Acres (Một ngàn mẫu đất - 1991), một tiểu thuyết đã chuyển
Vua Lear của Shakespeare đến một nông trại ở miền Trung Tây nước Mỹ và
ghi lại mối xung đột gia đình hết sức cay đắng lại bùng lên khi ông chủ
nông trại già nua quyết định giao lại đất đai của mình cho ba cô con
gái.
Người viết biên niên sử của bang Texas - Larry McMurtry đặc
tả tiểu bang quê hương của mình cùng với đời sống tình cảm của nó ở
nhiều thời điểm khác nhau từ miền Tây đã biến mất ở thế kỷ 19 (Trong Lonesome
Dove - Bồ câu cô đơn - 1985) đến sự bốc hơi của những thị trấn nhỏ
thời hậu chiến (The Last Picture Show - Triển lãm tranh lần
cuối - 1966).
Cormac McCarthy, phản ánh những cuộc chinh phục các
sa mạc ở vùng Tây Nam nước Mỹ trong các cuốn tiểu thuyết Blood
Meridian (Đường kinh tuyến máu - 1985) và Anything for Billy (Bất
cứ thứ gì dành cho Billy - 1998), All The Pretty Horses (Tất
cả những con ngựa đẹp - 1992) và The Crossing (Vượt tuyến -
1994) là một nhà văn có cuộc sống ẩn dật nhưng đặc biệt giàu trí tưởng
tượng, cũng mới nhận được sự chú ý của dư luận. Được giới nghiên cứu
công nhận là người thừa kế đúng mực của truyền thống văn học Gothic miền
Nam, McCarthy đã để cho tính chất hoang sơ của vùng đất này mê hoặc
cũng như là ông đã bị cuốn hút bởi sự man rợ của con người và những điều
bất trắc.
Lấy phong cảnh tuyệt đẹp của quê hương New Mexico làm
bối cảnh cho tiểu thuyết Ceremony (Nghi lễ - 1977) vốn được
giới phê bình đánh giá rất cao, nữ văn sĩ người Mỹ - Da đỏ Leslie Marmon
Silko đã mê hoặc được đông đảo bạn đọc. Giống như cuốn tiểu thuyết giàu
chất thơ của N. Scott Momaday The Way to Rainy Mountain (Đường
đi đến núi Mưa - 1969), Ceremony là một cuốn “tiểu thuyết đầy nhạc
tính” được cấu trúc trên nền các nghi thức chữa bệnh của người Da đỏ.
Một cuốn tiểu thuyết khác của Silko, cuốn The Almanac of the Dead (Niên
lịch của người chết - 1991) là bức tranh toàn cảnh vùng Tây Nam từ
những cuộc di dân của các bộ lạc cổ xưa cho đến những tên buôn lậu ma
túy và những nhà đầu tư bất động sản vô lương tâm đồi bại sử dụng đất
đai để kiếm lợi nhuận cho riêng mình. Nhà văn viết truyện hình sự bán
rất chạy Tony Hillerman sống ở Santa Fe bang New Mexico cũng viết về
vùng đất Tây Nam này của nước Mỹ, chọn hai viên cảnh sát Navajo siêng
năng, khiêm tốn làm nhân vật chính.
Về phía Bắc, ở bang Montana,
nhà thơ James Welch đặc tả cuộc vật lộn của người Mỹ Da đỏ để thoát khỏi
cuộc sống gian khổ khắc nghiệt trong khu bảo tồn, một cuộc sống ngập
ngụa trong rượu chè và đói nghèo, trong những tác phẩm ngắn gọn hầu như
toàn bích của ông như Winter in the Blood (Mùa đông máu lửa -
1974), The Dead of Jim Loney (Xác chết của Jim Loney - 1979), Fools
Crow (Bọn ngốc nghếch huênh hoang - 1986) và The Indian Lawyer
(Luật sư Da đỏ - 1990). Một nhà văn khác là đồng hương của James
Welch là Thomas McGuane, tác giả của những cuốn tiểu thuyết luôn luôn
tập trung vào những vấn đề của đàn ông như Ninety-Two in the Shade (Chín
hai độ trong bóng râm - 1973) và Keep the Change (Hãy giữ lấy
tiền lẻ - 1989) kể lại giấc mơ về những cội nguồn trong lúc đã bị xa lìa
nguồn cội. Louise Erdrich, có một phần dòng máu của bộ lạc Da đỏ
Chippewa thì cho ra đời một loạt tiểu thuyết về tiểu bang láng giềng với
Montana là Bắc Dakota. Trong những tác phẩm như Love Medicine
(Thuốc yêu - 1984) bà đã miêu tả sâu sắc cuộc sống rối rắm của các gia
đình không còn đủ chức năng ở các khu vực bảo tồn bằng một sự hòa trộn
đau xót giữa chủ nghĩa khắc kỷ và tính trào lộng.
Có hai nhà văn
điển hình cho vùng Viễn Tây trong một thời kỳ. Một người là Wallace
Stegner quá cố, sinh năm 1909 ở vùng Trung Tây và chết trong một tai nạn
xe cộ vào năm 1993. Stegner phiêu bạt đó đây ở miền Tây trong suốt cuộc
đời, ông có được một tri kiến về bản sắc địa phương thậm chí còn trước
khi nó trở thành thời thượng. Tác phẩm lớn nhất của ông The Big Rock
Candy Mountain (Núi kẹo đá lớn - 1943) kể lại lịch sử một dòng họ
ấp ủ giấc mơ Mỹ bởi cái vẻ ngoài cám dỗ của miền Tây vào cái lúc mà
đường biên giới hầu như biến mất. Câu chuyện trải ra khắp nước Mỹ, từ
tiểu bang Minesota đến tiểu bang Washington, và những mối quan tâm của
nó, như Stegner đã nêu là “vùng đất của những vẻ đẹp phi phàm đã lôi kéo
cả đất nước đi về phía Tây”. Tác phẩm đoạt giải Pulitzer của ông (Angle
of Repose - 1971) chan chứa tinh thần của vùng đất trong bức chân
dung về một nữ văn sĩ và họa sĩ minh họa của miền Tây xưa. Trong thực
tế, sức mạnh trong ngòi bút của ông chính là những nét điển hình hóa,
cũng như là sự gợi tả sâu sắc về sự khắc nghiệt của cuộc sống miền Viễn
Tây.
Joan Didion, vừa viết báo vừa viết tiểu thuyết là người có
tầm tưởng tượng rất xa trong những năm gần đây, đã đặt bản đồ California
hiện thời vào bộ sách của bà vào năm 1968 Slouching Toward
Bethlehem (Lê bước về Bethlehem[10]) và trong một cuốn tiểu thuyết hết sức
sắc sảo, gây chấn động của bà về tính vô mục đích của màn ảnh Hollywood,
cuốn Play It As It Lays (Chơi y như đã sắp xếp - 1970).
Vùng
Tây Bắc Thái Bình Dương, một trong những vùng đất khá màu mỡ về văn học
nghệ thuật trong toàn cảnh văn hóa vào đầu những năm 90, đã sản sinh ra
Raymond Carver, một cây viết truyện ngắn xuất sắc. Carver chết một cách
bi thảm vào năm 1988 ở tuổi 50, chẳng bao lâu sau khi ông nổi tiếng
trên làng văn. Văn của ông là tấm gương phản chiếu thái độ và quan điểm
của giai cấp lao động sống trong vùng của ông trong những tuyển tập như What
We Talk About When We Talk About Love (Chúng tôi nói gì khi chúng
tôi bàn về tình yêu - 1974) và Where I’m Calling From (Tôi đang
gọi từ đâu - 1986). Trong những truyện ngắn này ông đã đặt các nhân vật
của mình vào khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp mà phần lớn vẫn còn giữ
nguyên cái vẻ trinh nguyên của nó.
Thành công của trào lưu sân
khấu địa phương - các công ty có tôn chỉ nâng cao chất lượng nghệ thuật
một cách vô vụ lợi đã trở thành các địa điểm của nền văn hóa đương đại ở
hết thành phố này đến thành phố khác khắp trên nước Mỹ. Từ những năm
đầu thập niên 60, những cơ sở này đã bồi dưỡng và đào tạo nên những tài
năng soạn kịch trẻ tỏa sáng rực rỡ trong sân khấu hiện đại. Người ta tự
hỏi văn chương và sân khấu của Mỹ ngày nay sẽ ra sao nếu thiếu đi cái xã
hội tan vỡ thành nhiều mảnh, sáng chói và những mối quan hệ tàn bạo của
nó với Sam Shepard (trong Buried Child - Đứa trẻ bị chôn vùi -
1979); A Lie of the Mind (Lời nói dối của tâm trí - 1985);
những nhân vật vô đạo và những lời thoại rời rạc gây kinh hoàng của nhà
soạn kịch Chicago, David Mamet (trong American Buffalo - Trâu
rừng Bắc Mỹ - 1976); Glengarry Glen Ross (1982); sự thâm nhập
của các giá trị truyền thống vào cuộc sống miền Trung Tây và những mối
bận tâm được phản ánh trong tác phẩm của Lanford Wilson (5th
of July - Ngày 5 tháng 7 - 1978; Talley’s Folly - Sự ngu
xuẩn của Talley - 1979) và phong cách lập dị miền Nam của Beth Henley
(trong Crimes of the Heart - Trái tim tội lỗi - 1979).
Văn
học Mỹ đã trải qua một con đường dài, quanh co từ buổi đầu thành lập
thuộc địa cho đến nay. Xã hội, dòng lịch sử, và sự phát triển khoa học
kỹ thuật, tất cả đều có tác động mạnh đến nó. Mặc dầu vậy, rốt cuộc vẫn
có một điều vĩnh hằng đó là con người, với tất cả vẻ đẹp rực rỡ và xấu
xa của nó, với những truyền thống và điều hứa hẹn của nó.
[1] Cuốn truyện này xoay quanh nhân vật phản diện John
Sossarian, một sĩ quan đồn trú ở một sân bay tại một hòn đảo ở Địa
Trung Hải trong Chiến tranh Thế giới Thứ hai. Tác phẩm khắc họa những nỗ
lực tuyệt vọng của anh ta để sống sót. Từ Catch trong Catch - 22, liên
quan đến một điều lệ bí mật của không quân cho rằng một phi công cho là
mất trí nếu anh ta sẵn lòng thực hiện một chuyến bay nguy hiểm. Nhưng
nếu anh ta chính thức yêu cầu được rút khỏi nhiệm vụ này thì điều đó có
nghĩa là anh ta còn tỉnh táo và không đủ tư cách để được cứu trợ. Tựa đề
của cuốn sách đã góp mặt trong từ vựng tiếng Anh như một ám chỉ đến
tiền đề của những chuyến đi không có ngày về.
[2] Vở kịch này đã được dịch ra tiếng Việt và trình
diễn trên các sân khấu ở ta.
[3] Crucible: còn có nghĩa là nồi nấu kim loại (của
những người hành nghề phù thủy).
[4] On the Road dõi theo bước đường rong ruổi của hai
nhân vật chính “Sal Paradise” và “Dean Moriarty”, trên lục địa Bắc Mỹ,
suốt từ bờ biển phía Đông sang bờ biển phía Tây và đến Mexico. Trên
những nẻo đường này họ thoát khỏi những bổn phận nhàm chán, tự do với
mọi thứ đàn bà, âm nhạc, rượu và những cuộc đàm luận. Chúng tôi dịch
thoát tựa sách này thành Trên con đường tự do.
[5] Cuốn truyện kể về tiểu thuyết gia Ken Kesey từng
có biệt danh là “Chàng trai vàng”, một trong những tiểu thuyết gia hàng
đầu trong thế hệ của ông, ngoài ra ông còn là một nhà bác học, một nghệ
sĩ một siêu sao trong thể thao. Ken đã dẫn đầu một nhóm hippy đi khắp
nước Mỹ trong một chiếc xe buýt vào đầu những năm 60. Electric Kool -
Aid còn được gọi là LSD, một loại ma túy gây ra ảo giác.
[6] Virginia Woolf (1882 - 1941): nữ nhà văn Anh có
những cống hiến đặc biệt cho thể loại tiểu thuyết và đồng thời là một
nhà phê bình văn học xuất sắc.
[7] Entropy: có nghĩa là tình trạng trơ lì đồng nhất
của vũ trụ hoặc sự suy tàn dẫn tới hủy hoại mọi hình thức, kiểu mẫu và
khác biệt.
[8] Women Hollering Creek and Other Stories là một
tuyển tập truyện ngắn về các cảnh đời của phụ nữ ở hai bên đường biên
giới Mexico. Phụ nữ trong các truyện ngắn này kể về những khám phá đầy
thú vị bất ngờ với một sự khôn ngoan kín đáo. Chúng tôi xin tạm dịch là
Chuyện phụ nữ.
[9] Nhà văn nội trú (Writer Inresidence): nhà văn ăn ở
tại cơ sở (trường đại học hoặc cộng đồng) được trả lương để họ làm việc
tại đó một thời gian. Chúa Jesus Christ sinh ra ở Bethlehem.
[10] Chúa Jesus Christ sinh ra ở Bethlehem.
[1] Cuốn truyện này xoay quanh nhân vật phản diện John
Sossarian, một sĩ quan đồn trú ở một sân bay tại một hòn đảo ở Địa
Trung Hải trong Chiến tranh Thế giới Thứ hai. Tác phẩm khắc họa những nỗ
lực tuyệt vọng của anh ta để sống sót. Từ Catch trong Catch - 22, liên
quan đến một điều lệ bí mật của không quân cho rằng một phi công cho là
mất trí nếu anh ta sẵn lòng thực hiện một chuyến bay nguy hiểm. Nhưng
nếu anh ta chính thức yêu cầu được rút khỏi nhiệm vụ này thì điều đó có
nghĩa là anh ta còn tỉnh táo và không đủ tư cách để được cứu trợ. Tựa đề
của cuốn sách đã góp mặt trong từ vựng tiếng Anh như một ám chỉ đến
tiền đề của những chuyến đi không có ngày về.
[2] Vở kịch này đã được dịch ra tiếng Việt và trình
diễn trên các sân khấu ở ta.
[3] Crucible: còn có nghĩa là nồi nấu kim loại (của
những người hành nghề phù thủy).
[4] On the Road dõi theo bước đường rong ruổi của hai
nhân vật chính “Sal Paradise” và “Dean Moriarty”, trên lục địa Bắc Mỹ,
suốt từ bờ biển phía Đông sang bờ biển phía Tây và đến Mexico. Trên
những nẻo đường này họ thoát khỏi những bổn phận nhàm chán, tự do với
mọi thứ đàn bà, âm nhạc, rượu và những cuộc đàm luận. Chúng tôi dịch
thoát tựa sách này thành Trên con đường tự do.
[5] Cuốn truyện kể về tiểu thuyết gia Ken Kesey từng
có biệt danh là “Chàng trai vàng”, một trong những tiểu thuyết gia hàng
đầu trong thế hệ của ông, ngoài ra ông còn là một nhà bác học, một nghệ
sĩ một siêu sao trong thể thao. Ken đã dẫn đầu một nhóm hippy đi khắp
nước Mỹ trong một chiếc xe buýt vào đầu những năm 60. Electric Kool -
Aid còn được gọi là LSD, một loại ma túy gây ra ảo giác.
[6] Virginia Woolf (1882 - 1941): nữ nhà văn Anh có
những cống hiến đặc biệt cho thể loại tiểu thuyết và đồng thời là một
nhà phê bình văn học xuất sắc.
[7] Entropy: có nghĩa là tình trạng trơ lì đồng nhất
của vũ trụ hoặc sự suy tàn dẫn tới hủy hoại mọi hình thức, kiểu mẫu và
khác biệt.
[8] Women Hollering Creek and Other Stories là một
tuyển tập truyện ngắn về các cảnh đời của phụ nữ ở hai bên đường biên
giới Mexico. Phụ nữ trong các truyện ngắn này kể về những khám phá đầy
thú vị bất ngờ với một sự khôn ngoan kín đáo. Chúng tôi xin tạm dịch là
Chuyện phụ nữ.
[9] Nhà văn nội trú (Writer Inresidence): nhà văn ăn ở
tại cơ sở (trường đại học hoặc cộng đồng) được trả lương để họ làm việc
tại đó một thời gian. Chúa Jesus Christ sinh ra ở Bethlehem.
[10] Chúa Jesus Christ sinh ra ở Bethlehem.