Chủ nghĩa hiện thực và sự thể nghiệm
 Kathryn VanSpanckeren
Văn
 chương tự sự từ Thế chiến thứ hai chống lại sự khái quát hóa bởi vì nó 
cực kỳ phong phú và đa diện. Nó được hồi sinh bởi các trào lưu văn học 
thế giới, như là chủ nghĩa hiện sinh châu Âu và chủ nghĩa hiện thực 
huyền ảo châu Mỹ Latin, trong lúc kỷ nguyên điện tử đã biến thế giới 
rộng lớn thành một ngôi nhà chung. Ngôn ngữ nói trên truyền hình đã mang
 cuộc sống mới đến cho truyền thống văn học nói. Những thể loại truyền 
miệng, phương tiện thông tin đại chúng và văn hóa phổ thông ngày càng 
ảnh hưởng tới văn chương tự sự. 
Trong quá khứ, nền văn hóa bác 
học đã ảnh hưởng đến văn hóa bình dân qua vị thế và mẫu mực của nó; điều
 ngược lại có vẻ đúng với nước Mỹ ngày nay. Những nhà văn nghiêm túc như
 Thomas Pynchon, Joyce Carol Oates, Kurt Vonnegut, Jr., Alice Walker và 
E. L. Dotorow đã vay mượn và bình luận về truyện bằng tranh trên báo, 
những cuốn phim, thời trang, những ca khúc và lịch sử.
Nói lên 
điều này không nhằm tầm thường hóa nền văn học đương đại: Các nhà văn ở 
Mỹ đang đặt nhiều câu hỏi nghiêm túc, nhiều câu trong đó có bản chất 
siêu hình. Họ có tinh thần đổi mới và tự nhận thức mình, hay “phản 
tỉnh”, rất cao. Thông thường họ thấy những kiểu cách truyền thống không 
mấy hiệu quả. Họ tìm kiếm sức sống trong chất liệu thông thường, rộng 
lớn hơn. Nói một cách khác: nhà văn Mỹ, trong những thập kỷ gần đây đã 
phát triển một cảm thức hậu - hiện đại. Việc điều chỉnh lại các quan 
điểm của các nhà văn theo chủ nghĩa hiện đại không còn phù hợp đối với 
họ; cái chính là điều kiện cho những quan điểm mới ra đời.
DI
 SẢN KẾ THỪA CỦA CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC VÀ NHỮNG NĂM CUỐI CỦA THẬP NIÊN 40 
Giống
 như tiểu thuyết trong nửa đầu thế kỷ 20, tiểu thuyết ở nửa sau của thế 
kỷ phản ánh đặc điểm của mỗi thập kỷ. Những năm cuối thập kỷ 40 đã chứng
 kiến hậu quả của Thế chiến II và sự bắt đầu của cuộc Chiến tranh Lạnh. 
Chiến
 tranh Thế giới Thứ hai đã cung cấp những chất liệu cơ bản cho nhiều tác
 phẩm. Norman Mailer trong tác phẩm The Naked and the Dead (Kẻ 
trần truồng và người chết - 1948) và James Jones trong From Here to 
Eternity (Từ đây đến vô tận - 1951) là hai nhà văn đã sử dụng những
 chất liệu sống tốt nhất. Cả hai đều khai thác chủ nghĩa hiện thực rất 
gần với chủ nghĩa tự nhiên trần trụi; cả hai đều cố hết sức để không tôn
 vinh cuộc chiến. Điều này cũng xảy ra với The Young Lions (Sư 
tử non - 1948) của Irwin Shaw. Herman Wouk trong The Caine Mutiny
 (Cuộc tạo phản ở Caine - 1951), cũng cho thấy những nhược điểm của con 
người hiện rõ trong thời chiến cũng như trong cuộc sống dân sự. Về sau, 
Joseph Heller mô tả Chiến tranh Thế giới Thứ hai bằng những từ ngữ có 
tính cách châm biếm và phi lý, chẳng hạn như Catch-22[1] (Cạm bẫy - 1961), lập luận rằng chiến 
tranh luôn kết hợp với sự điên loạn. Thomas Pynchon trình bày một tình 
huống nổi bật, phức tạp nhại theo và thay thế những tình huống khác nhau
 trong thực tế trong cuốn Gravity’s Rainbow (Cầu vồng của trọng
 lực - 1973). Kurt Vonnegut, Jr., đã trở thành một trong những ngọn hải 
đăng của trào lưu phản văn hóa trong những năm đầu thập niên 70 sau khi 
xuất bản cuốn Slaughterhouse - Five: or, The Children’s Crusade
 (Lò sát sinh số 5 hoặc cuộc thập tự chinh của trẻ con - 1969). Cuốn 
tiểu thuyết chống chiến tranh của ông nói về cuộc đánh bom ở Dresden 
(Đức) của lực lượng Đồng minh trong Chiến tranh Thế giới Thứ hai (cuộc 
ném bom mà ông đã chứng kiến từ dưới mặt đất khi là tù binh).
Thập
 niên 40 cũng chứng kiến sự lên ngôi của đội ngũ tài năng trẻ, bao gồm 
nhà thơ - tiểu thuyết gia - nhà viết tiểu luận Robert Penn Warren, hai 
nhà soạn kịch Arthur Miller và Tennessee Williams, những nhà văn viết 
truyện ngắn Katherine Anne Porte và Endora Welty. Tất cả đều là những 
nhà văn người miền Nam trừ Miller. Tất cả đều khám phá thân phận cá nhân
 trong gia đình hay cộng đồng và xoáy vào sự cân bằng giữa sự phát triển
 cá nhân và trách nhiệm đối với cộng đồng. 
Robert
 Penn Warren 
(1905-1989) 
Robert Penn 
Warren, một trong những nhà văn nhóm Fugutive ở miền Nam, gặt hái được 
thành công mỹ mãn hầu như trong suốt thế kỷ 20. Suốt cuộc đời mình, ông 
quan tâm đến những giá trị dân chủ khi chúng xuất hiện trong các bối 
cảnh lịch sử khác nhau. Cuốn tiểu thuyết ngự trị lâu dài nhất của ông là
 All the King’s Men (Tất cả thần dân của vua - 1946), xoáy sâu 
vào những khía cạnh đen tối của giấc mơ Mỹ - được bộc lộ trong câu 
chuyện về con đường tiến thân đầy những uẩn khúc của một thượng nghị sĩ 
miền Nam khoe khoang và ranh mãnh - Huey Long.
Authur
 Miller 
(1915- ) 
Nhà soạn kịch, viết tiểu 
thuyết, viết tiểu luận và viết tiểu sử người New York - Authur Miller - 
đạt đến đỉnh cao vào năm 1940, với cuốn Death of a Salesman 
(Cái chết của người chào hàng). Cuốn sách là một công trình nghiên cứu 
của một con người trong cuộc tìm kiếm danh dự và giá trị của anh ta 
trong cuộc sống và sự nhận thức rằng thất bại luôn chờ phía trước một 
cách chắc chắn. Chuyện xảy ra trong gia đình Loman, xoay quanh những mối
 quan hệ khập khiễng giữa người cha và những đứa con trai, giữa chồng và
 vợ. Nó là tấm gương phản chiếu tình hình văn học vào thập niên 40 - một
 sự kết hợp phong phú giữa chủ nghĩa hiện thực với hơi hướng của chủ 
nghĩa tự nhiên: các nhân vật được khắc họa cẩn thận, tròn trịa; và nhấn 
mạnh vào giá trị của mỗi cá nhân, mặc cho những thất bại và lỗi lầm. Death
 of a Salesman là một bài ca chiến thắng thật cảm động cho những 
con người bình thường - như bà góa phụ Willy Loman ca ngợi, “phải chú ý 
đến họ”. Thương tâm và ảm đạm, nó cũng là câu chuyện về những giấc mơ. 
Như một nhân vật ghi nhận một cách mỉa mai, “một người chào hàng cũng 
phải mơ ước, bé ạ. Nó đến cùng với đất đai”.
Death of a 
Salesman, một tác phẩm đặc sắc, vẫn chỉ là một trong nhiều vở kịch 
Miller viết qua nhiều thập kỷ, gồm All My Sons[2] (Tất cả đều là con tôi - 1947) và The
 Crucible[3] (Thử thách cam go - 1953). Cả hai đều 
mang tính chính trị - một vở về thời hiện đại, vở kia lấy bối cảnh thời 
thuộc địa. All My Sons nói về một nhà sản xuất dù biết rõ vẫn 
cho phép những phụ tùng không đạt yêu cầu được lắp ráp ở những công ty 
máy bay trong Chiến tranh Thế giới Thứ hai, dẫn đến cái chết của chính 
đứa con trai của ông và những người khác. The Crucible khắc họa
 những phiên tòa xử phù thủy ở Salem (Massachusetts) vào thế kỷ 17 trong
 đó một số người định cư Thanh giáo đã chết oan vì bị cho là phù thủy. 
Tuy nhiên, thông điệp của nó - rằng “cuộc thanh trừng phù thủy” nhắm vào
 những người dân vô tội là con ghẻ của nền dân chủ - lại có liên quan 
đến giai đoạn trong đó vở kịch được dàn dựng, đó là những năm đầu thập 
niên 50, khi một chiến dịch chống cộng do thượng nghị sĩ Joseph Mc 
Carthy và những người khác lãnh đạo đã hủy hoại mạng sống của bao người 
dân vô tội.
Tennessee Williams 
(1911
 - 1983) 
Tennessee Williams, người vùng Mississippi, là 
một trong những nhà văn khá phức tạp trên văn đàn nước Mỹ vào giữa thế 
kỷ 20. Tác phẩm của ông tập trung vào những xúc cảm xáo trộn, rối rắm và
 vấn đề tính dục chưa được giải quyết ổn thỏa trong đời sống gia đình - 
hầu hết là ở miền Nam. Ông nổi tiếng về những câu nói lặp đi lặp lại như
 thần chú, một cách diễn đạt đầy chất thơ của miền Nam, về những bối 
cảnh Gothic kỳ lạ, và những khám phá về những khát khao tình dục theo 
Freud. Là một trong những nhà văn Mỹ đầu tiên công khai sống như một 
người đồng tính luyến ái, Williams giải thích rằng đời sống tính dục của
 các nhân vật bị đọa đầy của ông diễn đạt sự cô đơn của họ. Những nhân 
vật của ông sống và chịu đau khổ một cách sâu xa. 
Williams viết 
hơn 20 vở kịch dài, nhiều vở mang tính chất tiểu sử tự thuật. Ông đạt 
đến đỉnh cao trong sự nghiệp tương đối sớm - vào thập niên 40 - với The
 Glass Menagerie (Bầy thú bằng thủy tinh - 1944) và A Streetcar
 Named Desire (Chiếc xe điện mang tên Dục vọng - 1947). Không một 
tác phẩm nào trong suốt hơn 2 thập kỷ sau đó đạt được mức độ thành công 
và phong phú như hai vở kịch này. 
Katherine
 Anne Porter 
(1890 - 1980) 
Cuộc đời và sự 
nghiệp dài lâu của Katherine Anne Porter trải qua nhiều mốc lịch sử. Tác
 phẩm thành công đầu tiên của bà, câu chuyện “Flowering Judas” (Judas 
Hoàn thiện - 1929), lấy bối cảnh ở Mexico trong thời kỳ cách mạng. Những
 truyện ngắn trau chuốt tuyệt vời mang lại danh tiếng cho bà qua những 
mảng đời được bộc bạch một cách tinh tế: “The Jilting of Granny 
Weatherall” (Người tình phụ bạc của bà ngoại Weatherall) chẳng hạn, đã 
chuyển tải những cảm xúc lớn lao một cách chính xác, ngắn gọn. Bà thường
 mô tả đời sống nội tâm của phụ nữ và sự lệ thuộc của họ vào đàn ông.
Những
 sắc thái biểu cảm của Porter chịu ảnh hưởng nhiều từ những câu chuyện 
của nhà văn sinh ở New Zealand, Katherine Mansfield. Những tập truyện 
của Porter bao gồm Flowering Judas (1930), Noon Wine (Rượu
 trưa - 1937), Pale Horse, Pale Rider (Ngựa còi, nài 
cọc - 1939), The Leaning Tower (Tháp nghiêng - 1944) và Collected
 Stories (Truyện ngắn chọn lọc - 1965). Vào đầu những năm 60, bà 
sáng tác một tiểu thuyết dài mang tính chất phúng dụ với một đề tài phi 
thời gian về trách nhiệm giữa người với người. Câu chuyện có tựa đề Ship
 of Fools (Con tàu của những người ngu - 1962) xảy ra trên boong 
một con tàu chở khách mang những con người thuộc xã hội thượng lưu Đức 
và những người dân tị nạn của Đức trốn chạy bọn phát xít Đức vào cuối 
những năm 30.
Tuy không viết nhiều, sáng tác của Porter vẫn ảnh 
hưởng đến nhiều thế hệ nhà văn, trong số họ có những bạn văn miền Nam 
của bà là Eudora Welty và Flannery O’Connor.
Eudora
 Welty 
(1909- ) 
Sinh ở Mississippi trong một 
gia đình khá giả sau này chuyển lên sống ở miền Bắc, Eudora Welty được 
Warren và Porter dẫn dắt vào nghề. Thật ra, Porter đã viết lời giới 
thiệu cho tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của Welty, A Curtain of 
Green (Màn cửa xanh lá cây - 1941). Welty nương theo khuôn mẫu của 
Porter để viết các tác phẩm của mình nhưng nữ văn sĩ trẻ quan tâm hơn 
đến những điều khôi hài và lập dị. Cũng như với Flannery O’Connor sau 
này, các nhân vật trung tâm của bà thường bất thường, quái dị hay ở 
những trường hợp ngoại lệ. 
Mặc dù tác phẩm của bà có nhiều yếu tố
 bạo lực, trí thông minh của Welty tự bản chất mang tính nhân bản và lạc
 quan, ví dụ như trong câu chuyện thường được đưa vào các tuyển tập 
chính của bà: Why I Work at the P.O. (Tại sao tôi làm việc ở 
Bưu điện), nói về một đứa con gái bướng bỉnh và độc lập bỏ nhà đến sống 
trong một bưu điện nhỏ xíu. Những tập truyện của bà bao gồm The Wide
 Net (Mạng rộng - 1943), The Golden Apples (Những trái táo
 vàng - 1949), The Bride of the Innisfallen (Cô dâu của 
Innisfallen - 1955), và Moon Lake (Hồ Trăng - 1980). Welty cũng
 viết những cuốn tiểu thuyết như Delta Wedding (Đám cưới Delta -
 1946), kể chuyện một gia đình ở một trang trại trong thời hiện đại và The
 Optimist’s Daughter (Con gái người lạc quan - 1972).
THẬP
 NIÊN 50 SUNG MÃN NHƯNG THA HÓA
Trong thập niên 50 người 
ta đã thấy rõ tác động của hiện đại hóa và kỹ thuật hóa trong cuộc sống 
hàng ngày, một ảnh hưởng còn sót lại từ thập niên 20 - trước cuộc Đại 
khủng hoảng kinh tế. Chiến tranh Thế giới Thứ hai đã đưa Hoa Kỳ thoát 
khỏi cuộc Đại khủng hoảng và thập niên 50 đã cung cấp cho hầu hết dân cư
 Mỹ thời gian tận hưởng sự giàu có vật chất đã chờ đợi từ lâu. Công việc
 kinh doanh, đặc biệt trong thế giới các công ty, hình như mang lại cuộc
 sống tốt đẹp (thường là ở ngoại vi đô thị), với những dấu hiệu thực sự 
và là biểu tượng của sự thành công - nhà cửa, xe hơi, truyền hình và đồ 
điện gia dụng.
Tuy nhiên, sự cô đơn trên hết vẫn như là một đề tài
 nổi bật, con người thuộc một đám đông không nhân mạo đã trở thành khuôn
 mẫu đặc trưng trong cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất của Sloan Wilson The
 Man in the Gray Flannel Suit (Người đàn ông mặc bộ đồ len xám - 
1955). Sự tha hóa của nước Mỹ được khái quát trong một công trình nghiên
 cứu nghiêm túc của nhà xã hội học David Riesman - cuốn The Lonely 
Crowd (Đám đông đơn độc - 1950) - những công trình nghiên cứu khác 
ít hoặc nhiều tính khoa học tiếp nối nhau xuất hiện: từ cuốn The 
Hidden Persuaders (Người thuyết phục giấu mặt (1957) và The 
Status Seekers (Những kẻ chạy theo danh vọng - 1959) của Vance 
Packard, đến The Organization Man (Người của tổ chức 1956) của 
William Whyte và các cuốn White Collard (Viên chức - 1951) và
 The Power Elite (Giới tinh hoa quyền lực - 1956) có tính trí tuệ 
hơn của Wright Mill. Viện sĩ hàn lâm và nhà kinh tế học John Kenneth 
Galbraith đã đóng góp cuốn The Affluent Society (Một xã hội sung mãn - 
1958). Hầu hết các tác phẩm này đều tán đồng các giả định có từ thập 
niên 50 rằng mọi người dân Mỹ cùng chia sẻ một lối sống chung. Những 
công trình nghiên cứu này dùng lối nói phổ thông chỉ trích những công 
dân đã đánh mất bản sắc cá nhân thời khai phá trở thành những kẻ sống 
quá rập khuôn theo tập tục chung của xã hội (ví dụ, Riesman và Mills) và
 khuyên mọi người trở thành thành viên của một “giai cấp mới” mà khoa 
học kỹ thuật và thời gian rảnh rỗi đã tạo nên (như có thể thấy trong các
 tác phẩm của Galbraith).
Thập niên 50 thật sự là thập niên của 
những áp lực trên mọi lĩnh vực và rất khó nhận biết. Những cuốn tiểu 
thuyết của John O’Hara, John Cheever và John Updike cố khám phá sự căng 
thẳng lẩn quất trong bóng tối của cảm giác thỏa lòng. Những tác phẩm hay
 nhất khắc họa những con người bị rớt đài trong cuộc vật lộn để đạt đến 
thành công, như trong Death of a Salesman của Authur Miller và 
tiểu thuyết Seize the Day (Sống qua ngày - 1956) của Saul 
Bellow. Có vài nhà văn đi xa hơn khi lần theo những con người bỏ cuộc 
như J.D. Salinger trong The Catcher in the Rye (Bắt trẻ đồng 
xanh - 1951), Ralph Ellison trong Invisible Man (Người vô hình -
 1952) và Jack Kerouac trong On the Road (Trên con đường tự do[4] - 1957). Và trong những tháng ngày cuối 
cùng của thập kỷ, Philip Roth xuất hiện cùng với một loạt những truyện 
ngắn phản ánh sự tha hóa khỏi cội nguồn Do Thái của mình (Goodbye, 
Columbus - Vĩnh biệt, Columbus - 1959). Những suy ngẫm tâm lý của ông đã
 cung cấp chất liệu cho tiểu thuyết và về sau cho cả tiểu sử tự thuật 
của những năm 90.
Tiểu thuyết của những nhà văn Mỹ - Do Thái như 
Bellow, Bernard Malamud và Isaac Bashevis Singer - một vài gương mặt 
điển hình trong thập niên 50 và những năm tiếp theo sau - cũng là những 
tác phẩm thực sự có giá trị, một sự bổ sung hấp dẫn vào bản phác họa văn
 học Mỹ. Tác phẩm của ba nhà văn này nổi tiểng vì tính khôi hài, mối 
quan tâm đạo đức, và những miêu tả về cộng đồng Do Thái ở Cựu và Tân thế
 giới.
John O’Hara 
(1905 -
 1970) 
Được đào tạo làm nhà báo, John O’Hara là nhà văn 
sung sức viết nhiều vở kịch, truyện ngắn và tiểu thuyết. Ngòi bút của 
ông thực sự điêu luyện trong việc xây dựng chu đáo các tình tiết và được
 độc giả nhớ đến nhiều nhờ một số cuốn tiểu thuyết hiện thực, hầu hết 
được viết vào thập niên 50, về những con người có bề ngoài thành đạt 
nhưng những lỗi lầm giấu kín và sự bất mãn sâu xa trong tâm hồn làm cho 
họ rất dễ bị tổn thương. Đó là những cuốn Appointment in Samarra
 (Hẹn gặp ở Samarra - 1934), Ten North Frederick (Mười người ở 
Bắc Frederick - 1955), và From the Terrace (Từ hiên nhà - 
1958).
James Baldwin 
(1924
 - 1987) 
James Baldwin và Ralph Ellison là tấm gương phản 
ánh cuộc sống của người Mỹ Da đen vào thập niên 50. Nhân vật của họ phải
 chịu đựng cảnh sống thiếu bản sắc, hơn là đau khổ vì quá cao vọng. 
Baldwin, lớn nhất trong chín anh em trong một gia đình ở Harlem, New 
York, là con nuôi của một mục sư. Khi còn trẻ, Baldwin đôi lúc cũng 
giảng đạo trong nhà thờ. Kinh nghiệm này giúp hình thành khả năng hùng 
biện hết sức cuốn hút trong văn xuôi của ông, thể hiện rõ nhất trong các
 bài tiểu luận như “Letter from a Region of My Mind” (Thư tự lòng tôi) 
trong tập The Fire Next Time (Ngọn lửa tương lai - 1963). Trong
 cuốn sách này, những lập luận gây xúc động sâu xa của ông là nhằm chấm 
dứt nạn phân biệt các chủng tộc. 
Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của 
Baldwin, cuốn Go Tell It On the Mountain (Đi mà kể trên núi - 
1953) mang tính chất tự truyện, có lẽ là cuốn nổi tiếng nhất của ông. 
Đây là câu chuyện của một thiếu niên 14 tuổi trong cuộc tự tìm kiếm bản 
thân và niềm tin tôn giáo; như khi cậu bé vật lộn với những vấn đề cải 
đạo Thiên Chúa trong một tiền sảnh nhà thờ. Những tác phẩm quan trọng 
khác của Baldwin bao gồm Another Country (Xứ người - 1962), một
 cuốn tiểu thuyết đề cập đến vấn đề chủng tộc và đồng tính luyến ái và 
cuốn Nobody Knows My Name (Không ai biết tên tôi - 1961), một tuyển tập 
những tiểu luận mang dấu ấn cá nhân tràn đầy nhiệt tình về nạn kỳ thị 
chủng tộc, vai trò của người nghệ sĩ và văn học.
Ralph
 Waldo Ellison 
(1914 - 1994) 
Ralph Ellison,
 một người miền Trung Tây, sinh ở Oklahoma, học ở Học viện Tuskegee ở 
miền Nam Hoa Kỳ. Ông có một trong những sự nghiệp kỳ lạ nhất trong văn 
học Mỹ - chỉ với một cuốn sách duy nhất, ông đã có chỗ đứng trên văn 
đàn. Cuốn tiểu thuyết Invisible Man (1952) là câu chuyện về 
cuộc sống của một người Da đen chỉ là một sự tồn tại dưới mặt đất trong 
một cái hang được chiếu sáng bởi ánh điện ăn cắp của một công ty dịch vụ
 công cộng. Cuốn sách kể lại chuỗi sự kiện quái đản và những mộng đẹp 
tan tành của anh ta. Khi anh nhận được một học bổng ở một trường đại học
 dành cho người Da đen, anh đã bị những người Da trắng sỉ nhục; khi anh 
vào đại học, anh chứng kiến thầy hiệu trưởng người Da đen khinh bỉ bác 
bỏ những vấn đề bức xúc của người Mỹ Da đen. Cuộc sống cũng thối rữa bên
 ngoài trường đại học. Ví dụ, ngay cả tôn giáo cũng không phải là một sự
 an ủi: Một giáo sĩ giảng đạo thực ra lại là một tên tội phạm. Cuốn tiểu
 thuyết lên án xã hội đã hoàn toàn không trao cho các công dân - đen 
cũng như trắng - những lý tưởng cao đẹp để vươn tới và những thể chế khả
 dĩ có thể biến chúng thành hiện thực. Cuốn tiểu thuyết chứa đựng nội 
dung sâu sắc về chủng tộc bởi lẽ “con người vô hình” ấy trở nên trong 
suốt không phải do bản thân anh ta mà do những người khác, mù lòa vì 
định kiến, đã không thể nhìn thấy anh ta, không biết đến sự tồn tại của 
con người đó.
Flannery O’Connor 
(1925
 - 1964) 
Flannery O’Connor, người vùng Georgia, sống một
 cuộc đời ngắn ngủi vì bệnh Luput, một bệnh về máu dễ gây tử vong. Tuy 
vậy, bà từ chối những biểu hiện tình cảm ủy mị, điều đó được thể hiện rõ
 trong những câu chuyện cực kỳ khôi hài nhưng ảm đạm và không thỏa hiệp 
của bà. Không giống như Porter, Welty, và Hurston, O’Connor thường miêu 
tả nhân vật ở cự ly gần, không ngại ngần vạch ra các thiếu sót và ngu 
ngốc của họ. Những nhân vật miền Nam thất học trong những cuốn tiểu 
thuyết của bà thường gây ra tội ác và bạo lực bởi sự mê tín hoặc các hủ 
tục, như ta có thể thấy trong tiểu thuyết Wise Blood (Dòng máu 
khôn ngoan - 1952) của bà, kể về một kẻ cuồng tín tôn giáo, tự xây dựng 
giáo hội của riêng mình. 
Đôi lúc bạo lực xuất phát từ thành kiến,
 như trong truyện “The Displaced Person” (Người bị thay thế) kể về một 
người mới nhập cư bị giết chết bởi những người dân quê dốt nát, ngu 
muội; những kẻ bị đe dọa bởi cung cách sống kỳ lạ và lao động siêng năng
 của anh ta. Thường thì những sự cố tàn bạo xảy ra một cách đơn giản với
 những nhân vật của bà, như trong “Good Country People” (Dân quê lương 
thiện), câu chuyện về một cô gái bị một người đàn ông dụ dỗ, rồi ăn cắp 
cái chân giả của cô.
Óc khôi hài mang đặc trưng Da đen của 
O’Connor rất gần gũi với Nathanael West và Joseph Heller. Những tác phẩm
 của bà bao gồm những tuyển tập truyện ngắn A Good Man is Hard to 
Find (Người tử tế thật khó tìm - 1955) và Everything That Rises
 Must Converge (Mọi thứ rốt cuộc đều giống nhau - 1965); cuốn tiểu 
thuyết The Violent Bear It Away (Bọn hung bạo mang nó đi - 
1960); và một tuyển tập thư từ The Habit of Being (Thói quen 
hiện hữu - 1979). Cuốn Complete Stories (Toàn tập truyện ngắn) 
của bà ra đời vào năm 1971.
Saul Bellow
 
(1915- ) 
Sinh ra ở Canada và lớn lên ở 
Chicago, Saul Bellow có gốc Nga-Do Thái. Ông theo học nhân chủng học và 
xã hội học ở trường đại học, điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến tác phẩm 
của ông cho đến tận ngày nay. Ông đã biểu lộ lòng biết ơn sâu xa với 
Theodore Dreiser, vì các tác phẩm của Theodore Dreiser, đã hướng ông đi 
vào những kinh nghiệm đủ loại và sự dấn thân đầy xúc cảm của ông với nó.
 Được đánh giá rất cao, ông nhận giải Nobel văn học vào năm 1976. Những 
cuốn tiểu thuyết hiện sinh đầu tiên có phần u ám của Saul Bellow bao gồm
 Dangling Man (Người chờ đợi - 1944), một sự khảo sát mang 
phong cách Kafka về một người chờ đợi được tuyển mộ đi lính và The 
Victim (Nạn nhân - 1974), về quan hệ giữa người Do Thái và người 
không phải Do Thái. Vào thập niên 50, quan điểm của ông trở nên hài hước
 hơn: Ông sử dụng một loạt những người kể chuyện ngôi-thứ-nhất nhiệt 
tình và mạo hiểm trong The Adventures of Augie March (Cuộc 
phiêu lưu của Augie March - 1953) - một nghiên cứu về một nhà đầu tư ở 
thành phố giống như Huck Finn sau trở thành một tay bán chợ đen ở châu 
Âu - và trong Henderson the Rain King (Henderson vua Mưa - 1959), một 
cuốn tiểu thuyết xuất sắc nửa nghiêm túc nửa khôi hài về một nhà triệu 
phú đứng tuổi với những tham vọng không thỏa mãn cuối cùng đã đưa ông 
đến châu Phi. Những cuốn về sau của Bellow bao gồm Herzog (1964),
 về cuộc đời rắc rối của một giáo sư người Anh bị thần kinh với ám ảnh 
tìm cho ra ý nghĩa về cái tôi lãng mạn; Mr Sammler’s Planet (Hành
 tinh của ông Sammler - 1970); Humboldt’s Gift (Phần thưởng của
 Humboldt - 1975); và cuốn tự truyện The Dean’s December (Tháng
 12 trong đời ông trưởng khoa - 1982).
Cuốn Seize the Day (Sống
 qua ngày - 1956) của Bellow là một cuốn tiểu thuyết sáng chói thường 
được giảng dạy trong chương trình trung học hoặc đại học bởi vì sự tuyệt
 vời và sự cô đọng của nó. Nhân vật trung tâm trong truyện là một thương
 gia thất cơ lỡ vận, Tommy Wilhelm, đã cố gắng che giấu cảm xúc đau đớn 
vì thất bại của mình bằng cách mang một bộ mặt mãn nguyện. Cuốn truyện 
bắt đầu một cách giễu cợt: “Khi phải che giấu những rắc rối của mình, 
Tommy Wilhelm tỏ ra chẳng kém cạnh ai cả. Vì thế ít nhất anh ta 
nghĩ...”. Sự tiêu hao năng lượng này, thật oái ăm chỉ dẫn đến sự xuống 
dốc của ông. Wilhelm quá day dứt với cảm giác bất cập đến nỗi ông trở 
nên hoàn toàn bất lực - thất bại với phụ nữ, với công việc, với máy móc 
và với thị trường hàng hóa, rồi cuối cùng ông ta mất hết tiền bạc. Ông 
ta là một ví dụ về một gã khờ khạo, vụng về luôn thất bại trong truyện 
dân gian Do Thái - một người luôn luôn gặp những điều xui xẻo. Seize
 the Day tổng kết lại nỗi sợ bị thất bại đã ám ảnh bao người Mỹ.
Bernard Malamud 
(1914 - 1986) 
Bernard
 Malamud sinh ở New York, cha mẹ là dân nhập cư Nga gốc Do Thái. Trong 
cuốn tiểu thuyết thứ hai The Assistant (Người phụ tá - 1957), 
Malamud đã tìm ra được những chủ đề đặc trưng của mình - cuộc đấu tranh 
sống còn chống lại mọi trở ngại và những nền tảng đạo đức của những 
người nhập cư Do Thái đương đại.
Tác phẩm xuất bản đầu tiên của 
Malamud là The Narural (Tự nhiên - 1952), một sự kết hợp của 
chủ nghĩa hiện thực và hoang tưởng, đặt trong thế giới kỳ bí của môn 
bóng chày chuyên nghiệp. Những tiểu thuyết khác bao gồm A New Life
 (Cuộc đời mới - 1961), The Fixer (Người hối lộ - 1966), Pictures
 of Fidelman (Những bức ảnh của Fidelman - 1969), và The 
Tenants (Những người thuê nhà - 1971). Ông cũng là một bậc đại gia 
sung mãn trong làng truyện ngắn. Qua những truyện ngắn của ông trong các
 tuyển tập như là The Magic Barrel (Chiếc thùng mầu nhiệm - 
1958), Idiots First (Ưu tiên kẻ ngu ngốc - 1963), và Rembrandt’s
 Hat (Chiếc mũ của Rembrandt - 1973), ông truyền đạt - hơn tất cả 
những nhà văn khác sinh ra ở Mỹ một ý thức về hiện tại và quá khứ mang 
màu sắc Do Thái, cái thực và siêu thực, sự kiện và huyền thoại.
Một
 tác phẩm hoành tráng của Malamud - mà nhờ nó ông được giải thưởng 
Pulitzer và giải Sách quốc gia - cuốn The Fixer lấy bối cảnh ở 
Nga khoảng đầu thế kỷ 20, nó là cái nhìn chất chứa những bí ẩn về một 
trường hợp vu cáo bẩn thỉu - một chuyện có thật - vụ án tai tiếng của 
Mendel Beiliss năm 1913, một vết nhơ đen tối trong vụ bài Do Thái trong 
lịch sử hiện đại. Như trong nhiều tác phẩm của mình, Malamud nhấn mạnh 
sự chịu đựng của nhân vật của ông, Yako Bok và cuộc đấu tranh chống lại 
mọi trở ngại để tồn tại.
Isaac Bashevis
 Singer 
(1904 - 1991) 
Tiểu thuyết gia đoạt 
giải Nobel và bậc thầy truyện ngắn Isaac Bashevis Singer là một người Ba
 Lan di cư đến Mỹ năm 1935. Ông là con của một trưởng giáo sĩ Do Thái ở 
Warszawa. Suốt đời viết bằng tiếng Yiddish (ngôn ngữ pha trộn giữa tiếng
 Đức và Hebrew từng là ngôn ngữ thông dụng của người Do Thái trong nhiều
 thế kỷ qua), ông viết về những điều huyền bí và hiện thực của hai nhóm 
người Do Thái đặc biệt - kiều dân của các Shtetls (những làng nhỏ) ở Cựu
 thế giới và những di dân bị sóng gió đại dương vùi dập trước và sau 
Chiến tranh Thế giới Thứ hai.
Các tác phẩm của Singer là tư liệu 
về hai thời kỳ trước và sau Chiến dịch Holocaust - việc tàn sát nhiều 
cộng đồng Do Thái châu Âu do Đức quốc xã và những kẻ hợp tác với chúng 
tiến hành. Một mặt, ông mô tả - trong những tiểu thuyết như The 
Manor (Thái ấp - 1967) và The Estate (Điền trang - 1969), 
lấy bối cảnh nước Nga thế kỷ 19, và The Family Moskat (Gia đình
 Moskat - 1950), xoay quanh một gia đình Do Thái - Balan giữa hai cuộc 
Thế chiến - cuộc sống của cộng đồng Do Thái ở châu Âu hiện không còn 
nữa. Mặt khác, một số tác phẩm của ông lấy bối cảnh sau chiến tranh, như
 Enemies, A Love Story (Những kẻ thù, một chuyện tình -
 1972), mà nhân vật chính là những người sống sót sau cuộc khủng bố 
người Do Thái, tìm cách xây dựng cuộc đời mới cho chính mình.
Vladimir Nabokov 
(1889 - 1977) 
Cũng
 giống như Singer, Vladimir Nabokov là người di dân từ Đông Âu. Sinh ra 
trong một gia đình giàu có ở nước Nga Sa Hoàng, ông đến Mỹ năm 1940 và 
năm năm sau trở thành công dân Mỹ. Từ năm 1948 đến 1959 ông giảng dạy 
văn học ở Đại học Cornell ở phía bắc của tiểu bang New York; năm 1960, 
ông chuyển sang sống hẳn ở Thụy Sĩ. Ông nổi tiếng nhờ những tiểu thuyết 
của mình, trong đó có cuốn tự truyện Pnin (1957) - một câu 
chuyện về một giáo sư nhập cư người Nga không thành công và cuốn Lolita
 (xuất bản tại Mỹ năm 1958), về một người Âu trung niên, có học vấn si 
mê cuồng dại một cô bé người Mỹ 12 tuổi thơ ngây. Một tiểu thuyết mô 
phỏng của Nabokov, Pale Fire (Lửa tàn - 1962) lại là một sự mạo
 hiểm thành công khác, nói về một bài thơ dài do một nhà thơ tưởng tượng
 đã chết sáng tác và những lời bình về bài thơ do một nhà phê bình viết 
và những tác phẩm của nhà phê bình này thấm đẫm bài thơ bắt đầu sống 
cuộc đời đầy những bất ngờ của riêng chúng.
Nabokov là nhà văn có 
nhiều ảnh hưởng bởi bút pháp tinh tế, sự châm biếm sắc sảo và những cách
 tân độc đáo về mặt hình thức. Tất cả điều đó đã khơi nguồn cảm hứng cho
 những tiểu thuyết gia như John Barth. Nabokov ý thức được vai trò cầu 
nối của mình giữa hai thế giới văn học Nga và Mỹ; ông đã viết một cuốn 
sách về Gogol và dịch tiểu thuyết thơ Engene Onegin của 
Pushkin. Những chủ đề táo bạo, có phần ảnh hưởng của chủ nghĩa biểu 
hiện, như tình yêu kỳ quặc trong Lolita, góp phần giới thiệu những trào 
lưu biểu hiện châu Âu thế kỷ 20 vào truyền thống văn học mang nặng tính 
hiện thực của Mỹ. Giọng văn của ông, phần châm biếm phần hoài niệm, cũng
 gợi tới một kiểu mới để tái hiện cảm xúc nửa trang nghiêm nửa khôi hài,
 sau này rất hữu dụng cho các nhà văn như Pynchon, người phối hợp những 
mặt tương phản của trí thông minh và sợ hãi.
John
 Cheever 
(1912 - 1982) 
John Cheever thường 
được gọi là một “tiểu thuyết gia đa phong cách”. Ông nổi tiếng vì những 
truyện ngắn nhiều liên tưởng, tao nhã và tuyệt hay của mình, những 
truyện ngắn mổ xẻ giới kinh doanh của New York qua những ảnh hưởng của 
nó đối với các nhà kinh doanh, vợ con, bạn bè họ. Một khát khao gượng 
gạo, bi thiết có vẻ như vô vọng nhưng không bao giờ bị dập tắt về những 
đam mê hay sự xác tín siêu hình ẩn giấu trong bóng tối của những câu 
chuyện tinh tế của Cheever, theo phong cách Chekhov, tập hợp trong The
 Way Some People Live (Cách người ta sống - 1943), The 
Housebreaker of Shady Hill (Kẻ đột nhập ở Shady Hill - 1958); Some
 People, Places and Things That Will Not Appear in My Next Novel 
(Một vài người, vài địa điểm và vài chuyện sẽ không bao giờ xuất hiện 
trong cuốn tiểu thuyết sắp tới của tôi - 1961), The Brigadier and 
the Golf Widow (Thiếu tướng và người góa phụ chơi golf - 1964), và The
 World of Apples (Thế giới những trái táo - 1973). Tựa đề những 
cuốn sách của ông bộc lộ sự lãnh đạm, đùa nghịch, một sự bất kính và một
 sự gợi ý về chủ đề, nội dung. Cheever cũng xuất bản nhiều cuốn tiểu 
thuyết - The Wapshot Scandal (Vụ tai tiếng của gia đình Wapshot
 - 1964), Bullet Park (Công viên đạn - 1969), và Falconer
 (Người luyện chim ưng - 1977) - cuốn sau cùng này mang nhiều yếu tố tự 
thuật.
John Updike 
(1932 -
 ) 
Cũng như Cheever, John Updike được xem là nhà văn đa 
phong cách với những bức tranh về cuộc sống đô thị, chủ đề xoay quanh 
cuộc sống gia đình, phản ánh tâm trạng chán chường, tiếc nuối. Tiểu 
thuyết của ông thường xảy ra ở vùng Bờ Đông ở Massachusetts và 
Pennsylvania. Updike rất nổi tiếng với bốn tác phẩm loại Rabbit miêu tả 
cuộc sống của một người đàn ông tên là Harry “Rabbit” Angstrom với những
 thăng trầm trong cuộc đời ông qua bốn thập kỷ của lịch sử chính trị và 
xã hội Mỹ. Rabbit, Run (Rabbit, chạy - 1960) là tấm gương phản 
chiếu nước Mỹ thập niên 50, trong đó Angstrom là một anh chồng trẻ bất 
mãn; sống hoàn toàn không có mục đích. Rubbit Redux (Rubbit trở
 lại phong độ - 1971) tập trung làm nổi bật hiện tượng phản văn hóa của 
thập niên 60. Trong tập này, Angstrom vẫn không có một mục tiêu, hoặc lý
 tưởng rõ ràng trong cuộc sống hoặc là có một cách thức hợp lý để trốn 
khỏi sự nhàm chán, vô vị của nó. Trong Rabbit Is Rich (Rabbit 
giàu có - 1981), Harry trở nên giàu có nhờ của cải thừa hưởng trong bối 
cảnh thập niên 70 thịnh vượng và vị kỷ, khi mà cuộc chiến ở Việt Nam đã ở
 vào giai đoạn cuối. Tập cuối cùng Rabbit at Rest (Rabbit an 
nghỉ - 1990), lướt qua sự hòa giải của Angstrom với cuộc đời, và cái 
chết khinh suất của ông trong bối cảnh lịch sử những năm 80. Ngoài bộ 
tiểu thuyết trên, Updike còn viết các cuốn tiểu thuyết khác như
 The Centaur (Con nhân mã - 1963), Couples (Những cặp 
vợ chồng - 1968) và Bech: A Book (Bech: Một cuốn sách - 1970). 
Updike có một thi pháp nổi bật, sáng chói của bất cứ nhà văn hiện đại 
nào và những truyện ngắn của ông là mẫu mực về sự lỗi lạc và sắc sảo xét
 cả về tầm vóc phản ánh và tính sáng tạo của chúng. Tuyển tập truyện 
ngắn của ông gồm có The Same Door (Cùng một cánh cửa - 1959), The
 Music School (Trường nhạc - 1966), Museums and Women (Bảo
 tàng và phụ nữ - 1972), Too Far To Go (Đường xa - 1979) và Problems
 (Những vấn đề - 1979). Ông cũng viết nhiều tập thơ và tiểu luận.
J.D. Salinger 
(1919- ) 
Là
 người đưa tin của thập niên 60, J. D. Salinger đã khắc họa những cố 
gắng đào thoát ra khỏi xã hội. Sinh ở New York, ông đã đạt đến đỉnh cao 
trong sự nghiệp văn học nhờ vào việc xuất bản cuốn tiểu thuyết The 
Catcher in the Rye (Bắt trẻ đồng xanh - 1951) viết về một cậu bé 
nhạy cảm 16 tuổi, Holden Caulfield, đã trốn khỏi một trường nội trú danh
 giá để gia nhập vào thế giới bên ngoài của người lớn để sau đó phải vỡ 
mộng bởi cái chủ nghĩa vật chất và sự giả dối của nó.
Khi được hỏi
 lớn lên cậu bé thích làm gì, Caulfield đã trả lời “thích làm người bắt 
trẻ ngoài đồng”, nhại theo một bài thơ của Robert Burns. Trong mơ ước 
của mình, ông muốn bản thân là hình ảnh hiện đại của một hiệp sĩ Da 
trắng, người bảo vệ duy nhất cho sự trong sáng, ngây thơ. Ông tưởng 
tượng ra một cánh đồng lúa mạch đen bao la, lúa cao đến nỗi không thể 
nhìn thấy một bầy trẻ con đang chạy nhảy vui đùa trong đám lúa. Ông là 
người lớn duy nhất ở đấy. “Tôi đang đứng trên bờ đá cao ghê hồn. Tôi 
phải làm gì? Tôi phải bắt bất cứ đứa trẻ nào toan vượt qua bờ đá đó”. 
Rơi xuống bên kia vách đá có nghĩa là đánh mất tuổi thơ và sự thơ ngây 
(đặc biệt là về tính dục) - một chủ đề trở đi trở lại trong thời kỳ này.
 Những tác phẩm khác của nhà văn ẩn cư và viết rất kén này gồm: Nine
 Stories (Chín câu chuyện - 1953), Franny and Zooey (1961)
 và Raise High the Roof - Beam, Carpenters (Cao cao trên xà 
nhà, Bác thợ mộc - 1963) một tuyển tập truyện ngắn từ báo The New 
Yorker. Sau khi một truyện ra mắt độc giả vào năm 1965, Salinger - sống ở
 New Hampshire - vắng bóng trên bầu trời văn học Mỹ.
Jack Kerouac
(1922 - 1969) 
Là
 con trai của một gia đình gốc Pháp - Canada nghèo khổ, Jack Kerouac 
trăn trở với vấn đề ý nghĩa và giá trị cuộc sống của lớp người trung 
lưu. Ông đã có những cuộc giao lưu với nhóm văn nghệ Beat bí mật khi còn
 là sinh viên của Đại học Columbia ở New York. Tiểu thuyết của ông chịu 
nhiều ảnh hưởng của những tác phẩm mang ít nhiều yếu tố tự thuật của 
tiểu thuyết gia miền Nam - Thomas Wolfe. 
Tiểu thuyết hay nhất của
 Kerouac là cuốn On the Road (Trên con đường tự do - 1957) miêu
 tả “các thành viên của nhóm Beat” lang thang khắp nước Mỹ tìm kiếm một 
giấc mơ lý tưởng về cuộc sống cộng đồng và cái đẹp. Cuốn The Dharma 
Bums (Phật pháp của những kẻ cầu bơ cầu bất - 1958) tập trung phản 
ánh về những trí thức phản văn hóa sống lang thang bất định và sự say mê
 nhất thời của họ đối với Thiền tông - Phật giáo. Kerouac cũng sáng tác 
một tập thơ Mexico City Blues (Điệu blues ở Mexico City - 1959)
 và những tập sách về cuộc đời ông với thành viên của nhóm Beat như nhà 
văn viết tiểu thuyết thể nghiệm William Burroughs và thi sĩ Allen 
Ginsberg.
THẬP NIÊN 60 RỐI REN NHƯNG ĐẦY SÁNG TẠO
Áp
 lực và sự tha hóa tiềm tàng trong thập niên 50 tìm được tiếng nói thích
 hợp vào thập niên 60 ở Mỹ trong phong trào đấu tranh đòi quyền bình 
đẳng, phong trào đấu tranh cho quyền phụ nữ, chống chiến tranh, hoạt 
động của cộng đồng ít người và sự xuất hiện của phong trào phản văn hóa 
mà ảnh hưởng của nó vẫn còn dai dẳng trong xã hội Mỹ. Những tác phẩm về 
văn hóa xã hội và chính trị nổi bật trong thời kỳ này gồm có những bài 
diễn thuyết về quyền bình đẳng của nhà lãnh đạo Da đen, tiến sĩ Martin 
Luther King, những trước tác thời kỳ đầu của nhà lãnh đạo phong trào nữ 
quyền Betty Friedan (The Feminine Mystique - Sự huyền diệu của phụ nữ, 
1963) và The Armies of the Night (Đội quân của bóng đêm - 1968)
 của Normal Mailer về cuộc biểu dương lực lượng chống chiến tranh năm 
1967.
Những năm 60 được đánh dấu bởi sự xóa nhòa ranh giới giữa hư
 cấu và sự thật, giữa tiểu thuyết và phóng sự điều tra và điều này vẫn 
còn tiếp diễn cho đến tận ngày nay. Tiểu thuyết gia Truman Capote, một 
con người ăn nói huỵch toẹt từng làm độc giả choáng váng vào cuối thập 
niên 40 đầu thập niên 50 trong những tác phẩm như Breakfast at 
Tiffany (Ăn sáng ở Tiffany - 1958) - giờ lại làm độc giả sững sờ 
với In Cold Blood (Máu lạnh - 1966), một phân tích vô cùng hấp 
dẫn về một vụ tàn sát tập thể hết sức tàn bạo xảy ra ở một vùng trung 
tâm nước Mỹ, lôi cuốn bạn đọc như một cuốn tiểu thuyết trinh thám. Cùng 
lúc đó, “phong cách báo chí mới” nổi lên, 268 269 những tác phẩm không 
có yếu tố hư cấu kết hợp với phong cách viết báo và kỹ thuật viết tiểu 
thuyết hoặc là sử dụng thường xuyên các dữ kiện thật, nhào nặn chúng lại
 để tạo tính xác thực và ly kỳ cho câu chuyện được kể. Cuốn The 
Electric Kool - Aid Acid Test. (Cuộc thử nghiệm của dân hippy([5])) của Tom Wolfe (1968) ca
 ngợi những chuyện ngộ nghĩnh, dễ thương trong những đam mê phiêu bồng 
phản văn hóa của tiểu thuyết gia Ken Kesey. Còn cuốn Radical Chic 
and Mau - Mauing the Flak Catchers cười nhạo nhiều khía cạnh của 
phong trào cánh tả. Sau này Wolfe viết một cuốn lịch sử hết sức sâu sắc 
và phong phú về giai đoạn đầu của chương trình không gian Hoa Kỳ, cuốn 
The Right Stuff (Chuyện tào lao - 1979) và tiểu thuyết The Bonfire 
of the Vanities (Ngọn lửa của sự phù hoa - 1987) là bức tranh toàn 
cảnh về xã hội Mỹ trong thập niên 80. 
Vào những năm 60, văn học 
cũng nhập cuộc với những rối ren trong thời kỳ này. Một cái nhìn mỉa 
mai, bỡn cợt cũng xuất hiện, phản ánh trong phong cách ngụ ngôn của một 
số nhà văn, trong số đó có truyện One Flew Over the Cuckoo’s Nest (Bay
 qua tổ chim cúc cu - 1962) - một truyện hài hước ảm đạm của Ken Kesey 
về cuộc sống trong một nhà thương điên trong đó các nhân viên y tế lại 
còn quậy phá điên rồ hơn cả bệnh nhân. Trout Fishing in America (Câu
 cá hồi ở Mỹ - 1967) của Richard Brautigan là một cuốn tiểu thuyết tưởng
 tượng đến mức quái dị. Hài hước và tưởng tượng kết hợp để tạo ra một 
phong cách mới nửa siêu hình nửa khôi hài trong các cuốn tiểu thuyết 
hoang tưởng, xuất sắc của Thomas Pynchon nhan đề V (1963) và The
 Crying of Lot 49 (Tiếng khóc than của lô 49), cuốn Giles Goat -
 Boy (Giles - Cậu bé chăn dê - 1966) của John Barth và những truyện
 ngắn kỳ dị của Donald Bartheme trong tuyển tập truyện ngắn đầu tiên Come
 Back, Dr Calogari (Trở lại đi, Tiến sĩ Calogari) xuất bản vào năm 
1964.
Trong lãnh vực sân khấu, Edward Albee sáng tác một loạt vở 
kịch tâm lý phi truyền thống: Who’s Afraid of Virginia Woolf[6]? (Ai sợ Virginia Woolf? - 1962), A 
Delicate Balance (Sự thăng bằng mong manh - 1966) và Seascape (Phong
 cảnh biển - 1975). Những vở kịch phản ánh cuộc dò tìm nội tâm và cách 
tiếp cận đầy nghịch lý của tác giả.
Đồng thời, thập niên 60 cũng 
chứng kiến sự ra đời muộn màng của một tài năng văn học trong độ tuổi 40
 - Walker Percy - một bác sĩ và một mẫu mực của phong cách tao nhã miền 
Nam. Trong loạt tác phẩm của mình, Percy đã dùng địa phương quê nhà của 
ông như một tấm thảm trang trí để ông trải lên đó những màn kịch tâm lý 
ly kỳ hấp dẫn. The Moviegoer (Dân nghiền xinê - 1961) và The
 Last Gentleman (Chính nhân quân tử cuối cùng - 1966) là hai vở 
kịch nổi bật trong những tác phẩm được đánh giá cao của ông.
Thomas Pynchon 
(1937 - ) 
Thomas
 Pynchon là tác giả u huyền, không thích khoa trương tên tuổi. Ông sinh ở
 New York, tốt nghiệp Đại học Cornell năm 1958, nơi có lẽ ông đã tiếp 
nhận ảnh hưởng của Vladimir Nabokov. Có một điều chắc chắn là, những 
tưởng tượng có tính cách tân của ông, sử dụng những chủ đề về việc diễn 
giải những mấu chốt, những trò chơi, và các mật mã có thể xuất phát từ 
Nabokov. Giọng văn linh hoạt của Pynchon có thể hòa nhập chứng hoang 
tưởng vào trong thi ca.
Tất cả những tiểu thuyết của Pynchon đều 
có kết cấu giống nhau. Luôn có ít nhất một nhân vật chính không biết gì 
về dòng diễn biến phức tạp của câu chuyện, rồi sau đó trọng trách của 
hắn là sắp xếp lại trật tự của cái mớ bòng bong các sự kiện và giải mã 
thế giới. Công việc này, chính là nhiệm vụ của người nghệ sĩ truyền 
thống, được chuyển giao cho người đọc, họ phải dõi theo các sự kiện, tìm
 ra những điểm mấu chốt và lý giải về mọi sự. Quan điểm hoang tưởng này 
phổ biến khắp các lục địa và chính thời đại này, bởi vì Pynchon đã sử 
dụng ẩn dụ “entropy”[7] về sự suy tàn dần dần của vũ trụ. Ông là 
bậc thầy trong việc tiếp thu và chuyển hóa văn hóa dân gian - đặc biệt 
là trong tiểu thuyết khoa học viễn tưởng và tiểu thuyết trinh thám.
Tiểu
 thuyết mang tựa đề V được cấu trúc lỏng lẻo xung quanh Benny Profane - 
một kẻ thất bại lại lao vào những cuộc phiêu lưu vô mục đích với những 
công việc làm ăn kỳ cục luôn thay đổi và đối thủ của anh ta, Herbert 
Stencil, một trí thức có nhiệm vụ truy tìm một nữ điệp viên bí mật V (có
 thể là Venus, Virgin hay Void). The Crying of Lot 49 (Tiếng 
khóc than của lô 49), là một truyện vừa, đề cập đến một hệ thống bí mật 
liên quan đến dịch vụ bưu điện Mỹ. Gravity’s Rainbow (Cầu vồng 
của trọng lực - 1973) viết về những sự kiện xảy ra ở London trong thời 
kỳ chiến tranh thế giới thứ II, vào lúc mà đạn bom tưới xuống thành phố 
này. Nội dung xuyên suốt cuốn truyện là cuộc tìm kiếm nửa khôi hài nửa 
biểu trưng những tên phát xít Đức và các nhân vật đội lốt khác. Sự mãnh 
liệt trong biểu cảm, tính khôi hài và sự nhạy bén với những cái mới đã 
gắn chặt tên tuổi của Pynchon với thập niên 60.
John
 Barth 
(1930- ) 
John Barth quê ở Maryland 
là nhà văn quan tâm đến cách kể lại một câu chuyện như thế nào hơn là 
nội dung của nó. Nhưng trong khi Pynchon tung hỏa mù đưa độc giả vào con
 đường với những dấu vết giả tạo và những đầu mối khả dĩ vượt ra ngoài 
một cuốn tiểu thuyết trinh thám, thì Barth lại mời bạn đọc bước vào một 
ngôi nhà vui tươi của lễ hội, nơi chứa đầy những tấm gương dị dạng, 
phóng đại một số nét này trong khi lại thu nhỏ một số đặc điểm khác. Chủ
 nghĩa hiện thực là kẻ thù của Barth, tác giả của tuyển tập truyện ngắn Lost
 in the Funhouse (Lạc lối trong ngôi nhà của niềm vui - 
1968) gồm 14 truyện về quá trình viết văn và đọc sách. Mục đích của 
Barth là nhắc nhở và cảnh báo cho độc giả về bản chất nhân tạo của việc 
đọc và viết văn, và hơn nữa ngăn cản người đọc đừng bị lôi cuốn vào câu 
chuyện như thể câu chuyện ấy là có thật trên đời. Để làm nổ tung cái ảo 
tưởng về chủ nghĩa hiện thực, Barth đã dùng toàn bộ công cụ phản tỉnh để
 nhắc nhở bạn đọc rằng chính là họ đang đọc sách. 
Những tác phẩm 
đầu tay của Barth cũng như của Saul Bellow chứa đựng rất nhiều vấn đề và
 mang tính hiện sinh rõ nét, có những chủ đề của thập niên 50 về sự tẩy 
chay xã hội và sự lang thang bất định của số phận con người. Cuốn truyện
 The Floating Opera (Nhạc kịch lưu động - 1956) viết về một con
 người toan tính tự tử. The End of the Road (Đoạn cuối của con 
đường - 1958) miêu tả một cuộc tình phức tạp. Những tác phẩm vào thập 
niên 60 của ông trở nên hài hước hơn và càng ít hiện thực hơn nữa. The
 Sot - Weed Factor (1960) nhại theo thể loại tiểu thuyết giang hồ 
thế kỷ 18, trong khi với Giles Goat Boy (Giles - Cậu bé chăn dê
 - 1966), thế giới được thu nhỏ một cách hài hước thành một trường đại 
học. Cuốn Chimera (Quái vật tưởng tượng - 1972) kể lại những 
câu chuyện cổ của thần thoại Hi Lạp và trong Letters (Những lá 
thư - 1979) thì chính Barth trở thành một nhân vật như là Normal Mailer 
đã làm trong The Armies of the Night. Trong Sabbatical: A 
Romance (Kỳ nghỉ của giáo sư: Một truyện tình - 1982) Barth sử dụng
 một motif hư cấu quen thuộc về điệp viên, đấy là câu chuyện về một nữ 
giáo sư dạy đại học và chồng nàng, một điệp viên đã giải nghệ sau trở 
thành một tiểu thuyết gia.
Normal 
Mailer 
(1923- ) 
Normal Mailer được dư luận 
rộng rãi công nhận là đại biểu cho những thập kỷ vừa qua, một tác gia có
 khả năng thay đổi phong cách, nội dung và mối quan tâm khá nhiều lần. 
Có xu hướng viết về những kinh nghiệm sống với cá tính mãnh liệt và tính
 cách của một con người tham gia hoạt động xã hội đầy kịch tính, Mailer 
đi theo con đường truyền thống của Ernest Hemingway. Tư tưởng của ông 
hết sức mạnh bạo và đổi mới. Ông là tác giả trái ngược hẳn với Barth, 
bởi vì đối với Barth, nội dung phản ánh không quan trọng bằng cái cách 
mà nó được diễn đạt. Cũng không giống với Pynchon khó xác định, Mailer 
luôn tranh thủ và đòi hỏi một sự chú tâm. Là nhà văn viết tiểu thuyết, 
một nhà viết tiểu luận, đôi khi cũng là một chính khách, một nhà hoạt 
động văn hóa và thỉnh thoảng còn là diễn viên, Mailer là nhân vật trung 
tâm của “sân khấu” xã hội. Từ những tác phẩm mang phong cách “báo chí 
mới” như Miami and the Siege of Chicago (Miami và việc vây hãm 
thành Chicago - 1968), một phân tích về những hội nghị đề cử ứng viên 
tổng thống Mỹ năm 1968 và sự nghiên cứu hết sức hấp dẫn của ông về vụ 
hành quyết những kẻ bị kết tội sát nhân trong cuốn The Excutioner’s 
Song (Bài ca của kẻ tử tội - 1979) ông chuyển sang viết những cuốn 
tiểu thuyết nặng ký và đầy tham vọng như Ancient Evenings 
(Những buổi chiều xưa - 1983) lấy bối cảnh ở Ai Cập cổ đại và cuốn Harlot’s
 Ghost (Hồn ma Harlot - 1992) về những vấn đề xoay quanh cơ quan 
tình báo trung ương Hoa Kỳ.
THẬP NIÊN 70 VÀ 80 NHỮNG HƯỚNG
 ĐI MỚI
Vào khoảng giữa thập niên 70, kỷ nguyên của sự 
củng cố bắt đầu. Chiến tranh ở Việt Nam đã kết thúc, tiếp sau đó là việc
 nước Mỹ công nhận Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và việc kỷ niệm 200 năm 
lập quốc. Chẳng bao lâu sau là những năm 80, “thập kỷ vì tôi” tiếp bước,
 trong đó mỗi cá nhân có khuynh hướng tập trung vào những mối quan tâm 
riêng tư của mình hơn là những vấn đề xã hội lớn lao hơn.
Trong 
văn học, các trào lưu cũ vẫn còn tồn tại, nhưng cái sức mạnh đằng sau sự
 thể nghiệm đơn thuần đã giảm dần. Các tiểu thuyết gia trẻ như John 
Gardner, John Irving (với tiểu thuyết The World According to Garp
 - Thế giới dưới con mắt của Garp, 1978), Paul Theroux (Trong The
 Mosquito Coast - Bờ biển Mosquito, 1982), William Kennedy (Ironweed
 - Hạt sắt, 1983) và Alice Walker (The Color Purple - Màu 
tím, 1982) lên ngôi với những tiểu thuyết nổi bật rất có cá tính khắc 
họa những tấn kịch cảm động về con người. Việc quan tâm tới hoàn cảnh, 
nhân vật và những chủ đề kết hợp với chủ nghĩa hiện thực đã trở lại. Chủ
 nghĩa hiện thực, bị bỏ rơi bởi các nhà văn thể nghiệm vào thập niên 60,
 đã quay trở lại thường kết hợp với những yếu tố sáng tạo hết sức táo 
bạo - một cấu trúc mới mẻ, đột phá như một “tiểu thuyết trong tiểu 
thuyết” có thể thấy trong truyện của John Garner October Light (Ánh
 sáng tháng Mười - 1976) hoặc là tiếng Anh của người Mỹ - Da đen trong The
 Color Purple của Alice Walker. Văn học của các cộng đồng ít người 
bắt đầu đua nở. Kịch nói đã chuyển từ chủ nghĩa hiện thực sang những kỹ 
xảo điện ảnh và tốc độ hơn. Tuy vậy, cùng lúc đó, “Thập kỷ vì tôi” cũng 
được phản ánh trong các tài năng trẻ khoa trương như Joy Mclnerny với Bright
 Lights, Big City, (Ánh sáng rực rỡ nơi đô thị, 1984), 
Bret Easton Ellis với Less Than Zero (Nhỏ hơn số không, 1985) 
và Tama Janowits với Slaves of New York (Nô lệ của New York, 
1986).
John Gardner 
(1933-1982)
 
John Gardner xuất thân từ một nhà nông ở bang New York,
 là người phát ngôn quan trọng nhất cho những giá trị đạo đức trong văn 
học cho đến khi cái chết đã chấm dứt cuộc sống khá ngắn ngủi của ông 
bằng một tai nạn môtô. Ông là giáo sư văn học Anh chuyên về giai đoạn 
Trung đại. Cuốn tiểu thuyết Grendel (1971) nổi tiếng nhất của 
ông kể lại sử thi cổ đại Anh về Beowulf nhìn từ góc độ hiện sinh của con
 quái vật. Cuốn tiểu thuyết ngắn gọn, sinh động và thường vang lên tiếng
 cười trào lộng này là một cuộc tranh luận tinh tế chống lại chủ nghĩa 
hiện sinh đã dồn các nhân vật của nó vào nỗi tuyệt vọng tự hủy diệt và 
một thái độ khuyển nho, yếm thế. 
Là một nhà văn sung sức và hết 
sức nổi tiếng, Gardner sáng tác theo phương pháp hiện thực nhưng lại sử 
dụng các kỹ thuật mới mẻ như hồi tưởng, truyện trong truyện, kể lại các 
huyền thoại và những câu chuyện tương phản - để phát hiện chân lý về 
tình cảnh của con người. Sức mạnh của ông chính là sự đặc trưng hóa (đặc
 biệt là trong những bức chân dung đầy cảm thông về những con người bình
 thường) và phong cách đa dạng.
Những tác phẩm lớn của ông gồm The
 Resurrection (Phục sinh - 1966), The Sunlight Dialogues (Cuộc
 đối thoại dưới ánh mặt trời - 1972), Nickel Mountain (Núi 
Nickel - 1973), October Light (Ánh sáng tháng Mười - 1976) và Mickenson’s
 Ghosts (Những bóng ma của Mickenson - 1982).
Các kiểu tiểu 
thuyết của Gardner gợi tả cái sức mạnh trị liệu của tình bằng hữu, bổn 
phận và trách nhiệm gia đình và xét theo ý nghĩa này, Gardner là một tác
 giả bảo thủ và truyền thống hết sức sâu sắc. Ông đã cố gắng chứng minh 
rằng một số hành động và các giá trị nhất định sẽ dẫn đến một cuộc sống 
viên mãn. Cuốn tiểu thuyết của ông On Moral Fiction (Tưởng 
tượng đạo lý - 1978) kêu gọi tiểu thuyết nên chuyển tải những giá trị 
đạo đức hơn là lòe bịp độc giả với những cách tân kỹ thuật trống rỗng. 
Cuốn sách đã gây nên một làn sóng phẫn nộ, chủ yếu bởi vì Gardner đã phê
 phán thẳng thừng những cây cao bóng cả trong làng văn đương đại đã thất
 bại trong việc phản ánh những mối quan tâm đạo đức.
Toni Morrison 
(1931 - ) 
Nữ
 văn sĩ người Mỹ gốc Phi Toni Morrison sinh ở bang Ohio trong một gia 
đình gia phong mà mối quan tâm chính là những giá trị tinh thần. Bà theo
 học Đại học Howard ở thủ đô Washington, là biên tập cao cấp của một nhà
 xuất bản lớn ở Washington và là giáo sư nổi tiếng của nhiều trường đại 
học. 
Tiểu thuyết đan kết phong phú của Morrison làm cho bà nổi 
tiếng thế giới. Trong những cuốn tiểu thuyết phóng khoáng và cuốn hút 
của mình bà đã xử lý những tính cách phức tạp của người Da đen bằng một 
cách thức phổ quát. Trong tác phẩm đầu tay The Bluest Eye (Mắt 
biếc - 1970) của bà, một cô gái Da đen trẻ giàu nghị lực đã kể lại câu 
chuyện về Pecola Breedlove, người rốt cuộc đã trốn thoát cuộc sống với 
một ông bố cục súc, thô bạo. Pecola tin rằng đôi mắt đen của cô đã biến 
thành màu xanh da trời một cách kỳ diệu và chúng làm cô trở nên dễ 
thương hơn. Morrison có nói rằng bà đã sáng tạo nên cái ý thức về diện 
mạo văn học riêng của riêng bà với tư cách là một nhà văn qua cuốn tiểu 
thuyết này “Tôi là Pecola, là Claudia, là mọi người”. 
Tác phẩm Sula
 (1973) miêu tả tình bạn thắm thiết mặn nồng giữa hai người phụ nữ. 
Morrison khắc họa phụ nữ Mỹ gốc Phi như là những nhân vật đầy cá tính, 
đơn nhất hơn là những con người điển hình. Cuốn Song of Solomon
 (Bài ca của Solomon) của Morrison viết vào năm 1977 đã nhận được nhiều 
giải thưởng. Nó tái hiện cuộc đời của một người Da đen tên là Milkman 
Dead và những mối quan hệ phức tạp của anh ta với gia đình và cộng đồng 
Da đen. Trong cuốn Tar Baby (Bé con - 1981) Morrison khai thác 
các vấn đề của mối quan hệ giữa người Da trắng và người Da đen. Beloved
 (1987) là một câu chuyện về nỗi thống khổ của một người đàn bà thà giết
 chết những đứa con mình còn hơn là để chúng sống như những kẻ nô lệ. 
Cuốn tiểu thuyết sử dụng những kỹ thuật như trong một giấc mơ của chủ 
nghĩa hiện thực huyền bí trong việc phác họa một nhân vật huyễn hoặc, 
Beloved, cô gái trở lại sống với người mẹ đã cắt cổ mình.
Morrison
 cho rằng mặc dầu các tiểu thuyết của bà thuần túy là những tác phẩm 
nghệ thuật hoàn hảo, chúng vẫn chứa đựng những ý nghĩa chính trị: “Tôi 
không quan tâm đến việc nuông mình trong những tưởng tượng riêng tư... 
Vâng, một tác phẩm nghệ thuật phải có ý nghĩa chính trị”. Năm 1993, 
Morrison được trao giải Nobel văn chương.
Alice
 Walker 
(1944- ) 
Alice Walker là một người 
Mỹ Da đen và là con của một gia đình nhà nông ăn chia theo mùa vụ ở vùng
 thôn quê Georgia. Bà tốt nghiệp Đại học Sarah Lawrence, nơi có một 
trong những người thầy của bà là nữ thi sĩ có khuynh hướng làm chính 
trị, bà Muriel Rukeyser. Những người khác có ảnh hưởng đến sự nghiệp văn
 chương của bà là Flannery O’Connor và Zora Neale Hurston.
Là một 
nhà văn “rất nữ tính” như bà tự nhận; Walker từ lâu đã rất gắn bó với 
phong trào đòi quyền bình đẳng cho phụ nữ, bà trình bày về sự hiện hữu 
của người Da đen dưới cái nhìn của người phụ nữ. Cũng như Toni Morrison,
 Jamaica Kincaid, Toni Cade Bambara và các tác giả Da đen đương đại 
thành công khác, Walker sử dụng chủ nghĩa hiện thực trữ tình ở trình độ 
nghệ thuật cao để phản ánh về những giấc mơ và thất bại của những con 
người đáng tin cậy có thực. Tác phẩm của bà khắc họa đậm nét cuộc tìm 
kiếm phẩm giá trong đời người. Bà là một nhà văn có văn phong rất mực 
tinh tế, mượt mà đặc biệt thể hiện trong cuốn tiểu thuyết mang phong 
cách ngôn ngữ thánh thư The Color Purple (Màu tím), tác phẩm 
của bà có ý hướng giáo dục. Ở điểm này, Walker cũng giống như một tiểu 
thuyết gia Mỹ đen khác là Ishmael Reed, tác giả của những tác phẩm trào 
phúng phơi bày những vấn đề chủng tộc và xã hội.
The Color 
Purple của Walker là một câu chuyện về tình yêu giữa hai chị em 
người Da đen sống sót sau những tháng năm xa cách. Gắn bó với câu chuyện
 này, bằng một cách nào đó trong cùng một thời điểm là việc một trong 
hai chị em, một cô gái xấu xí, nhút nhát và thất học khám phá ra sức 
mạnh tiềm tàng của mình nhờ sự giúp đỡ của một người bạn gái. Chủ đề về 
sự nâng đỡ giữa những người phụ nữ gợi nhớ tiểu sử tự thuật của Maya 
Angelou I Know Why the Caged Bird Sings ( Tôi biết vì sao chim 
hót trong lồng - 1970) ngợi ca tình cảm giữa mẹ và con gái và tác phẩm 
của các nhà văn Da trắng ủng hộ phong trào phụ nữ như Adrienne Rich. The
 Color Purple mô tả đàn ông như là những con người về căn bản không
 nhận thức được nhu cầu và sự hiện diện thực tế của người phụ nữ. 
Những
 năm cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90 chứng kiến sự kiện ngoạn mục 
các tác phẩm của các cộng đồng ít người trở thành một bộ phận quan trọng
 trong văn đàn Mỹ. Điều này cũng xảy ra với sân khấu cũng như văn xuôi. 
August Wilson - người vẫn tiếp tục sáng tác và chứng kiến hàng loạt vở 
kịch của mình về cuộc đời người Da đen ở thế kỷ 20 được đưa lên sân khấu
 (trong đó có những vở đoạt giải Pulitzer như Fences (Rào cản -
 1986) và The Piano Lesson (Bài học dương cầm – 1989) và tạo 
được chỗ đứng cho mình bên cạnh các tiểu thuyết gia nổi tiếng như Alice 
Walker, John Edgar Wideman và Toni Morrison.
Các nhà văn Mỹ gốc 
châu Á cũng chiếm lĩnh vị trí của họ trên văn đàn: Maxine Hong Kingston 
với The Woman Warrior (Nữ chiến binh, 1976) đã mở ra một con 
đường cho các nhà văn nữ gốc châu Á của bà. Trong số họ có Amy Tan, tác 
giả của những tác phẩm sáng chói về cuộc sống của người Hoa di cư sang 
Mỹ sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai như cuốn The Joy Luck Club 
(Phúc lạc hội, 1989) và cuốn The Kitchen God’s Wife (Vợ ông đầu
 rau, 1991) chinh phục được đông đảo bạn đọc. Còn David Henry Hwang con 
của một gia đình người Hoa sinh ra ở California đã làm nên tên tuổi của 
mình trong làng kịch nghệ với những vở kịch như là F.O.B (Giao hàng lên 
tàu - 1981) và M. Butterfly (Ông Butterfly - 1986).
Một 
nhóm các nhà văn khá mới mẻ xuất hiện trên chân trời văn học là những 
tác gia gốc Nam Mỹ, gồm tiểu thuyết gia gốc Cuba đoạt giải Pulitzer mang
 tên Oscar Hijuelos, tác giả cuốn The Mambo Kings Play Songs of Love
 (Các ông vua Mambo chơi nhạc tình yêu - 1989); nhà văn chuyên viết 
truyện ngắn Sandra Cisneros (Women Hollering Creek and Other Stories
 - Chuyện phụ nữ - 1991)[8] và Rudolfo Anaya, tác giả của cuốn Bless
 Me, Ultima (Phù hộ cho tôi, Ultima) bán được 300.000 bản chủ yếu ở
 miền Tây nước Mỹ.
VĂN HỌC PHONG CÁCH ĐỊA PHƯƠNG MỚI
Chẳng
 có gì mới mẻ về truyền thống văn học địa phương trong văn chương Mỹ. Nó
 cũng xa xưa như những truyền thuyết của người Da đỏ, cũng khơi gợi trí 
tưởng tượng như các tác phẩm của James Fenimore Cooper và Bret Harte, 
cũng nhiều âm vang như tiểu thuyết của William Faulkner và các vở kịch 
của Tennessee Williams. Mặc dầu vậy, có một thời, vào khoảng sau Chiến 
tranh thế giới thứ II, truyền thống đó dường như biến mất trong bóng 
chập choạng của thời đại - trừ phi người ta nhận định, mà có lẽ là rất 
đúng, rằng tiểu thuyết về đô thị cũng là một dạng của chủ nghĩa địa 
phương. Tuy nhiên, trong thập kỷ vừa qua hay vào khoảng ấy, văn học địa 
phương đã thực hiện một sự trở về ngoạn mục, vang dội trong nền văn học 
Mỹ khiến cho độc giả có ý thức về không gian cũng như là có ý thức về 
thời gian và thân phận con người. Và nó cũng trở nên thịnh hành trong 
các thể loại tiểu thuyết phổ biến như là truyện trinh thám chẳng hạn, 
cũng như trong văn học cổ điển với tiểu thuyết, truyện ngắn và kịch nói.
 
Ở đây có một vài lý do khả dĩ cho sự tái xuất hiện này. Cái 
chính là, tất cả các loại hình nghệ thuật ở Mỹ đã trở nên phi tập trung 
trong các thế hệ qua. Sân khấu, âm nhạc, múa có xu hướng phát triển mạnh
 ở các vùng đô thị ở miền Nam, Tây Nam và Tây Bắc nước Mỹ cũng như những
 thành phố lớn như New York và Chicago. Các công ty điện ảnh làm phim 
trên khắp đất Mỹ hoặc vô số nơi khác. Văn học Mỹ cũng vậy. Các nhà xuất 
bản nhỏ hơn tập trung vào tiểu thuyết đua nở rực rỡ bên ngoài “dãy phố 
xuất bản” của thành phố New York. Các cuộc hội thảo và hội nghị của các 
nhà văn trở thành mốt thời thượng hơn bao giờ hết, trong khi các lớp dạy
 viết văn và học văn cũng trở thành cơn sốt ở khắp các trường đại học 
trong nước. Chẳng có gì lạ khi các tài năng chớm nở có thể khai hoa bất 
cứ ở đâu. Tất cả những cái mà người ta cần để viết văn chỉ là một cây 
bút chì, giấy và quan điểm.
Những nét khỏe khoắn, thanh tân nhất 
của trào lưu văn học địa phương mới là sự bành trướng và đa dạng của nó.
 Nó tràn qua khắp nước Mỹ từ Đông sang Tây. Một cuộc hành trình văn học 
xuyên suốt lục địa được bắt đầu ở vùng Đông Bắc ở Albany, New York với 
trung tâm điểm của sự chú ý là người con của vùng đó, William Kennedy, 
đã một thời là nhà báo. Kennedy, tác giả của những tiểu thuyết về Albany
 trong số đó có các tiểu thuyết Ironweed (1983) và Very Old
 Bones (Chuyện rắc rối cũ rích - 1992) là bức tranh ảm đạm về cuộc 
sống của các cư dân ở các phố chợ và các quán rượu ở thủ phủ của bang 
New York.
Là một nhà văn viết tiểu thuyết, viết truyện ngắn, viết 
tiểu luận và cũng làm thơ rất sung mãn, giàu sức sáng tạo, Joyce Carol 
Oates cũng xuất thân từ vùng Đông Bắc nước Mỹ. Trong các tác phẩm đáng 
nhớ của bà, nỗ lực của các nhân vật bị ám ảnh phải đạt cho được thành 
công trong những môi trường méo mó kỳ cục của họ cuối cùng đã dẫn họ đến
 sự hủy hoại. Những tác phẩm hay nhất của bà được tuyển chọn trong các 
tuyển tập như là The Wheel of Love (Bánh xe của tình yêu 1970) 
và Where Are you Going, Where Have You Been? (Anh đi đâu, anh ở
 đâu? - 1974). Stephen King, bậc thầy của thể loại tiểu thuyết kinh dị 
bán chạy, thường lấy bối cảnh cho các tác phẩm kinh dị của ông tại Maine
 - trong cùng một khu vực. Xuôi theo ven biển, trong vùng phụ cận 
Baltimore bang Maryland, nhà văn Anne Tyler trình bày bằng cái giọng 
giản dị, điềm tĩnh về những cuộc đời phi thường và những nhân vật kiệt 
xuất. Những tiểu thuyết như Dinner at the Homesick Restaurant 
(Ăn tối ở nhà hàng Nhớ nhà - 1982), The Accidental Tourist (Người
 du khách bất ngờ - 1985), Breathing Lessons (Bài học hô hấp - 
1988) và Saint Maybe (Thánh có thể - 1991) đã làm tên tuổi của 
bà vang dội trong làng văn và trong lòng công chúng rộng rãi.
Cách
 Baltimore không xa là thủ đô Washington cũng có truyền thống văn học 
của riêng mình, nếu không muốn nói là một dòng văn học còn giấu mình 
trong bóng tối ở giữa cái thành phố mà mối quan tâm chủ yếu là chính 
trị. Trong số những nhà văn vẽ được những bức tranh rõ ràng về cuộc sống
 ở trong và vành ngoài guồng máy chính phủ và quyền lực của đất nước, có
 tiểu thuyết gia Ward Just - một cựu phóng viên quốc tế đã theo đuổi sự 
nghiệp thứ hai của mình là viết về cái thế giới mà anh biết từng chân tơ
 kẽ tóc: thế giới của các phóng viên báo chí, các chính trị gia, các nhà
 ngoại giao, và giới binh nghiệp. Cuốn sách Nicholson at Large (Nicholson
 tự do - 1975) một khảo cứu về giới làm báo trong và sau nhiệm kỳ của 
tổng thống John F. Kenedy vào đầu những năm 1960, In the City of 
Fear (Ở thành phố của nỗi sợ hãi - 1982) một phác thảo về 
Washington trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam; và Jack Gane (1989),
 một cái nhìn tỉnh táo về một chính khách Chicago và sự thăng tiến của 
ông ta đến chức vụ Thượng nghị sĩ Mỹ, là vài cuốn tiểu thuyết trong số 
những tác phẩm gây ấn tượng của Ward Just.
Cuốn truyện Children
 of Power (Con cái của giới quyền lực - 1979) của Susan Richards 
Shreve mổ xẻ cuộc sống riêng tư của nhóm con cái của các quan chức chính
 phủ, trong khi tiểu thuyết gia nổi tiếng Tom Clancy, một công dân bang 
Maryland đã dùng bối cảnh của giới chính trị - quân sự ở Washington làm 
bệ phóng cho một loạt các câu chuyện ly kỳ mang tính sử thi hoành tráng 
của ông.
Hướng về phía Nam, Reynolds Price và Jill McCorkle xuất 
hiện trong tầm nhìn của chúng ta. Price, chính là bậc thầy của Tyler, đã
 được một nhà phê bình mô tả hồi thập niên 70 là giữ một vị trí lỗi thời
 của “nhà văn nội trú miền Nam”[9]. Ông gây được sự chú ý của dư luận lần 
đầu tiên với cuốn A Long and Happy Life (Một cuộc đời dài lâu 
và hạnh phúc - 1962) đề cập con người và mảnh đất về miền Đông bang Bắc 
Carolina và đặc biệt là nhân vật nữ trẻ tuổi tên là Rosacoke Mustian. 
Ông tiếp tục viết những câu chuyện về nữ nhân vật này nhiều năm sau đó, 
rồi lại chuyển mối quan tâm của ông sang các chủ đề khác trước khi quay 
trở lại với người phụ nữ này trong tác phẩm Kate Vaiden (1986) 
khá nổi tiếng - tác phẩm duy nhất viết ở ngôi thứ nhất. Tác phẩm mới 
nhất của Price, Blue Calhoun (Ông Calhoun sầu muộn - 1992) khám
 phá ảnh hưởng của một cuộc tình say đắm, định mệnh qua nhiều thập kỷ 
trong đời sống của một gia đình.
McCorkle sinh năm 1958 và vì vậy 
là đại biểu cho thế hệ các nhà văn mới đã sáng tác các tiểu thuyết và 
truyện ngắn của cô trong bối cảnh là những thị trấn nhỏ của bắc 
Carolina, để khám phá những bí ẩn của tuổi vị thành niên (Cuốn The 
Cheer Leader - Người xướng giọng hoan hô - 1984), những mối ràng 
buộc giữa các thế hệ (trong cuốn Tending to Virginia - Hướng về
 Virginia - 1987) và đặc biệt là sự nhạy cảm của phụ nữ miền Nam hiện 
đại (Crash Diet - Ăn kiêng bằng mọi giá - 1992).
Một nhà 
văn cũng của vùng đó là Pat Conroy, tác giả của những cuốn tiểu thuyết 
mang tính tự thuật đầy kích thích về tuổi thơ của ông lớn lên ở nam 
Carolina và người cha độc đoán, thô bạo của mình (Trong cuốn The 
Great Santini - Santini vĩ đại - 1976) và The Prince of Tides (Ông
 hoàng của các trào lưu - 1986). Đó là những cuốn truyện đầy ý thức về 
vẻ đẹp thiên nhiên của vùng đất trũng ở bang Nam Carolina. Shelby Foote,
 một người dân vùng Mississippi sống ở Memphis bang Tennessee một thời 
gian dài, là nhà viết biên niên sử lâu năm của miền Nam. Những cuốn tiểu
 thuyết và lịch sử của ông đã đem lại cho ông một vai diễn trong một 
loạt phim truyền hình thành công về thời kỳ Nội chiến.
Vùng trung 
tâm của nước Mỹ ấp ủ trong lòng nó rất nhiều tài năng văn chương, trong 
số đó có Jane Smiley, một giáo sư dạy viết văn ở Đại học bang Iowa. 
Smiley đoạt giải thưởng Pulitzer năm 1992 về tiểu thuyết cho cuốn A 
Thousand Acres (Một ngàn mẫu đất - 1991), một tiểu thuyết đã chuyển
 Vua Lear của Shakespeare đến một nông trại ở miền Trung Tây nước Mỹ và 
ghi lại mối xung đột gia đình hết sức cay đắng lại bùng lên khi ông chủ 
nông trại già nua quyết định giao lại đất đai của mình cho ba cô con 
gái.
Người viết biên niên sử của bang Texas - Larry McMurtry đặc 
tả tiểu bang quê hương của mình cùng với đời sống tình cảm của nó ở 
nhiều thời điểm khác nhau từ miền Tây đã biến mất ở thế kỷ 19 (Trong Lonesome
 Dove - Bồ câu cô đơn - 1985) đến sự bốc hơi của những thị trấn nhỏ
 thời hậu chiến (The Last Picture Show - Triển lãm tranh lần 
cuối - 1966). 
Cormac McCarthy, phản ánh những cuộc chinh phục các
 sa mạc ở vùng Tây Nam nước Mỹ trong các cuốn tiểu thuyết Blood 
Meridian (Đường kinh tuyến máu - 1985) và Anything for Billy (Bất
 cứ thứ gì dành cho Billy - 1998), All The Pretty Horses (Tất 
cả những con ngựa đẹp - 1992) và The Crossing (Vượt tuyến - 
1994) là một nhà văn có cuộc sống ẩn dật nhưng đặc biệt giàu trí tưởng 
tượng, cũng mới nhận được sự chú ý của dư luận. Được giới nghiên cứu 
công nhận là người thừa kế đúng mực của truyền thống văn học Gothic miền
 Nam, McCarthy đã để cho tính chất hoang sơ của vùng đất này mê hoặc 
cũng như là ông đã bị cuốn hút bởi sự man rợ của con người và những điều
 bất trắc.
Lấy phong cảnh tuyệt đẹp của quê hương New Mexico làm 
bối cảnh cho tiểu thuyết Ceremony (Nghi lễ - 1977) vốn được 
giới phê bình đánh giá rất cao, nữ văn sĩ người Mỹ - Da đỏ Leslie Marmon
 Silko đã mê hoặc được đông đảo bạn đọc. Giống như cuốn tiểu thuyết giàu
 chất thơ của N. Scott Momaday The Way to Rainy Mountain (Đường
 đi đến núi Mưa - 1969), Ceremony là một cuốn “tiểu thuyết đầy nhạc 
tính” được cấu trúc trên nền các nghi thức chữa bệnh của người Da đỏ. 
Một cuốn tiểu thuyết khác của Silko, cuốn The Almanac of the Dead (Niên
 lịch của người chết - 1991) là bức tranh toàn cảnh vùng Tây Nam từ 
những cuộc di dân của các bộ lạc cổ xưa cho đến những tên buôn lậu ma 
túy và những nhà đầu tư bất động sản vô lương tâm đồi bại sử dụng đất 
đai để kiếm lợi nhuận cho riêng mình. Nhà văn viết truyện hình sự bán 
rất chạy Tony Hillerman sống ở Santa Fe bang New Mexico cũng viết về 
vùng đất Tây Nam này của nước Mỹ, chọn hai viên cảnh sát Navajo siêng 
năng, khiêm tốn làm nhân vật chính.
Về phía Bắc, ở bang Montana, 
nhà thơ James Welch đặc tả cuộc vật lộn của người Mỹ Da đỏ để thoát khỏi
 cuộc sống gian khổ khắc nghiệt trong khu bảo tồn, một cuộc sống ngập 
ngụa trong rượu chè và đói nghèo, trong những tác phẩm ngắn gọn hầu như 
toàn bích của ông như Winter in the Blood (Mùa đông máu lửa - 
1974), The Dead of Jim Loney (Xác chết của Jim Loney - 1979), Fools
 Crow (Bọn ngốc nghếch huênh hoang - 1986) và The Indian Lawyer
 (Luật sư Da đỏ - 1990). Một nhà văn khác là đồng hương của James 
Welch là Thomas McGuane, tác giả của những cuốn tiểu thuyết luôn luôn 
tập trung vào những vấn đề của đàn ông như Ninety-Two in the Shade (Chín
 hai độ trong bóng râm - 1973) và Keep the Change (Hãy giữ lấy 
tiền lẻ - 1989) kể lại giấc mơ về những cội nguồn trong lúc đã bị xa lìa
 nguồn cội. Louise Erdrich, có một phần dòng máu của bộ lạc Da đỏ 
Chippewa thì cho ra đời một loạt tiểu thuyết về tiểu bang láng giềng với
 Montana là Bắc Dakota. Trong những tác phẩm như Love Medicine 
(Thuốc yêu - 1984) bà đã miêu tả sâu sắc cuộc sống rối rắm của các gia 
đình không còn đủ chức năng ở các khu vực bảo tồn bằng một sự hòa trộn 
đau xót giữa chủ nghĩa khắc kỷ và tính trào lộng. 
Có hai nhà văn 
điển hình cho vùng Viễn Tây trong một thời kỳ. Một người là Wallace 
Stegner quá cố, sinh năm 1909 ở vùng Trung Tây và chết trong một tai nạn
 xe cộ vào năm 1993. Stegner phiêu bạt đó đây ở miền Tây trong suốt cuộc
 đời, ông có được một tri kiến về bản sắc địa phương thậm chí còn trước 
khi nó trở thành thời thượng. Tác phẩm lớn nhất của ông The Big Rock
 Candy Mountain (Núi kẹo đá lớn - 1943) kể lại lịch sử một dòng họ 
ấp ủ giấc mơ Mỹ bởi cái vẻ ngoài cám dỗ của miền Tây vào cái lúc mà 
đường biên giới hầu như biến mất. Câu chuyện trải ra khắp nước Mỹ, từ 
tiểu bang Minesota đến tiểu bang Washington, và những mối quan tâm của 
nó, như Stegner đã nêu là “vùng đất của những vẻ đẹp phi phàm đã lôi kéo
 cả đất nước đi về phía Tây”. Tác phẩm đoạt giải Pulitzer của ông (Angle
 of Repose - 1971) chan chứa tinh thần của vùng đất trong bức chân 
dung về một nữ văn sĩ và họa sĩ minh họa của miền Tây xưa. Trong thực 
tế, sức mạnh trong ngòi bút của ông chính là những nét điển hình hóa, 
cũng như là sự gợi tả sâu sắc về sự khắc nghiệt của cuộc sống miền Viễn 
Tây.
Joan Didion, vừa viết báo vừa viết tiểu thuyết là người có 
tầm tưởng tượng rất xa trong những năm gần đây, đã đặt bản đồ California
 hiện thời vào bộ sách của bà vào năm 1968 Slouching Toward 
Bethlehem (Lê bước về Bethlehem[10]) và trong một cuốn tiểu thuyết hết sức 
sắc sảo, gây chấn động của bà về tính vô mục đích của màn ảnh Hollywood,
 cuốn Play It As It Lays (Chơi y như đã sắp xếp - 1970).
Vùng
 Tây Bắc Thái Bình Dương, một trong những vùng đất khá màu mỡ về văn học
 nghệ thuật trong toàn cảnh văn hóa vào đầu những năm 90, đã sản sinh ra
 Raymond Carver, một cây viết truyện ngắn xuất sắc. Carver chết một cách
 bi thảm vào năm 1988 ở tuổi 50, chẳng bao lâu sau khi ông nổi tiếng 
trên làng văn. Văn của ông là tấm gương phản chiếu thái độ và quan điểm 
của giai cấp lao động sống trong vùng của ông trong những tuyển tập như What
 We Talk About When We Talk About Love (Chúng tôi nói gì khi chúng 
tôi bàn về tình yêu - 1974) và Where I’m Calling From (Tôi đang
 gọi từ đâu - 1986). Trong những truyện ngắn này ông đã đặt các nhân vật
 của mình vào khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp mà phần lớn vẫn còn giữ 
nguyên cái vẻ trinh nguyên của nó.
Thành công của trào lưu sân 
khấu địa phương - các công ty có tôn chỉ nâng cao chất lượng nghệ thuật 
một cách vô vụ lợi đã trở thành các địa điểm của nền văn hóa đương đại ở
 hết thành phố này đến thành phố khác khắp trên nước Mỹ. Từ những năm 
đầu thập niên 60, những cơ sở này đã bồi dưỡng và đào tạo nên những tài 
năng soạn kịch trẻ tỏa sáng rực rỡ trong sân khấu hiện đại. Người ta tự 
hỏi văn chương và sân khấu của Mỹ ngày nay sẽ ra sao nếu thiếu đi cái xã
 hội tan vỡ thành nhiều mảnh, sáng chói và những mối quan hệ tàn bạo của
 nó với Sam Shepard (trong Buried Child - Đứa trẻ bị chôn vùi -
 1979); A Lie of the Mind (Lời nói dối của tâm trí - 1985); 
những nhân vật vô đạo và những lời thoại rời rạc gây kinh hoàng của nhà 
soạn kịch Chicago, David Mamet (trong American Buffalo - Trâu 
rừng Bắc Mỹ - 1976); Glengarry Glen Ross (1982); sự thâm nhập 
của các giá trị truyền thống vào cuộc sống miền Trung Tây và những mối 
bận tâm được phản ánh trong tác phẩm của Lanford Wilson (5th
 of July - Ngày 5 tháng 7 - 1978; Talley’s Folly - Sự ngu 
xuẩn của Talley - 1979) và phong cách lập dị miền Nam của Beth Henley 
(trong Crimes of the Heart - Trái tim tội lỗi - 1979).
Văn
 học Mỹ đã trải qua một con đường dài, quanh co từ buổi đầu thành lập 
thuộc địa cho đến nay. Xã hội, dòng lịch sử, và sự phát triển khoa học 
kỹ thuật, tất cả đều có tác động mạnh đến nó. Mặc dầu vậy, rốt cuộc vẫn 
có một điều vĩnh hằng đó là con người, với tất cả vẻ đẹp rực rỡ và xấu 
xa của nó, với những truyền thống và điều hứa hẹn của nó. 
[1] Cuốn truyện này xoay quanh nhân vật phản diện John
 Sossarian, một sĩ quan đồn trú ở một sân bay tại một hòn đảo ở Địa 
Trung Hải trong Chiến tranh Thế giới Thứ hai. Tác phẩm khắc họa những nỗ
 lực tuyệt vọng của anh ta để sống sót. Từ Catch trong Catch - 22, liên 
quan đến một điều lệ bí mật của không quân cho rằng một phi công cho là 
mất trí nếu anh ta sẵn lòng thực hiện một chuyến bay nguy hiểm. Nhưng 
nếu anh ta chính thức yêu cầu được rút khỏi nhiệm vụ này thì điều đó có 
nghĩa là anh ta còn tỉnh táo và không đủ tư cách để được cứu trợ. Tựa đề
 của cuốn sách đã góp mặt trong từ vựng tiếng Anh như một ám chỉ đến 
tiền đề của những chuyến đi không có ngày về.
[2] Vở kịch này đã được dịch ra tiếng Việt và trình 
diễn trên các sân khấu ở ta.
[3] Crucible: còn có nghĩa là nồi nấu kim loại (của 
những người hành nghề phù thủy).
[4] On the Road dõi theo bước đường rong ruổi của hai 
nhân vật chính “Sal Paradise” và “Dean Moriarty”, trên lục địa Bắc Mỹ, 
suốt từ bờ biển phía Đông sang bờ biển phía Tây và đến Mexico. Trên 
những nẻo đường này họ thoát khỏi những bổn phận nhàm chán, tự do với 
mọi thứ đàn bà, âm nhạc, rượu và những cuộc đàm luận. Chúng tôi dịch 
thoát tựa sách này thành Trên con đường tự do.
[5] Cuốn truyện kể về tiểu thuyết gia Ken Kesey từng 
có biệt danh là “Chàng trai vàng”, một trong những tiểu thuyết gia hàng 
đầu trong thế hệ của ông, ngoài ra ông còn là một nhà bác học, một nghệ 
sĩ một siêu sao trong thể thao. Ken đã dẫn đầu một nhóm hippy đi khắp 
nước Mỹ trong một chiếc xe buýt vào đầu những năm 60. Electric Kool - 
Aid còn được gọi là LSD, một loại ma túy gây ra ảo giác. 
[6] Virginia Woolf (1882 - 1941): nữ nhà văn Anh có 
những cống hiến đặc biệt cho thể loại tiểu thuyết và đồng thời là một 
nhà phê bình văn học xuất sắc. 
[7] Entropy: có nghĩa là tình trạng trơ lì đồng nhất 
của vũ trụ hoặc sự suy tàn dẫn tới hủy hoại mọi hình thức, kiểu mẫu và 
khác biệt.
[8] Women Hollering Creek and Other Stories là một 
tuyển tập truyện ngắn về các cảnh đời của phụ nữ ở hai bên đường biên 
giới Mexico. Phụ nữ trong các truyện ngắn này kể về những khám phá đầy 
thú vị bất ngờ với một sự khôn ngoan kín đáo. Chúng tôi xin tạm dịch là 
Chuyện phụ nữ.
[9] Nhà văn nội trú (Writer Inresidence): nhà văn ăn ở
 tại cơ sở (trường đại học hoặc cộng đồng) được trả lương để họ làm việc
 tại đó một thời gian. Chúa Jesus Christ sinh ra ở Bethlehem.
[10] Chúa Jesus Christ sinh ra ở Bethlehem.
[1] Cuốn truyện này xoay quanh nhân vật phản diện John
 Sossarian, một sĩ quan đồn trú ở một sân bay tại một hòn đảo ở Địa 
Trung Hải trong Chiến tranh Thế giới Thứ hai. Tác phẩm khắc họa những nỗ
 lực tuyệt vọng của anh ta để sống sót. Từ Catch trong Catch - 22, liên 
quan đến một điều lệ bí mật của không quân cho rằng một phi công cho là 
mất trí nếu anh ta sẵn lòng thực hiện một chuyến bay nguy hiểm. Nhưng 
nếu anh ta chính thức yêu cầu được rút khỏi nhiệm vụ này thì điều đó có 
nghĩa là anh ta còn tỉnh táo và không đủ tư cách để được cứu trợ. Tựa đề
 của cuốn sách đã góp mặt trong từ vựng tiếng Anh như một ám chỉ đến 
tiền đề của những chuyến đi không có ngày về.
[2] Vở kịch này đã được dịch ra tiếng Việt và trình 
diễn trên các sân khấu ở ta.
[3] Crucible: còn có nghĩa là nồi nấu kim loại (của 
những người hành nghề phù thủy).
[4] On the Road dõi theo bước đường rong ruổi của hai 
nhân vật chính “Sal Paradise” và “Dean Moriarty”, trên lục địa Bắc Mỹ, 
suốt từ bờ biển phía Đông sang bờ biển phía Tây và đến Mexico. Trên 
những nẻo đường này họ thoát khỏi những bổn phận nhàm chán, tự do với 
mọi thứ đàn bà, âm nhạc, rượu và những cuộc đàm luận. Chúng tôi dịch 
thoát tựa sách này thành Trên con đường tự do.
[5] Cuốn truyện kể về tiểu thuyết gia Ken Kesey từng 
có biệt danh là “Chàng trai vàng”, một trong những tiểu thuyết gia hàng 
đầu trong thế hệ của ông, ngoài ra ông còn là một nhà bác học, một nghệ 
sĩ một siêu sao trong thể thao. Ken đã dẫn đầu một nhóm hippy đi khắp 
nước Mỹ trong một chiếc xe buýt vào đầu những năm 60. Electric Kool - 
Aid còn được gọi là LSD, một loại ma túy gây ra ảo giác. 
[6] Virginia Woolf (1882 - 1941): nữ nhà văn Anh có 
những cống hiến đặc biệt cho thể loại tiểu thuyết và đồng thời là một 
nhà phê bình văn học xuất sắc. 
[7] Entropy: có nghĩa là tình trạng trơ lì đồng nhất 
của vũ trụ hoặc sự suy tàn dẫn tới hủy hoại mọi hình thức, kiểu mẫu và 
khác biệt.
[8] Women Hollering Creek and Other Stories là một 
tuyển tập truyện ngắn về các cảnh đời của phụ nữ ở hai bên đường biên 
giới Mexico. Phụ nữ trong các truyện ngắn này kể về những khám phá đầy 
thú vị bất ngờ với một sự khôn ngoan kín đáo. Chúng tôi xin tạm dịch là 
Chuyện phụ nữ.
[9] Nhà văn nội trú (Writer Inresidence): nhà văn ăn ở
 tại cơ sở (trường đại học hoặc cộng đồng) được trả lương để họ làm việc
 tại đó một thời gian. Chúa Jesus Christ sinh ra ở Bethlehem.
[10] Chúa Jesus Christ sinh ra ở Bethlehem.
