Tuyển tập thơ Chẹc Chẹc của Nguyễn Đình Chính
Tập thơ Chẹc chẹc của Nguyễn Đình Chính gồm những bài thơ nhả
đầy tiếng liên thanh, tiếng văng tục đường phố, tiếng chắc lưỡi về thời
thế ngày hôm nay trên đất nước VN, chấm dứt bởi bài “Thông điệp hoa
hồng” nhen nhúm hi vọng.
Là con trai của nhà văn cách mạng nổi tiếng Nguyễn Đình Thi, anh nhập
ngũ Quân Đội Nhân Dân miền Bắc lúc anh 18. Nơi luyện quân là rừng già
dưới núi Yên Tử, Quảng Ninh, cách Hà Nội 125 cây số, nơi thờ vị vua ở
thế kỷ 13 Trần Nhân Tông. Trong nguyên tắc và thực hành, tinh thần hòa
giải và cầu hòa của vị vua này, người từng đánh bại quân Mông Cổ, rồi từ
ấn về Yên Tử lập ra phái Thiền gọi là Trúc Lâm Yên Tử, hiện đang được
đại học Harvard cẩn trọng nghiên cứu. Có lẻ lòng từ bi của vị vua đã độ
trì người lính trẻ qua cuộc chiến tàn khốc. Đơn vị của anh lâm trận với
các đơn vị Mỹ hùng mạnh, bị tổn thất nặng nề. Nhưng anh sống sót và chỉ
bị thương.
Khi cuộc chiến chấm dứt năm 1975, người chiến binh quay về nhà. Trong mười năm tiếp theo, những chính sách kinh tế và chính trị sai lầm của nhà cầm quyến đã cầm tù hàng vạn người của chế độ cũ, đẩy hàng triệu dân đi vượt biển, và đưa đất nước đến hai cuộc chiến mới – với Trung Quốc và Kampuchea. Sau khi Liên xô sụp đỗ, nhà cầm quyền VN phải theo con đường cải cách để cứu vãng nền kinh tế đỗ nát – và để tự cứu mình. Khi nền kinh tế đã vững, họ quay lưng lại đối với nhân dân. Tất cả các đòi hỏi dân chủ và tự do bị đàn áp. Tham nhũng tràn lan. Công lý bị khinh rẻ. Nhóm cầm quyền vơ vét tài sản khiến hố cách biệt giàu nghèo ngày thêm lố bịch, hơn cả trong những xã hội tư bản mà họ luôn mở miệng lên án.
Khi cuộc chiến chấm dứt năm 1975, người chiến binh quay về nhà. Trong mười năm tiếp theo, những chính sách kinh tế và chính trị sai lầm của nhà cầm quyến đã cầm tù hàng vạn người của chế độ cũ, đẩy hàng triệu dân đi vượt biển, và đưa đất nước đến hai cuộc chiến mới – với Trung Quốc và Kampuchea. Sau khi Liên xô sụp đỗ, nhà cầm quyền VN phải theo con đường cải cách để cứu vãng nền kinh tế đỗ nát – và để tự cứu mình. Khi nền kinh tế đã vững, họ quay lưng lại đối với nhân dân. Tất cả các đòi hỏi dân chủ và tự do bị đàn áp. Tham nhũng tràn lan. Công lý bị khinh rẻ. Nhóm cầm quyền vơ vét tài sản khiến hố cách biệt giàu nghèo ngày thêm lố bịch, hơn cả trong những xã hội tư bản mà họ luôn mở miệng lên án.
60 năm sau Cách Mạng Tháng Tám, 30 năm sau ngày thống nhất, nhà thơ
tự hỏi, Còn gì những lý tưởng về tự do, bình đẵng, nhân ái mà thế hệ của
anh đã hi sinh biết bao xương máu cho. Những gì nhìn thấy thật đau
lòng.
nhân dân trắng tay
nhân dân bị thương
nhân dân đầm đìa mồ hôi
nối nhau
bò lê bò toài
ăn mày tự do
ăn mày sự thật
(Bài thơ chết)
(Bài thơ chết)
Quê hương nay còn đâu?
tôi muốn chia sẻ với bạn
nỗi buồn không thể nói lên thành lời
không của riêng ai
nỗi buồn vô gia cư
như ngọn gió
lang thang
đi hoang
trong ngôi nhà tổ quốc.
(Cùng hát lên)
(Cùng hát lên)
Đi đâu anh cũng thấy toàn cảnh ăn thịt người, những cách đối xử tàn
nhẫn mà nhà cầm quyền cộng sản lên án nhưng vẫn chính mình thực hành.
tâm hồn mi bị trói bó dò đặt ngửa tềnh hênh
trên bàn bị chặt ra tùng khúc bị hấp cách thủy
bị tẩm bột bị quay chín vàng và mi đeo khăn ăn vào cổ ngấu nghiến hả hê ngấu ghiến nhai nuốt nhai nuốt nhai nuốt nhai nuốt
khoái khẩu
(Những bữa tiệc ăn thịt người)
(Những bữa tiệc ăn thịt người)
Đáng tiếc thay lần này kẻ thù không phải là Kẻ Lạ – những quân viễn
chinh thèm khát thuộc địa, thèm khát tài nguyên, nườm nượp bom đạn và
thuốc khai quan. Dưới mắt nhà thơ, kẻ thù nằm trong
câng câng mặt thằng đại gia ăn cướp
(ăn cướp chứ không phải ăn cắp)
trí thức cụp tai
ngòi bút trượt dài sợ hãi
sự ngạo mạn trống rỗng lên ngôi
và quả đấm rình mò
(Cục cứt thơ)
(Cục cứt thơ)
Lần này kẻ thù là Chính Ta – những người cách mạng tha hóa, các nhà
trí thức hèn nhát, các nhà văn khiếp sợ, trong đó có chính anh trong
những ngày tháng trước đây.
và nụ cười gượng gạo của một nền đạo đức giả
dối đã được hun đúc hàng trăm thế kỉ
đất thó mi (zê) hì hục tự đắp tượng đài tâm hồn
của chính mi (zê) bao lâu nay
(Bức tường)
(Bức tường)
Đối với anh, tất cả các lý tưởng cao đẹp của Cách Mạng đã bị phản bội.
Đứng trước sự thật phũ phàng đó nhà thơ và những người đồng cảm ít ỏi cảm thấy như
những hạt bụi
không thể chết
và
lại càng cũng không thể sống
giữa thiên đường tổ quốc
(Những hạt bụi hóa đá)
(Những hạt bụi hóa đá)
Chưa bao giờ họ cảm thấy lạc loài như thế.
tôi là người vô gia cư trên tổ quốc của tôi
mỗi khi tôi hát lên bài ca thương cảm
giống như bát cháo hoa vẩy lên trời bố thí
cho hàng triệu oan hồn lang thang đói khát
bị chết oan không hiểu vì sao mình lại chết
trong cuộc chiến tranh chỉ mang lại quyền lực
và tiền bạc cho một dúm kẻ ác tâm tàng hình
(Tôi cũng là người vô gia cư)
(Tôi cũng là người vô gia cư)
Rồi đến lúc nhà thơ không thể im lặng được nữa và phải cất lên tiếng
nói của “người lính già/ bị phản bội” (Thông điệp hoa hồng.) Chán ngấy
những đề tài an toàn như tình yêu, sự tao nhã, tính anh hùng, anh không
ngại ngùng xông vào những vùng cấm như sự thù hận, dục vọng, tính ương
hèn ngoài đời cũng như trong chính ta.
Có lúc thơ anh u ám, cay đắng như thơ Sylvia Plath.
thật ra thì không có gì đáng hoảng
cái chết đôi khi dễ chịu
dù cũng ma chay điếu phúng linh đình
thân xác tiêu mẹ nó rồi (hết nhe răng ra ăn thịt)
tâm hồn chạy thoát bay lượn trong một thế giới
bí mật đầy những ảo giác thật giả hoang
đường chúa trời đức phật
(đéo phải thành đồ nhắm nữa)
(Những bữa tiệc ăn thịt người)
(Những bữa tiệc ăn thịt người)
Có lúc thơ anh đầy phẩn nộ như thơ Pablo Neruda hay Vladimir Mayakovsky.
có một lần trong cơn say điên loạn
tự do ơi ta (zê) vồ được mày rồi
trơn tuột da lươn loằng ngoằng thân rắn
tự do nấc lên ặc ặc
tự do ngoáy đít oẵng oẵng
tự do ư ử ngạt thở mông đùi
và mi (zê) cuống cuồng húp lấy húp để nuốt lấy
nuốt để
húp cái gì nuốt cái gì (không biết)
mong chạy thoát ra khỏi cái chuồng chó ba lần
khóa xích
mong giải thoát tâm linh ra khỏi móng vuốt cơn
say choáng váng u mê ngạt thở tắc đờm tức
ngực
(Tự do ngoáy đít)
(Tự do ngoáy đít)
Kẻ thù còn là nền thi ca nhàm chán, chuyên ca tụng chế độ, chuyên tô hồng thực tế, mà chính anh đã từng tham dự.
vì thế thơ mi (zê) đành bò len lén
vì thế thơ mi (zê) lê la hành khất
áo vá bụi đời đôi giầy sục cứt
lấm lét ăn vụng đói nghèo (ăn vụng chứ không
dám ăn cướp)
lổm ngổm vỉa hè rống lên ông ổng
phọt ra ồng ộc ngộ độc mắm tôm (thổ tả)
(Cục cứt thơ)
(Cục cứt thơ)
Khi nhận thức ra, Chính đã không ngần ngại giải phóng tính “vìa hè”
của thơ, để cho nó tha hồ biểu lộ cơn thịnh nộ đang dâng lên khắp đầu
đường xó chợ
không phải thân xác mi mà là thơ mi thơ mi bị
đá văng ra vỉa hè như con chó già mù lòa vô
dụng bị chủ đá văng ra cửa
không phải bị đá văng ra cửa mà là bị đá văng
ra khỏi sự bón mớn phỉnh nịnh vỗ về
tất nhiên kèm theo cả sự lo toan định hướng
dậy dỗ nghiêm khắc lạt mềm trói chặt
(nhưng ông mà điên lên thì cho mày (thơ) xơi
chầu dùi cui roi điện)
(Thơ vĩa hè)
(Thơ vĩa hè)
Không còn gì thối tha bằng thực tế ngoài kia nên Chính phải nhào nặn, quậy lên những thi thuật mới, những ngôn ngữ mới.
Trước hết Chính đưa vào thi ca cái ngôn ngữ dung tục đường phố, tấp nập những tiếng tục tằng như cứt, đít, lồn và những tiếng chửi thề như e mé mày, tiếng người dân tộc Mán mà anh học lóm được lúc đi lính.
cục cứt mày ngủ cho ngon
đêm nằm mơ mớ dịu dàng
mọc ra đôi cánh nhập nhằng chập cheng (xò ri)
mọc ra đôi cánh nhịp nhàng
nhịp nhàng là nhịp nhàng bay lượn thờ lôn (hồn thơ)
(Cục cứt thơ)
(Cục cứt thơ)
Nếu có vị nào trong nhà nước cộng sản lên án Chính là làm dơ bẩn thi
ca, Chính sẽ đem lảnh tụ Lenin và Mao ra nhạo báng: vì Lenin và Mao từng
xem trí thức còn thấp kém hơn cục cứt thì nhà thơ chỉ ước được làm cục
cứt.
Ồn ào như chợ vỡ trong thơ Chính là những tiếng chó sủa – ốc ốc ốc/ ôi ôi ôi – tiếng nhạc trẻ thế hệ 8X – xập xình xập xình xập xình – mà chắc là Chính nhái lại từ ban nhạc rock Gỗ Lim của con gái.
Gây bấn loạn trong đám đọc giả có học, trên 40 tuổi, lâu lâu Chính sử dụng những tiếng lóng của bọn trẻ 8X như đao mèo, thắng chí ẩu.
Chính không ngại chửi thẳng vào mặt, nhưng anh cũng biết ví von bằng cách nói lái như trong thờ lôn, đao mèo.
Như Hồ Xuân Hương ở thể kỷ thứ 19, Bà Chúa Thơ, Chính ngao ngán về sự
bất lực của thơ chính thống để diễn tả thực tế và muốn thách thức những
nhà kiểm duyệt văn hóa.
Chính cũng ghét dùng dấu , những vật cản thay vì bôi trơn ngôn ngữ.
Dấu duy nhất mà anh tự cho phép sử dụng là dấu chấm hết. Vì thế câu thơ
của anh đọc như một phát liên thanh, hừng hực như câu thơ của Alan
Ginsberg.
Nhưng cuối cùng thì nhà thơ từ chối để tuyệt vọng thắng. Trong bài
Thông điệp hoa hồng, Chính trông đợi “trận cuồng phong hoa hồng” đến
giải thoát tâm linh và thi ca.
gót chân tháng giêng
gót chân mộng du
lạnh buốt
mơ màng
chầm chậm mang theo thông điệp
trận cuồng phong hoa hồng
rực rỡ
dữ dội
sắp tràn về
và
nhấn chìm tất cả.
(Thông điệp hoa hồng)
(Thông điệp hoa hồng)
Chính không phải một mai mà giác ngộ. Sau chiến tranh anh viết nhiều
truyện văn xuôi, những truyện mà sau này anh xem là quá “hiền lành.” Năm
1999 anh làm một cuộc đổi dời. Tập truyện 1000 trang của anh tựa đề
“Đêm Thánh Nhân” làm chấn động giới văn học. Trong truyện tác giả vạch
trần mặt trái của xã hội, mô tả cuộc sống tối tăm của hàng loạt những
con người dị ngợm, bần cùng, ngây ngô bị những kẻ có quyền thế, bọn đồng
hương và đám trục lợi bóc lột đến tận cùng. Mặc dù anh không công nhận
nhưng rõ ràng anh đã sử dụng vản pháp hiện thực huyền ảo, văn pháp đa
năng nhất để vẻ lên chân dung đầy đủ của nước Việt Nam đương đại – chân
dung xã hội, chính trị và tâm thức. Có lẻ do nhận ra giá trị văn học
không thể chối cải trong tác phẩm này mà nhà xuất bản Văn Học trực thuộc
nhà nước phải miễn cưỡng xuất bản Tập I. Một tháng sau, họ lại ra lệnh
thu hồi và cấm xuất bản cho đến 7 năm sau.
Năm 2009 Chính xông vào làm thơ. Nhưng cũng như truyện, thơ anh cũng
chẳng được các vị kiểm duyệt buông tha. Để thoát gọng kiềm anh bèn phóng
lên xa lộ Internet. Anh lần lượt đăng thơ trên các blog thân thiện và
cho phép đọc giả tải từ sách điện tử Kindle. Một tập thơ gồm 163 bài
được nhà in Tân Hình Thức đăng tại Hoa Kỳ, trong số này 22 bài đã được
tôi tuyển để dịch sang tiếng Anh trong Tuyển Tập này
Trong thi ca Việt Nam đương đại, Nguyễn Đình Chính là Arthur Rimbaud
của thời Internet, một tên nổi loạn bất trị, một con trâu điên của văn
học đường phố. Hắn lên án sự áp bức dưới mọi hình thức, từ chính trị,
kinh tế đến xác thịt. Hắn giải phóng thơ khỏi những khuôn sáo. Hắn lôi
thi ca xuống cống rãnh của cuộc đời, bắt thi ca phải nhìn thẳng vào
những con mắt sâu hóm và nghe những ai oán não nề. Như một con chó
berger, hắn ngửi hít, rà soát và loại đi tất cả những gì bốc mùi giả
dối. Duy nhất đáng được cứu khỏi bãi bùn sình là những mảnh vụn sự thật –
những gì còn lại của những lời hứa bị phỉnh, của những giấc mơ bị cuỗm,
nhưng nhất
định không chết.
Nhờ thế mà thi ca Việt Nam vươn tới một đỉnh cao mới.
Trần Đán