Mấy ngày đầu năm bị bão tuyết giá
rét phong tỏa, tôi lên mạng nối kết và đọc các trang bằng hữu trên
facebook. Tình cờ gặp lại bài Hoang
mang Nhớ nhung Hy vọng của Nguyễn Bá Trạc mà tôi đọc trước đây đã
lâu trong tập NGỌN CỎ BỒNG. Bài
thơ rất hay, chân thành, sôi nổi mà sâu lắng, được Đặng
Tiến giới
thiệu cuối năm 1987 vào khúc quành Đổi Mới tràn ước vọng hòa hợp dân tộc
trong dân chủ, thịnh vượng.
Hình như những đồng hồ cuốn lịch VN
đã đóng băng! Nay là năm 2014 mà nỗi niềm di dân cùng tâm
trạng lưu vong cũng không mấy khả quan, nhất là ở thế hệ gắn liền
với chính biến 1975. Các vấn đề lớn của đất nước và dân tộc còn
nguyên; sau một chu kỳ đầy biến động lịch sử...những chuyện buồn phiền..đã không giảm lại tăng thêm. Và
bao khát vọng, ước mơ- chúng đã héo hắt chết khô hay câm nín chờ giờ
bùng nổ (ý thơ Langston Hughes) ?
HOANG MANG NHỚ NHUNG HY VỌNG
Có lúc lòng hoang mang
Xô đẩy đại dương vô định
Nước mắt khô thành muối mặn
Trái tim gõ nhịp không yên.
Chúng tôi tách ra từ đất
Gieo những hạt khô lăn lóc trong gió trời
Lòng rối mù trăm ngàn lý luận
Chưa biết tin gì vào hạnh phúc tương lai.
Chân bước không chấm đất
Ngửng mặt nhìn trời giăng xám mùa đông
Rồi mùa xuân mùa hè
Các vấn đề đẩy xô không ngớt.
Trên ngã tư đường đứng nhìn ngơ ngác
Vô số giấc mơ về giữa ban ngày
Dưỡng khí thiếu trong buồng phổi
Bốn tỉ người một triệu chúng tôi đây.
Lại mùa xuân mùa hè
Lòng dật dờ trôi như sóng biển
những gì chúng tôi mất đi là đất
những gì còn là mảnh vụn chiến tranh.
Tôi rời Hải Phòng năm mười hai tuổi
bến Sáu Kho sóng đập vô bờ
những con còng giơ đôi càng đỏ
những con đường chiều xuống bơ vơ.
Đường Trại Cau
đường Cát Dài Cát Cụt
những con đường trong trí nhớ bâng quơ
những con tầu một đi chưa trở lại
người vô Nam sao vẫn mong chờ.
Tôi ở Hà Nội: ngõ Tân Hưng
Góc đường ga hàng Cỏ
trước cửa nhà là một gốc hoàng lan
mùi hương thơm sững sờ giấc ngủ
ba chục năm rồi hoa vẫn còn thơm
Khi vô Nam
về lại Huế
nhìn căn nhà cắt rốn chôn nhau
ngắm chim khuyên trên cành hoa khế
thấy mây trời bay sát ngọn thầu đâu
Hồ Tĩnh Tâm
Ngõ Âm Hồn
đường Giếng Sập
đất vườn ướt đẫm cơn mưa
rồi lá sen khô trong trời nắng hạ
và bọn học trò áo trắng mùa thu.
Rồi Đà Nẵng Sàigòn Đà Lạt Vũng Tầu
những hàng cây ngọn đồi bãi biển
rồi bến xe
chuyến đò
bãi hẹn
mỗi lần đi là đợi một lần về.
Năm hai ngàn trở về Hà Nội
mở cửa căn nhà đầu phố Cửa Nam
về Hà Đông làng Mọc
đào lại giếng
dựng lại làng
vịn tay bức tường rêu Văn Miếu
ngồi ở bờ hồ đọc chuyện lưỡi gươm thiêng.
Chậm lắm là năm hai ngàn
trở về Huế
về Nong về Truồi
về Bao Vinh An Cựu
thắp một nén hương cho những người đã khuất
về Thượng Tứ Đông Ba
về chợ Mai chợ Nọ
nhìn đỉnh Ngự Bình xanh đọt chuối non.
Bơi trên sông Hàn
Hát trên trời Đà Nẵng
mở cổng trường tìm lại cái tên
núi biển ngàn năm không đổi
chỉ những hàng thông cao vút mọc vươn lên.
Chậm lắm là năm hai ngàn
về Cầu Hai Bạch Mã
về phá Tam Giang nối lòng ra biển
bước chín tầng trời lên ngọn Túy Vân Sơn.
Sẽ về Nha Trang
sẽ đi Đại Lãnh
xem biển xanh vỗ bờ cát trắng
đường Độc Lập bước dài như trẻ thơ
thăm nhà dì nhà chú nhà cô
dẫu còn hay đã mất.
Có thể là năm hai ngàn
Có thể sớm hơn
về Hải Phòng tắm mát Hồ Sen
đường Cát Dài qua đường Cát Cụt
xuống bến đò về lại Quảng Yên.
Bình Định Bồng Sơn
Quy Nhơn Phan Thiết
những chuyện buồn phiền sau một vòng trái đất
khi trở về cứ kể đã như quên.
NGUYỄN BÁ TRẠC
(Trích Ngọn Cỏ Bồng, viết khoảng 1980)