Monday, April 22, 2013

CHÂN PHƯƠNG






                           Bản Thảo Của Vô Ngôn
                                                                     trích từ các sổ tay hay bản thảo 

      Vừa là công trường vừa là tha ma của chữ, mấy dòng suy nghiệm về sáng tạo
và im lặng 

     dưới đây là vết tích cuộc hành trình vô định đi tìm Đất thơ.

 - ngôn từ đi về đâu ? các cửa miệng xoay vòng sinh tử…

- từng chữ từng câu rời sự vật, lê ẩn dụ như bóng lạ qua mọi tha ma… 
- thần chết thiếp giấc bên xấp giấy trắng; đừng khuấy động im lặng…
- xương xẩu với đá sạn rồi sẽ đắm chìm, giữa biển thời gian vẫn nổi trôi chiếc vỏ chai…

- biển không ấp úng quanh co, sa mạc chẳng cần lập thuyết, còn thịt da ?  
- tha ma các chân trời là khởi điểm vòng tròn; bước đi xa cũng là bước quay về…
- rời logos, các mũi tên chỉ đường gãy vụn trong vô thức…

- biển thè lưỡi liếm những bờ cát trống; ích gì thuật múa nhảy trên đầu sóng!


 - chưa kịp ra khơi, lũ tàu thuyền định mệnh đã chìm vào vĩnh cửu rách đôi! 


 - từng hạt nước mồ côi thấm qua chín tầng trời; mục rã ngôn từ cùng im lặng…


 - thắt xong cà vạt trắng, lũ ngã tướng ngu ngơ chờ kịch bản… 


 - cũ mới song song hai đường ray, các ngôn thuyết theo nhau về bến gió…


 - đứng ngồi trong tủ kính thời gian, các giai nhân chờ thần chết xem mặt chọn hàng…


 - niết bàn không có cổng vào, ngựa đá thẩn thơ chờ hiện tại…


 - chán trò cút bắt với mây xám mây đen, gió nghịch ngợm chui vào chui ra vỏ ốc…

 - nụ hôn đầu và cơn say cuối sẽ để lại gì ngoài ánh sao rơi? 


 - mồm đất, nanh núi, lưỡi biển nhai nuốt dần các dự án đời tôi. 


 - nhanh hay chậm, các vòng tròn đều lăn về hoang địa. 


 - tôi sắp đi trọn vòng phi – tôi ; đâu là bến đỗ luân hồi ?


 - thiên thu là tha ma những tấm gương… 


 - chẳng còn lối thoát từ khi xuất hiện khung cửa trống… 


 - mang trên đầu hào quang Số Không, bọn nhà thơ tâm thần suốt đời đi tìm Số Một ! 


 - số một nhân với số không thành vô tận mộ bia…


 - vầng dương lặn trên bàn tay Phật…
 - chủ tịch danh dự các tha ma, tôi độc ẩm trước tà huy không khán giả. 

 - màn đêm hay màn sân khấu - bắt đầu vở kịch của sát na…




Tạp văn
                                              Thơ, phút ngẫu sinh
 
Vào dịp dân cư New England sắm sửa đón lễ Thanksgiving* cuối tháng 11, cây cối cũng rũ bỏ mớ lá còn sót của mùa thu đang lâm chung để đi vào tiết đông đằng đẳng. So với mùa hè xanh tươi rậm rạp cách đó chưa đầy hai tháng, sự tương phản đầy kịch tính không khỏi đập mạnh vào cảm thức. Mối liên tưởng hai chiều về sống/chết, còn/mất, tuổi trẻ/tuổi già…được gợi nhớ từng ngày, nhất là những buổi tinh sương ảm đạm với lũ cây chết cóng nhánh cành đâm chĩa khắp trời để van nài chút nắng. Cùng mấy chiếc lá úa cuối mùa bị gió bứt lìa cuống với thời tiết hắt hiu và thiên nhiên tàn tạ là cảnh chim muông trốn chạy khỏi các công viên, đồng ruộng, núi rừng. Hoặc chúng thiên di về phương Nam, hoặc chúng chui sâu vào lòng đất. Những ngày tháng ấy, con người đối diện một mình các mất mát với niềm nuối tiếc khó lòng tránh né.

Cùng thời gian đó bắt đầu trong tôi một điều khó tả, như một ám ảnh chưa có dáng hình...

Với kinh nghiệm sáng tác lâu năm tôi biết tiềm thức mình đang hoài thai một bài thơ, dù còn dở dang chất liệu. Tôi chịu khó quan sát cây cối hơn lúc thư nhàn dạo rong hoặc những khi ngừng xe đợi đèn xanh, và tôi khám phá một điều: họa hoằn mới có cái tổ chim giữa trăm nghìn thân cây rải rác khắp Boston. Cái cây có diễm phúc được chim chọn làm tổ ấy thường là một gốc cao to rậm rạp nằm vào nơi khuất ở góc sân hoặc eo đường vắng. Chim cũng có minh triết của chúng,tôi nghĩ bụng: kinh nghiệm chọn cây xây tổ chắc chắn đã hình thành trước các nền văn minh của giống người trên quả đất.

Rồi một buổi chiều, ngừng xe tắt máy giữa bãi đậu vắng trước giờ vào lớp, tôi ngồi ngó mông khoảng trời chung quanh. Ánh mắt bâng quơ chợt chạm phải cái tổ hiếm hoi trên chạc cây xa. Lúc ấy nắng ngày sắp tắt, không gian nhợt nhạt vô hồn làm nền cho thân cây với tổ chim hoang vắng kia in đậm vào tâm trạng và cái tứ thơ tôi không mong đợi đã loé lên gây chấn động khắp người. Sự liên tưởng bất ngờ thành hình, nối kết tổ chim với thân cây được chọn kia với bản thân tôi và cuộc sống tình cảm trước đây cũng như hiện giờ. Tôi vừa ngộ rằng trong quá khứ tình yêu và hạnh phúc đã chọn tôi như chim đã chọn cây, cái ân huệ hiếm hoi trong đời mà không phải ai cũng được số mệnh ban tặng. Bây giờ mùa đông ngoài kia chính là đời tôi! Trên gốc hạnh phúc cành nhánh đã héo trụi, trong tổ ấm thuở nào chỉ còn trái tim băng giá. Cánh chim tình đã mất tăm; còn chăng mùa tái ngộ?

Cảm hứng này không mới. Đông Tây kim cổ văn thơ đã nói bất tận về mùa hè và mùa đông của đời người, liên hệ cùng mấy nỗi còn mất hợp tan. Thí dụ Shakespeare trong bài sonnet #73 đã khai thác tứ này: 

That time of year thou mayst in me behold
When yellow leaves, or none, or few, do hang
Upon those boughs which shake against the cold,
Bare ruined chords where late the sweet birds sang …

Tuy nhiên sáng tạo lúc nào cũng là phút bắt đầu lại trong óc tim từng người nghệ sĩ. Bí mật của sự tinh khôi trong nghệ thuật nằm ở đây. Ấy cũng là căn nguyên của tương quan mật thiết giữa cái riêng cái chung trong thế giới các tác phẩm. Một khi nghệ sĩ nhập thần, họ vừa là cá thể cực cùng đơn độc vừa là hiện thân của quyền năng sáng tạo siêu nhiên vô ngã.

Tôi muốn trình bày một kinh nghiệm riêng tư, thứ tâm sự ngoài lề giữa giới viết văn làm thơ. Trong môn tâm lý học sáng tạo cũng như khảo cứu phê bình thi ca Âu Mỹ các công trình mổ xẻ đào xới bí mật nghệ thuật hoặc nguồn gốc tác phẩm càng ngày xuất hiện càng nhiều. Dù sao đóng góp với người đọc có quan tâm cảm nghiệm cá nhân về quá trình sáng tác vẫn thú vị hơn là bỏ giờ dịch hay điểm một khảo cứu nước ngoài, dù việc làm ấy không phải là vô bổ.

Thơ từ đâu đến? Nhiều thi sĩ tiếng tăm đã viết đã giảng, hoặc tranh luận về câu hỏi này và đưa ra không ít giải thích. Bất bình tắc minh, đồng thanh tương ứng, tức cảnh tức sự, ngôn chí, tải đạo… Lẽ nào cũng có lý, và trong thực tế sáng tác các lý do thường hòa nhập. Để minh họa điều trên chỉ cần nhắc tới Truyện Kiều hoặc một số bài thơ Đường Tống mà nhà thơ VN nào cũng biết. Tuy nhiên trường hợp cụ thể của từng bài thơ lại khá đặc thù mà chỉ có tâm sự của chính tác giả mới thực sự giúp ích cho những ai thắc mắc về vấn đề sáng tạo.

Để bớt dài dòng, xin quay lại phút chào đời của mấy câu thơ các bạn sẽ đọc dưới đây. Đầu tiên là cảm hứng mông lung, hư hư thực thực nơi tiềm thức như một điện trường còn chờ tia chớp của liên tưởng để hoạt khởi. Tặng phẩm đó đã đến với tôi bất ngờ vào buổi chiều cuối thu ở Roslindale in bóng tổ chim hiu quạnh trên rặng cây trụi. Cảm hứng hóa làm ý thơ từ đó kinh nghiệm với suy tư bắt đầu đan dệt thành tứ. Các dạng phác thảo trước khi được ngòi bút ghi lên mặt giấy bắt đầu đùa nghịch tranh cãi trong óc não. Tiến trình biện chứng vừa xuất thần vừa tỉnh táo của sáng tạo khởi công ráp xương đắp thịt cho tác phẩm. Xuất xứ bài thơ không còn phải bàn luận. Khái niệm phanopoiea của Ezra Pound áp dụng ở đây rất thích hợp. Mẹ đẻ bài thơ chính là năng lực tượng hình, điều mà Coleridge gọi là óc tưởng tượng cấp hai (secondary imagination), chẳng xa lạ so với ý tượng được Lưu Hiệp nhắc đến trong Văn Tâm Điêu Long (đoạn Thần Tư). Nói thế không có nghĩa phủ nhận khả năng gợi hứng của melopoiea như Valéry từng tiết lộ về Le Cimetière Marin. Bài thơ kiệt tác này hình thành trong tâm trí thi hào từ một tiết nhịp vô hình ám ảnh, tương tự Nietzsche trong mùa thai nghén Also spracht Zarathustra.

Tôi lại sắp lạc đề. Tìm cây viết và tờ giấy, thắp ngọn đèn thi nhân, nháy mắt với các anh linh tiền bối, rồi bắt đầu chép lại từ các phác thảo đầy bôi xóa bài vần điệu sau đây: TÌNH ĐÔNG
trơ trụi, guộc gầy
cây già đứng lặng
tổ chim trên chạc
gió tạt mưa lay

cuộc tình tàn phai
úa khô cành nhánh
biệt tăm đôi cánh
giấc mộng hè xanh

trống vắng hồn hoang
trắng trời tuyết lạnh
con tim cô quạnh
rét giá rơi đầy

từng khắc từng giây
mùa đông kéo dài
nỗi đau tê cóng
len khắp hình hài

cái lạnh dằng dai
giết mòn mạch sống
đất trời phủ kín
màu của quan tài

bao giờ trở lại
nắng ấm vòng tay
cho nụ hôn say
làm tan băng giá?

Cũng tàm tạm, hơi lắc lư ê a một tí. Hay ta đổi gam, solo thử một đoạn vĩ cầm…Mời quí vị lắng nghe:



CÒN LẠI CHO TRÁI TIM

phơi giữa chạc đông
tổ chim trống không
giá lạnh ghé thăm
tặng quà nắm tuyết


Cô đọng, độ run kín đáo, lời ít ý nhiều, chẳng hổ danh tứ tuyệt. Đầu đề Còn lại cho Trái Tim soi chiếu tứ thơ, ngụ ý mớ liên tưởng mà độc giả phải tự phát hiện để lĩnh hội trọn vẹn nội dung:sự quạnh hiu của tâm tình sau những biệt ly mất mát.

Nếu bạn chưa buồn ngủ, tôi xin bốc phét tiếp. Thơ văn chẳng khác chuyện ăn nhậu, đang hứng thì khó dừng. Đọc lại mấy câu vừa rồi tôi bỗng thèm không khí thoáng đạt của thơ tự do, thể thơ cho phép trí tưởng tung hoành bất cần vật liệu ít nhiều, không câu nệ qui ước và cách luật. Tại sao lại từ chối thể nghiệm ngôn từ, phá hình thức niêm vần, chắp cánh mới cho ý thơ? Bắt đầu với hai hình tượng chính là thân cây trụi lá và tổ chim trống, tôi viết luôn hai câu như thở như nói, không cần phách nhịp trống kèn,

Thay tiếng ríu rít hót ca
còn tổ trống
thế lá xanh
là cành nhánh trụi trần

Hơi thơ thẳng thắn một mạch, gợi liền cái tứ cốt lõi trực ngộ ở Roslindale:

thân cây kia
có khác chi
một kiếp người?
Đây là nút thắt bài thơ, xúc động bị nén lại với câu hỏi - thật ra là một khẳng định được gián cách bằng phép tu từ để gây ra sự chờ đợi tâm lý. Tôi đứng trước ngã ba, hoặc xoa dịu vuốt ve nỗi đau và tiếc nuối như bài Tình Đông với đoạn kết lãng mạn, hoặc phóng thẳng tới sự thật dù là sự thật phũ phàng.

Đọc lại những chữ ngắn gọn mở đầu bài thơ, tôi hiểu rằng chỉ có một chọn lựa. Hơi thơ phát ra từ mấy câu ấy bộc trực ít lời. Bài học từ những nhà thơ lớn và kinh nghiệm bản thân đã dạy tôi rằng thơ khó thỏa hiệp với sự rườm rà đa ngôn, thơ thù ghét sự yếu đuối và không cho phép nhà thơ chùn bút.

Mùa hè biệt dạng, mùa thu hiu hắt, tình yêu tuổi trẻ ra đi. Chỉ còn đông giá và tổ chim bỏ hoang trên chạc cây trơ trụi. Lúc này không phải trí tưởng nữa mà chính lôgic nghệ thuật và lôgic cuộc đời đồng thanh bật lên câu hỏi xé lòng:

Và giờ đây
đàn chim hạnh phúc
đang rã cánh tận đâu
trên biển rộng không bờ
hay giữa lòng sa mạc cháy ?

Dứt điểm một kinh nghiệm tử sinh được ngôn từ thăng hoa thành nghệ thuật. Bài thơ tự do ngắn với tên khá tự nhiên Lời Mùa Đông được cất vào ngăn kéo. Biết đâu, theo lời dặn của thi hào Horace, tám chín năm sau đem ra đọc lại còn chấp nhận được và khi đăng báo sẽ không làm các độc giả khó tính ngáp dài./.




No comments: