Charles Simic(gốc Serbia sinh 1938 tại Belgrade) từng là Poet Laureate (2007) và giải Pulitzer về thơ Mỹ năm 1990. Một gương mặt kỳ bí giữa các dòng thơ Anh ngữ,
ông say mê triết học và quan niệm thi ca có liên hệ mật thiết với triết vì cả
hai cùng chất vấn Hữu Thể. Kế thừa truyền thống văn học dân gian Serbia và Trung
Âu (Vasko Popa là cái bóng khổng lồ trong thơ Simic), học hỏi các thi phái tiên
phong Âu-Mỹ, nhất là Siêu Thực, ông cất lên tiếng thơ trữ tình vừa thế sự vừa
siêu hình, pha trộn óc khôi hài dí dỏm của dân gian. Ẩn dụ với ý tượng là hai lợi
khí ông vận dụng nhiều trong sáng tác, tạo nên một phong cách riêng ích lời nhưng
mở ra các chiều kích bất ngờ cho suy tư và liên tưởng. Những cách ngôn trích dịch
lấy từ bài Wonderful Words, Silent
Truth (University of Michigan Press,1990), nguyên là những ghi chép trong sổ tay của nhà thơ. Qua những suy tưởng này, Simic tạo một tương quan giao diện giữa tư tưởng
và sáng tạo, giữa mỹ học và triết lý…
CHÂN PHƯƠNG
CHÂN PHƯƠNG
Mỗi vật thể là một tấm gương…
Hình thức là mặt
hữu hình của nội dung, cái cách khiến cho nội dung hiển lộ. Hình thức: thời
gian hóa làm không gian và cùng lúc không gian hóa làm thời khắc.
May rủi là công
cụ phá vỡ những liên hệ quen thuộc của ta. Một khi chúng vỡ ra, dùng một trong
các mảnh vụn mà phóng vào bất khả tri.
Chúng ta gọi tên
sự vật này rồi sự vật khác. Thời gian bước vào thơ như thế. Mặt khác không gian
hiện hữu kinh qua sự chú ý chúng ta dành cho từng chữ một. Sự chú ý càng cao không
gian mở ra càng nhiều, và bên trong chữ có rất nhiều không gian.
Vitrac gọi may
rủi là “sức mạnh trữ tình”. Ông hoàn toàn đúng. Do không thể biết nơi chốn ta về
sẽ gây nên nỗi hứng khởi giàu ảo mộng.
Theo trí tưởng
tượng bên trong mỗi vật thể ẩn trốn một vật thể khác. Vật bên trong hoàn toàn
không giống vật bên ngoài, hoặc bên trong y hệt bên ngoài nhưng hoàn hảo hơn. Tất
cả tùy vào cách nhìn siêu hình của một con người; chính xác mà nói tùy vào cách
ta thiên về tưởng tượng hay lý tính. Có lẽ sự thật là bên ngoài với bên trong cùng
lúc y hệt và khác nhau.
Điều tôi phàn
nàn về phái Siêu thực là sự sùng bái tưởng tượng qua lối trí tuệ.
Bài thơ tôi muốn
viết là cái khó thực hiện: tảng đá nổi trên mặt nước.
Hình thức không
phải là “dạng tướng” mà là “ý tượng”, là bằng cách nào thị hiện nội tâm tôi.
Artaud nói: “
Không ý tượng nào có thể thỏa mãn tôi trừ phi cùng lúc nó cũng là tri kiến.”
Thời gian của
bài thơ là thời gian của chờ mong, hình như một nhà hình thức luận Nga từng nói
như thế.
Tôi ước sao chỉ
cho ngưởi đọc thấy rằng các vật quen thuộc nhất quanh ta không dễ hiểu chút nào.
Trong bài thơ
dân gian nào cũng có bản tin thời tiết. Mặt trời rực nắng, tuyết rơi, gió thổi…
Thi sĩ dân gian khôn ngoan biết rằng phải thiết lập tức khắc quan hệ giữa con
người và vũ trụ.
Giữa sự thật
nghe thấy và sự thật nhìn thấy, tôi chọn sự thật lặng lẽ của cái nhìn thấy.
Làm thơ là phải
chịu mâu thuẫn: chấp nhận sự vật như chúng vốn vậy hoặc tái tưởng tượng chúng;
biểu thị hoặc tái tạo; phục tùng hay khẳng định; nhân tạo hoặc tự nhiên, vv. Như
giống bò nhà thơ phải có nhiều hơn một dạ dày.
Có ba loại thi
sĩ: loại làm thơ không suy tư, loại suy tư trong lúc làm thơ, và loại suy tư trước
khi làm thơ.
Sự kinh hãi
(awe), như trong thơ Dickinson,
là khởi sự của siêu hình học. Kinh hãi trước sự vật phong phú vô vàn và kinh hãi
khi ngờ thấy tính nhất thể của chúng.
“ Các nhà thơ
thực sự muốn gì?”, một giáo sư triết thông minh có lần hỏi tôi như thế. Lúc ấy
khuya rồi và bọn tôi đã nốc rất nhiều rượu vang nên tôi buộc miệng nói ngay ý thứ nhất vừa hiện trong đầu: “Họ muốn tìm hiểu
về các sự vật chữ nghĩa không thể nào diễn tả.”
Hàm hồ là tình
trạng của thế gian. Thơ tán tỉnh sự hàm hồ. Như “một bức tranh của hiện thực” nó
chân thật hơn mọi bức tranh khác. Nói thế không có nghĩa là bạn nên sáng tác những
bài thơ không ai hiểu nổi.
Ẩn dụ tạo cơ hội
cho nội tâm tôi liên hệ với thế giới bên ngoài. Vạn vật cùng liên quan với nhau
và tri kiến ấy nằm trong vô thức của tôi.
Tôi thán phục
các nhà thơ nhà văn một mình một cõi. Triết học cũng vậy, lúc nào cũng một mình.
Thơ và triết tạo nên loại độc giả cô đơn và chậm rãi.
Làm sao truyền
đạt ý thức…khoảnh khắc hiện tại ta trải nghiệm sâu xa mà ngôn ngữ bị nhốt giam
trong trật tự mang thời gian tính của câu cú không thể tái hiện?
Huyền thoại: tìm
ra cốt truyện ẩn tàng trong một ẩn dụ. Có một tuồng tích và một vũ trụ quan
trong từng ẩn dụ lớn.
Bài thơ: một sân
khấu nơi ấy ta vừa là khán giả, sàn kịch, đạo cụ, diễn viên, tác gia, công chúng,
nhà phê bình. Tất cả cùng một lúc.
Có những nhà phê bình không có khả năng cảm nghiệm nghĩa bóng, tựa những
kẻ mù màu (color blind), điếc nhạc (tone deaf), hoặc thiếu óc khôi hài. Khi gặp
một ẩn dụ họ biết chứ nhưng nó không tác động gì đến họ. Nếu không thể giải rõ
nghĩa ẩn dụ họ xem đó là chứng cứ khiến cho nó vô giá trị hoàn toàn.
Phê bình duy ý hệ bao giờ cũng đứng yên một chỗ. Nó đã tìm được vị thế từ
đó nó không còn xê dịch. Tựa như kẻ khẳng quyết rằng ngắm tranh phải đứng cách
ba thước, và chỉ ba thước mà thôi! Với khoảng cách đó, dĩ nhiên nhiều bức tranh
không hiện hữu trọn vẹn được. Mặt khác không bao giờ chỉ có một điểm ngắm duy
nhất ngoại trừ trong trí não. Trong đời sống và trong nghệ thuật cùng lúc ta ở
nhiều nơi khác nhau.
Từ bài thơ hiện đại suy ra là mỹ học với triết học hiện đại. Không thể
hiểu những bài thơ viết theo cách thức này nếu không am hiểu lịch sử tri thức
hiện đại. Điều này có vẻ hiển nhiên nhưng không phải ai cũng biết. Nhiều nhà phê
bình văn học hàng đầu của chúng ta không đọc rộng bằng các thi sĩ. Các thi sĩ
phiêu lưu hơn nhiều. Dĩ nhiên còn phải nhắc đến hội họa và điện ảnh mà giới phê
bình thường không bận tâm đến.
Có hai cách sáng tạo: phơi bày cái có sẳn hoặc làm ra điều hoàn toàn mới.
Tin vào cả hai là vấn nạn của tôi.
Thần linh trong thoáng chốc, người
Hi lạp đã nghĩ như thế về từ ngữ.
Các ý tượng đẹp, bí ẩn mang tính tĩnh tại (static). Quá nhiều ý tượng như
thế sẽ làm nghẽn bài thơ. Một ý tượng bí ẩn là một biểu hiệu linh thiêng tạo nên
phép lạ. Từng bài thơ một có thể chứa bao nhiêu ý tượng như thế?
Rimbaud, người phát minh ẩn dụ hiện đại cho là mình có thần nhản (seer).
Ông nhận ra rằng tham vọng bí mật của một
ẩn dụ căn để là siêu hình. Nó có thể khai mở những thế giới mới, chạm được đến
tuyệt đối. Khi bắt đầu ngờ vực sự thật ấy ông thôi không làm thơ nữa.
Phần lớn các nhà thơ không hiểu được
chính các ẩn dụ của họ.
Tôi đề xướng minh giải luận (hermeneutics) của cái hoàn toàn sáng tỏ. Nó
có tham vọng tìm ra những tối tăm ẩn tàng trong ánh dương chói chang nhất.
Các thi sĩ hôm nay phần đông đã quên chủ nghĩa tượng trưng, đặc biệt là
khải ngộ lớn của chủ nghĩa này là không thể nói bàn mà chỉ có thể ám chỉ về Hữu
thể.
Một vài triết gia hiểu ý tượng trong thơ khá hơn các nhà phê bình văn học.
Có thể nhắc đến Bachelard, Heidegger, Ricoeur. Họ nắm được tham vọng tri luận và
siêu hình của ý tượng. Các nhà phê bình lắm khi chỉ có một quan niệm thuần văn
chương về ý tượng.
Chúng ta hiểu được người khác nhờ vào tốc độ truyền đạt vượt trên ngôn
ngữ, Valéry nói thế. Với tôi nhận định này mô tả điều xảy ra trong một bài thơ
tự do. Nhà thơ tăng tốc, hoặc kìm hãm dòng
chảy ngôn từ… dừng lại…không nói gì… Đoạn nhà thơ lại quay về với nhịp độ của mình…
J. Riddel: Nhà thơ vươn đến cái chi? Không chỉ tri kiến thuần túy, nhà
thơ mở lối đi vào quan hệ giữa chữ và vật.
Giới phê bình của chúng ta mắc bệnh tỉnh lẻ: đọc B và Y nhưng không đọc Z, D hoặc N.
Với sự hiểu biết cực kỳ hạn hẹp về mặt này họ lại thích khái quát
hóa về thơ Hoa kỳ.
Gadamer nói: Chân lý tuột khỏi người
chỉ bám vào phương pháp. Tạ ơn Trời!
Bởi thế còn có cơ may cho các nhà thơ.
Ghi chú tặng các nhà sử học tương lai: Đừng đọc những tờ báo New York
Times cũ. Hãy đọc các nhà thơ.
Thời gian là cái chủ quan par
excellence . Khách quan mà nói thời gian không hiện hữu mặc dù có vô vàn sắc
tướng…
Chù nghĩa ý tượng (imagism) là nỗi đam mê tìm sự chân xác, làm thế nào
chụp bắt sự vật cho đúng. Nhưng nào dễ gì! Đó là một bài toán triết học! Chủ
nghĩa này là tri thức luận của thơ hiện đại.
Điều sâu xa nhất Emerson nói về các nhà thơ là họ hiểu ra Bí Mật của Thế
Giới: rằng Hữu Thể hoá làm Sắc Tướng và Nhất Nguyên trở thành Đa Dạng.
Điều nguy hại nhất cho thơ là chất thơ. Tôi không còn nhớ ai nói lời này.
Các thi sĩ tự sự hãy nghe đây. Các người nghĩ thế nào khi Pound nói rằng:
Đừng thuật lại với những câu thơ tồi những
gì đã được viết ra bằng văn xuôi hay.
Ai cũng muốn có được khả năng diễn nghĩa (paraphrase) nội dung bài thơ,
ngoại trừ nhà thơ.
Sự gặp gỡ giữa triết và thơ, các con cừu non của ta ơi, không phải bi kịch
mà là một hài kịch siêu phàm.
Trong thơ có sự chọn lọc phần riêng để biểu hiện cái toàn thể. Hình thức
trong nghĩa sâu nhất là chọn lọc. Hình thức chân thật là sản phẩm của con mắt
thần (extraordinary vision).
Nhà thơ kêu gọi triết gia trong mỗi chúng ta quan tâm đến thế giới qua sự
hiện diện đầy nghi vấn của nó.
CHÂN PHƯƠNG tuyển
dịch
No comments:
Post a Comment