Tuesday, April 30, 2013

Nhớ Nguyễn Xuân hoàng

                                                 

Mới đó mà sắp đến giỗ lần thứ 7 của Nguyễn Xuân Hoàng, một nhà văn của miền Trung từ giã cuộc đời ở tuổi 40. Văn và đời của anh để lại bao ngưỡng vọng và tiếc nuối cho người ở lại. Các bậc tài hoa và lương thiện luôn là những người được chọn thoắt biến thoắt hiện ở cõi trần này để làm những việc mà chúng ta không thể biết được  
.

                                           
Hiệp sĩ buồn
Còn nhớ một ngày cuối năm 2006, anh Ba Đà Rằng, một cựu sinh viên Văn khoa Huế, gọi điện cho tôi: "Sáng nay, vợ con lay mãi không dậy, thế là Hoàng…". Sao thế, Hoàng ơi?. Trong mắt nhiều bạn viết cùng thời, Nguyễn Xuân Hoàng là một nhà báo, nhà văn trẻ tài hoa. Tôi cũng vừa mới đọc sáng tác của Hoàng đăng báo…

Nguyễn Xuân Hoàng dáng mảnh mai, nói năng nhỏ nhẹ nhưng đầy khí chất và niềm ấp iu cuộc sống. Cái cách ăn nói trầm ngâm, ưa sách vở mà cũng mê lang bạt như thế nên Hoàng viết tản văn, tạp bút, tản bút, tản mạn, nhàn đàm… mà anh gọi chung là tùy bút - đều hay là điều dễ hiểu. Kiểu viết này đã khắc tên Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Xuân Diệu, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Băng Sơn, Ngô Văn Phú… Ai bảo tùy bút là dễ hay khó đều có lý, ai viết cũng được nhưng viết hay thì không nhiều.
Tuy Hòa sau một đêm bù khú miệt mài, Hoàng rút tập tùy bút "Hương mùa thu" (NXB Thuận Hóa, 2001)… tặng tôi; rồi sau đó lại cũng một tập tùy bút nhan đề "Cỏ lau tóc mẹ" (NXB Thuận Hóa, 2003), cùng hàng trăm bài báo với tay nghề chữ nghĩa sắc sảo... Vẫn lối viết nhỏ nhẻ, nửa mờ nửa tỏ, ấp iu từ một chiếc lá kim, đôi sợi rơm quê đến chút ngẫm ngợi về thế sự nhân tình, tùy bút Nguyễn Xuân Hoàng rủ rỉ xa xót và ngọt ngào từng trang, từng trang rà ruột đến cả… bìa. Hãy nghe Hoàng tả cái khát vọng cuộc đời: "Gọi mùa xuân có hoa mai vàng, nở rưng rức như khóc. Gọi mùa hạ có hoa phượng cháy đỏ, nở như bếp lửa nhà ai iu ấp. Gọi mùa thu có hoa cúc tiết Trùng cửu, hương như đường mê, vàng chưa thôi những ngày tao ngộ. Gọi mùa đông có hoa hoàng hậu nở đỏ se sắt. Xa vắng trên những cội cây cao lung linh một bầy hoa rực rỡ như vương miện" (Gọi). Ồ, thì ra cuộc đời đẹp đến vậy! Lại tưởng, người ta viết về Huế đã mòn, vậy mà Huế hiện lên trong tản văn Nguyễn Xuân Hoàng gần gụi mà hun hút khác thường: "Dường như mỗi người có một cách riêng để yêu hoa. Có người chỉ thích hoa dại. Ven bờ thành nội Huế đẹp nhất là Cổ cò, thân mỏng, hoa trắng, cánh nhỏ, hương ngai ngái xa. Đây cũng là hoa trên bàn khách của những cặp vợ chồng nghèo"…
Đã có một sinh viên Đại học Huế làm luận văn "Huế trong tản văn của Nguyễn Xuân Hoàng…".
Ngồi trò chuyện với Hoàng, nếu ai không đồng cảm sẽ thấy "cha này" hơi dị dị. Bởi Hoàng chẳng những quan tâm đến một thoáng chuông ngân, mấy cọng cỏ thanh trong thơ Đường, mà còn tỉ mẩn đếm từng chiếc lá bàng bên ngoài cửa quán, hoặc cái thân cây này vì sao nhiều sẹo. Đang ngồi trong bữa đặc sản vang lừng, vậy mà chàng ta cứ nằng nặc đòi… xị rượu trắng để lên núi Nhạn sờ tay vào chân tháp cổ. Cái bản tính yêu thiên nhiên đất trời đã in dấu trong từng công chuyện của anh. "Chỉ về lá thôi cũng đã có khối chuyện nói. Đó là những câu chuyện sinh học, nghe rất lý thú. Nó mở ra trong tâm thức một sự sinh tồn triết học đáng nể. Mùa đông sở dĩ nhiều loài cây cho lá rụng là để bảo toàn nước trong thân cây. Đừng nhìn những hàng cây trơ trọi mà nghĩ là cây buồn vì thiếu lá. Rồi lá sẽ mọc lại, còn những chiếc lá cũ sẽ là kỷ niệm, của đời cây" (Trò chuyện với cây xanh). Nhà văn thì buộc phải có một chút lẩn thẩn nhưng đọc đoạn viết trên, tôi chợt thấy cỏ cây cũng như văn Hoàng không vẩn vơ chút nào. Trở về sau đợt đi Tuy Hòa lần ấy, Nguyễn Xuân Hoàng viết "Tháp xưa chim Nhạn bay về"




Đọc văn bạn, chưa chắc là mến bạn. Viết về bạn, chưa chắc là khen bạn. Điều tôi thấy được từ Hoàng là cái sự tự nhiên lẽ thường, hữu xạ tự nhiên hương, mắc mớ chi mà đao to búa lớn. Thể loại tùy bút cũng vậy, mấy ai nên danh nên tướng từ đó. Ừ, ta se sắt mến mộ cuộc đời thì tâm cảm đôi dòng cho đỡ nỗi tan man; có gì đâu một đôi điều bày giải của anh chàng gầy rộc vùng eo. Cái mặt nhậu đã mòn, vậy mà thỉnh thoảng giở đôi tờ báo lại thấy nhàn đàm, tạp bút, tản văn Nguyễn Xuân Hoàng khiêm khiêm xuất hiện; đã bảo có gì phải vội mà văn "cụ" này cứ riết róng bắt mình dán mắt vào rồi ngẫm ngợi lan man. "Ước mơ giản dị nhất, cũng là cao quý nhất của con người vẫn là có nhà ở, có cơm ăn, có áo mặc, và được học hành. Thời đại nào, chính sách nào, cơ chế nào cũng phải xoay quanh cái trục đó, lấy cái trục đó làm tiêu chí định lượng đánh giá sự phát triển. Xa rời tiêu chí đó một giờ, một buổi, một ngày là mất dân, mất lòng dân. Vì vậy mà cổ thư bảo chăn dân lòng sợ hãi như người cầm sợi dây mục mà điều khiển sáu con ngựa. Sách đã ghi vậy ai đọc, ai làm?". Làm chi mà già rứa, Hoàng ơi! Mà dân viết vốn chậm, lại hay cả nghĩ, vậy nên mới ngoài ba mươi cũng buộc già dặn thôi, chứ chả lẽ mãi làm "nhà văn trẻ".
..
Trông vậy chứ Hoàng không phải chỉ là người hướng nội, bởi anh nguyên là một phóng viên, rồi Phó phòng Chương trình Đài Phát thanh Truyền hình Thừa Thiên - Huế, hội viên Hội Nhà văn tỉnh này. Trước khi mất không đầy một năm, Hoàng vừa chuyển qua làm Thư ký tòa soạn Tạp chí Sông Hương. Tôi thấy Hoàng không phù hợp với nghề báo, dẫu nghề này đã giúp anh gặp gỡ và thẩm thấu nhiều điều hay từ những người giàu tư chất

Cõi Hoàng ở lại
"Cõi tạm phù hoa" là tập sách thứ 5 và là cuốn thứ hai của Nguyễn Xuân Hoàng do bạn bè góp tay in. Đầy đặn 360 trang sách với chân dung "người buồn trước tuổi" đằm đặm trên bìa đen trắng. Sau "Hồn mai" (2007) cũng với ngần ấy trang tùy bút do bè bạn góp tay in, lần này là "Cõi tạm phù hoa" với 20 truyện ngắn, 17 bài thơ, 9 chương của cuốn "Bút ký chân dung nhạc sĩ Trịnh Công Sơn" sắp hoàn thành và 8 bài viết của bạn bè về Hoàng. Mới đó mà đã 5 năm, nhà văn của rao rát miền Trung này rời cõi tạm ở tuổi 40. Nguyễn Xuân Hoàng là người con Quảng Ngãi, thành danh tại Huế.
Ở đất Thần Kinh, dân văn nghệ thường lưu truyền "Bạn bè ở Huế thương nhau thiệt/ Một đứa vợ la, cả bọn kinh". Thế nhưng được bạn tương kính như Nguyễn Xuân Hoàng thì không nhiều. Vượt qua bao mè nheo cuộc sống, họ vẫn đăm đắm cái tình với Hoàng, với văn tài của anh. 5 năm, hai cuốn sách tấm lòng đặt trên bàn thờ Hoàng, mà lại in đẹp và trang trọng lắm. Hỏi trong cõi tạm này, ai bằng Hoàng?
Và đời cảm thấy nợ Hoàng chăng? Nhiều khi tôi băn khoăn: Không hiểu Hoàng lấy đâu ra năng lượng để sống và làm việc gấp nhiều như thế? Có lần Hoàng đã trả lời: "Nhờ... cỏ!". Nhưng rồi Hoàng phải đi sớm vì chăng nỗi thương yêu và nỗi buồn đã quá sức bình sinh...

Về tùy bút Hoàng, nhà thơ Mai Bá Ấn viết: "Nếu Nguyễn Tuân ra đi đã trao thể bút ký và tùy bút lại cho Hoàng Phủ, thì người xứng đáng mà sau này Hoàng Phủ trao lại thể loại này, chắc chắn là Nguyễn Xuân Hoàng chứ không ai khác…". Trong truyện ngắn, chất duy mỹ, ôm níu con người của Hoàng lại làm người đọc bất ngờ từ một hướng khác. Truyện ngắn Nguyễn Xuân Hoàng là những nhát cắt ma mị, kết tinh tâm thức của người văn sớm thấu lẽ đời. Cách dựng truyện của anh thoải mái đến nỗi không còn ai nhận ra ấy là bịa. Lối viết không quá câu nệ vào cốt truyện nhưng sâu xoáy hút hồn bằng nhạc cảm, làm tôi liên tưởng đến bút pháp Pauxtốpxki. 

Rồi khi làm thơ (thường thì Hoàng làm thơ để hát mỗi khi uống rượu với bạn bầu), tài hoa nơi anh lại lấp lánh một cõi lạ. "Những bài thơ thương tật/ trên chiếc bàn thương tật/ làm chi/ nếu đời anh không thương tật" (Câu chuyện về thơ); "Tôi đợi bóng quạ mang về đêm tàn/ tôi khát đôi môi em ngày tôi còn sống/ tôi nhớ đắng ngắt miệng môi tôi/ ngày tôi yêu em" (Cho một tương lai); "Đôi khi tâm hồn tôi phiêu lãng thiên đường/ kể cho thân xác nghe câu chuyện về địa ngục/ đôi khi thiên thần gãy cánh / thân xác kể cho tâm hồn nghe câu chuyện thiên đường" (Câu chuyện thiên đường)..
.
Viết tập ký về Trịnh Công Sơn, mỗi câu mỗi chữ của Hoàng ánh lên niềm hạnh ngộ. Anh viết "Bậc thức giả ấy vẫn tiếp tục hành giả, giúp con người thấy rõ gương mặt tình yêu, những hóa thân như có phép chỉ xuất hiện khi ai đó chợt nhận ra những giấc mơ đời hư ảo". Thế là trọn vẹn, có dẫu còn dang dở nhưng đó vẫn là một trong những cuốn sách về Trịnh thành công nhất. Cũng phải thôi, chân tài gặp nhau…

No comments: