Sunday, April 21, 2013

VĂN HỌC VIỆT NAM Ở HẢI NGOẠI





Cho đến nay chưa có sự thống kê chính xác có khoảng 2,7 triệu người Việt Nam đang sinh sống trong gần 90 nước trên thế giới, . Phần lớn chọn Hợp chủng quốc Hoa kỳ và Canada tiếp theo là các quốc gia Âu châu - Pháp, Đức, Ý, Hà Lan và Áo.Số còn lại tìm nơi định cư tại châu Á - ở Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, hay một số nước Châu Phi và Nam Mỹ.

Thời kỳ những năm 1975-1980

gồm có những người đại diện tiêu biểu nhất của văn học nghệ thuật miền Nam Việt Nam trước 1975. Đó là Mặc Đỗ, Nhật Tiến, Bình Nguyên Lộc, Nhã Ca, Duyên Anh, Lê Tất Điều, Nguyễn Mộng Giác, Thanh Nam, Túy Hồng, Nguyễn Tường Bách, Thế Uyên, Linh Bảo Nguyễn Thị Vinh, Phan Lạc Phúc, Du Tử Lê, Viên Linh, Kiệt Tấn, Nguyễn Xuân Hoàng, Phạm Duy( nhạc sĩ), Võ Đình( nhà văn và họa sĩ), Tạ Tỵ( họa sĩ và nhà phê bình), Đinh Cường(họa sĩ

Mặc dầu có sự khởi động của đời sống văn học, không mấy ai trong số các Việt kiều tin tưởng vào sự thành công của sự nghiệp mà họ đã gây dựng. Những lời sau đây của nhà văn Võ Phiến trong phần mở đầu cuốn Thư gửi bạn (1976) cho biết một tâm trạng



“Từ ngày bỏ nước ra đi, tôi đâu còn nghĩ đến chuyện nghệ thuật văn chương nữa” Ông giải thích “ Ai lại nghĩ xây dựng một sự nghiệp văn nghệ trong vòng vài trăm ngàn người, tản mát khăp mặt địa cầu, mỗi ngày một xa lạc ngôn ngữ dân tộc, xa rời cuộc sống dân tộc.” Viết lúc này chỉ là để thỏa mãn một “ nhu cầu lẩm cẩm”.

Thời kỳ thứ hai năm 1980 - 1982

với sự xuất hiện của các "thuyền nhân" Trên các trang của tờ tạp chí "Văn", nhà văn Vũ Khắc Khoan đã nhấn mạnh: "những người này - những "thuyền nhân tị nạn" - bằng sự xuất hiện của mình đã khuấy động văn học và nghệ thuật Việt Nam ở hải ngoại, đã thúc đẩy sự vận động của nó tới một giai đoạn mới trong sự hình thành và phát triển."Những cú sốc tinh thần sâu sắc đã được phản ánh trong sáng tác văn học sau này của họ.

Thời kỳ thứ ba(1982-1990),

Một đời sống văn học thực thụ - phong phú và đa dạng đã xuất hiện . Có thể nói rằng đây là thời kỳ thuận lợi nhất và có kết quả nhất trong lịch sử văn học Việt Nam ở hải ngoại. Số tác giả mới và số lượng sách được xuất bản đã gia tăng, những nhà xuất bản chuyên nghiệp đã ra đời, và

Vào những năm đó số lượng tiểu thuyết được công bố còn ít. Tác phẩm đáng kể nhất trong thể loại này là bộ tiểu thuyết sử thi 5 tập Mùa biển động của Nguyễn Mộng Giác. Truyền thống của tiểu thuyết (theo cách hiểu của Châu Âu về thể loại này) trong văn học Việt Nam còn khá non trẻ do đó, nhiều nhà văn lưu vong bộc lộ mình rõ nét nhất trong các tác phẩm văn xuôi cỡ nhỏ.

thể loại truyện ngắn trở thành thể loại dẫn đầu trong văn học Việt Nam ở hải ngoại. Hầu như tất cả các nhà văn mới đều là những cây bút truyện ngắn, trong số đó trước hết cần phải nêu lên những tên tuổi: Thế Giang, Trần Vũ, Vũ Quỳnh Hương v.v....

Thời kỳ thứ tư (1990-1995)

nhịp độ phát triển văn học Việt Nam ở Mỹ đã chậm lại và ngày càng ít những tác giả mới xuất hiện, ngày càng ít những tác phẩm hay và có giá trị về mặt nghệ thuật được công bố.

Trong giới báo chí hải ngoại, vấn đề về tình trạng đình đốn trong đời sống văn học nghệ thuật của cộng đồng người Việt ở hải ngoại được bàn luận sôi nổi. Và rất nhiều người đã đi đến nhận định cho rằng căn nguyên của nó là những biến đổi chính trị đã diễn ra ở Việt Nam và trên thế giới nói chung đã buộc văn học Việt Nam ở hải ngoại phải thay đổi.

thời kỳ thứ năm từ năm 1995 cho tới nay

Trong sự phát triển văn học của cộng đồng người Việt định cư ở Mỹ và ở một số nước khác nhìn chung gắn bó chủ yếu với những vấn đề sau đây:
Tiếp tục duy trì văn học Việt Nam bằng tiếng mẹ đẻ và bảo tồn những cơ sở văn hoá- văn học Việt Nam đã hình thành tại các nước cư trú hiện nay.
Sự hoà nhập của các tác giả Việt Nam vào đời sống văn học của nước mà họ đang sinh sống (đối với những người viết bằng tiếng Anh ở Mỹ, Canada và úc, bằng tiếng Pháp ở Pháp v.v...
Sự hồi hương (trở về Việt Nam) của các tác giả viết bằng tiếng Việt.
Những khuynh hướng chủ yếu của sự phát triển văn học Việt Nam ở hải ngoại

Hoài niệm và hội nhập

Nếu thử nêu lên vắn tắt tình hình văn học Việt Nam ở hải ngoại thì đó là sự phân chia rạch ròi của các nhà văn ra làm hai khuynh hướng

khuynh hướng hoài niệm.

khuynh hướng hội nhập.

Trong những năm đầu tiên định cư trên đất Mỹ (1975-1979), hoài niệm đã trở thành chủ đề chính trong nhiều tác phẩm của các tác giả Việt Nam mà nét nổi bật là nỗi đau ly tán với quê hương xứ sở, sự cô đơn và sự vô vọng đối với tương lai. Những tình cảm ấy được thể hiện dễ dàng hơn trong thơ so với văn xuôi. Những sáng tác đầu tiên của các tác giả thuộc khuynh hướng này - như Thơ của Cao Tân và "Đất khách" của Thanh Nam .v.v... đã xác nhận điều đó.

Những tình cảm tương tự của những người tị nạn xa xứ cũng được ghi lại trong văn xuôi - trong truyện ngắn và tùy bút của Võ Phiến ( Thư gửi bạn , Nguyên vẹn), của các tác giả khác như Tuý Hồng, Trùng Dương, Thanh Nam. chính thơ ca với hình thưc thích hợp về mặt thể loại và hình tượng đã cho phép thực hiện một cách kịp thời nhất một nhiệm vụ khó khăn là thông báo cho những người đồng hương xa xứ về nỗi đau khôn nguôi của mình đối với cố hương.

Dần dần, nét lạc quan đã trở lại với thơ ca hải ngoại, phạm vi những vấn đề do các tác giả đề cập tới được mở rộng và (điều này rất tiêu biểu) trình độ tư tưởng- nghệ thuật của tác phẩm được nâng cao rõ rệt. Niềm tin vào sức mình đã trở lại với mọi người. Cuộc sống của họ ở xứ lạ bắt đầu có ý nghĩa, và điều đó thực ra đã được phản ảnh trong văn học.

Những thay đổi ấy thể hiện rõ nét nhất trong truyện ngắn của Hồ Trường An, tiêu biểu nhất trong số đó là Hợp lưu. Trong những truyện ngắn của mình, tác giả mong muốn truyền đạt nhịp độ và tâm trạng của cuộc sống mới, ở đó nỗi buồn và tiếng cười xen kẽ bên nhau, sự chiêm nghiệm trầm tư và sự hào hứng lao động "như Tây" vì hạnh phúc và sự phồn vinh tương lai của mình ở Mỹ ngày càng có hiệu quả. Nhờ những tác phẩm ấy, như nhận xét của một số nhà phê bình văn học, thái độ đối với quá khứ được ý thức một cách hợp lý hơn, còn thái đội đối với hiện tại và tương lai thì trở nên điềm tĩnh hơn.

Hiện thực dân tộc, hồi ký và tư liệu lịch sử

Ngay từ đợt di tản thứ nhất, trong văn học Việt Nam ở hải ngoại đã hình thành khá rõ ba dòng

Dòng văn chương phong tục

gồm đại đa số tác giả là người miền Nam Việt Nam. chủ yếu là thể loại truyện ngắn gắn liền vói cuộc sống hàng ngày của tầng lớp dân nghèo và trung lưu trong những năm dưới chế độ thuộc địa của Pháp (Hồ Trường An, Xuân Vũ, Ngô Nguyên Dũng, Huyền Châu, Nguyễn Văn Ba), trong thời kỳ tồn tại của chế độ Việt Nam cộng hoà trước ngày 30/4/1975 (Kiệt Tấn, Hồ Trường An, Nguyễn Tấn Hùng) cũng như trong những điều kiện của chế độ xã hội chủ nghĩa mới sau khi nước Việt Nam thống nhất (Nguyễn Đức Lạp, Võ Kỳ Điện, Nguyễn Văn Sâm). Bên cạnh sự phong phú của những chi tiết sinh hoạt rực rỡ, giàu hình ảnh của cuộc sống quá khứ ấy, họ đã sử dụng rộng rãi "ngôn ngữ hội thoại", điều đó rõ ràng góp phần thúc đẩy sự phát triển hơn nữa của văn học Việt Nam ở hải ngoại, trước hết đối với việc giải quyết những nhiệm vụ sáng tác về mặt tư tưởng- nghệ thuật và triết học.

Dòng hồi ký

được hình thành cùng một lúc với việc cuộc sống của họ dần dần ổn định về mặt kinh tế ở Tân thế giới. Những cuốn sách này đã ghi lại quá khứ mới đây của nhiều nhân vật cao cấp trong chính quyền Sài Gòn cũ các tướng lĩnh (Nguyễn Cao Kỳ, Đỗ Mậu, Nguyễn Chánh Thi, Huỳnh Văn Cao, Trần Ngọc Nhuận v.v...) các chính khách (Bùi Diễm, Nguyễn Tiến Hưng, Trần Huỳnh Châu) và các văn nghệ sĩ (Phạm Duy, Duyên Anh, Nhã Ca). Tất cả những cuốn sách ấy chứa đựng (chăc chắn là ở mức độ khác nhau) tư liệu phong phú về các sự kiện và những cách đánh giá cá nhân rất đáng chú ý Tuy nhiên kinh nghiệm sống và sáng tác của họ chưa vươn tới tầm khái quát cao mang tính chất triết lý nghệ thuật cũng như chưa được tạo dựng để đưa họ trở thành các nghệ sĩ ngôn từ.

Dòng tư liệu-lịch sử

Có mối liên hệ trực tiếp với dòng hồi ký là những tác phẩm viết về đề tài lịch sử. Cho đến tận ngày nay, nội dung chủ yếu của văn học Việt Nam ở hải ngoại là quá khứ vốn có thể được lý giải và được phản ảnh thông qua số phận cụ thể của từng con người riêng biệt cụ thể cũng như dưới dạng tác phẩm sử thi đồ sộ.

Một cống hiến không thể phủ nhận là những cuốn tiểu thuyết Mùa biển động và Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác, Người đi trên mây của Nguyễn Xuân Hoàng, Giấc mộng của Nguyên Sa v.v... Cũng phải nhắc tới những tác giả như Thích Nhất Hạnh và Nghiêm Xuân Hồng là những người viết về các vấn đề tôn giáo triết học. Sách của họ, mặc dầu mang tính chuyên biệt nhất địnđ nhưng được phổ biến rộng rãi tới độc giả.

Sự phát triển văn học Việt Nam ở hải ngoại

Khác với các tác giả được định hướng về mặt quan niệm và sáng tác vào những vấn đề của quá khứ (về họ đã được nói tới ở phần trên), khuynh hướng hội nhập trong văn học Việt Nam ở hải ngoại dần dần chiếm những vị trí đáng kể trong những quá trình xã hội và sáng tác đang diễn ra trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Và hiện tượng này có tính chất lô gích. Thế hệ đầu tiên của những người di tản vốn được định hướng vào những gia trị văn hoá truyền thống của Việt Nam và trước hết vào tiếng Việt, ngày một già đi, trong khi đó các thế hệ tiếp theo (thế hệ thứ hai và nhất là thế hệ thứ ba) ngày càng được Mỹ hoá và hầu như không gắn bó tương lai của mình với Việt Nam (mặc dầu ngay cả ở đây cũng có những ngoại lệ).

Nếu chú ý tới sự thống kê thì đa số tác tác phẩm viết về kinh nghiệm hội nhập của người Việt Nam vào cuộc sống Mỹ là do phụ nữ viết. Đó là Vị Khuê, Trần Diệu Hằng, Lê Thị Huệ, Phan Thị Trọng Tuyền, Vi Quỳnh Hương, Nguyễn Thị Ngọc Nhung v.v... Trong số các nhà văn nam giới viết về vấn đề này có Võ Phiến ("Thư gửi bạn "), Nguyễn Bá Trạc ("Ngọn cỏ bồng", "Chuyện một người di cư nhức đầu vừa phải") Võ Đình ("Xứ sấm sét", "Sao có tiếng sóng") v.v...viết về sự tan vỡ của cuộc sống yên ổn trước đây, những khó khăn của thế hệ những người di tản đầu tiên do sự khác biệt về văn hoá và ngôn ngữ nên không thể hoà nhập nhanh chóng vào hiện thực Mỹ, sự cô đơn của người già, sự suy thoái hoá về đạo đức, hiện tượng lớp trẻ rút khỏi "cộng đồng người Việt", sự tan nát của gia đình, sự phân hoá xã hội sâu sắc trong nội bộ cộng đồng di tản v.v....

Kinh nghiệm hội nhập vào cuộc sống trở thành đề tài chủ yếu trong các tác phẩm (phần lớn là truyện ngắn) của các nhà văn thuộc thế hệ thứ hai viết bằng tiếng Việt và bây giờ đã từ 40 tuổi đến 50 tuổi trở lên.

Ở Mỹ đó là Phạm Thị Ngọc, Nguyễn Hoàng Nam, Ngọc Khôi, Hoàng Mai Đạt, Dương Như Nguyện, Vũ Quỳnh N.H. Đỗ Kh., Bùi Diễm Âu, Võ Đình, Phan Nhiên Hạo, Nguyễn Hương, Nguyễn Danh Bằng;

ở Pháp đó là - Thuỵ Khê, Trần Vũ, Mai Ninh, Thuận;

ở Canada, đó là - Nam Giao; ở Úc đó là - Hoàng Ngọc Tuân và Nguyễn Hưng Quốc; ở Đức đó là - Lê Minh Hà v.v...

Trong tác phẩm của họ có ít cốt truyện về cuộc sống trước đây ở Tổ quốc, bởi lẽ họ đã ra đi từ hồi còn nhỏ và đối với họ, Việt Nam không phải là cái cảm nhận được và cái mong muốn như đối với thế hệ cha anh của họ. Bởi vậy họ viết về cuộc sống hiện tại của mình, dù đó là Mỹ, Pháp hoặc Nhật, xuất phát từ tình hình thực tế của cái thế giới hiện đại bao quanh họ. Họ rất tự tin, thoải mái trong việc thể hiện tình cảm và bộc lộ những nhận định. Sáng tác văn học không phải là cái chủ yếu trong hoạt động thực tiễn của họ, họ không đóng vai trò chủ chốt trong đời sống văn học của cộng đồng người di tản, tất cả những nỗ lực của họ đều hướng tới sự thành đạt trong xã hội mới. Khác với các nhà văn thuộc thế hệ đầu tiên, đối với nhiều người trong số họ, văn học chủ yếu là sự tiêu khiển, sự giải trí về mặt tinh thần mà không phải là nhu cầu bức thiết của cuộc sống. Hơn nữa, họ đang ở trong một tình thế đặc biệt - họ cần phải đi tìm độc giả của mình vốn, cũng như họ, thuộc về cái thế hệ mà họ có thể chia sẻ những suy nghĩ và tình cảm của mình thông qua các tác phẩm viết bằng tiếng Việt.

Không phải tất cả các nhà văn này nhất quán đi theo con đường đó - viết bằng tiếng Việt. Một bộ phận không nhỏ đã hoặc sẽ nhanh chóng chuyển sang tiếng Anh, tiếng Pháp hoặc các thứ tiếng khác với tư cách là công cụ sáng tác và giao tiếp, bởi lẽ sự lựa chọn này giúp họ hoà nhập vào dòng chảy chung của văn học ở nước họ định cư và vào văn học thế giới nói chung. Nói một cách hình tượng, họ đang tìm sự cân bằng giữa hai thế hệ - thế hệ thứ nhất, lớn tuổi hơn và thế hệ tiếp theo sau họ, trẻ hơn, vốn hoàn toàn hướng tới sự hội nhập vào môi trường mới và ngôn ngữ mới. Cùng với thế hệ đầu tiên, họ sẻ chia lòng yêu mến tiếng Việt, nhưng không xẻ chia gánh nặng tình cảm đối với quá khứ. Cùng với thế hệ thanh niên, họ tiếp nhận một cách thực tế và thực dụng cuộc sống mà hiện nay họ phụ thuộc, nhưng tuy thế trong văn học họ bị ngăn cách bởi rào cản ngôn ngữ- bởi tiếng Anh, tiếng Pháp hay tiếng Đức. Hiện ở bên ngoài lãnh thổ Việt Nam đã hình thành cả một đội ngũ nhà văn đồng thời thuộc về hai nền văn hoá - văn hoá Việt Nam và văn hoá của nước mà nhà văn định cư. Ở Mỹ, một tác giả tiêu biểu nhất của văn học Việt Mỹ- là Andrew Lam- một nhà chính luận nổi tiếng và một cây bút chuyên viết truyện ngắn bằng tiếng Anh cũng như Monich Trương, Aimee Phan, Lan Cao, Kien Nguyễn, Lê Thị Diễm Thuý, Dao Strom, Nguyễn Minh Bit, Mộng Lan v.v... Kim Lefevr và Linda Le đã viết những áng văn xuôi rất hay bằng tiếng Pháp. Những tác giả thuộc khuynh hướng này đã thu hút được sự chú ý của những nhà xuất bản sách và giới phê bình, đã nhận được các giải thưởng quốc tế.

 Tương lai thuộc về độc giả (thay phần kết luận)

Tác phẩm văn học còn sống khi nó được mọi người đọc. Nếu không có độc giả thì văn học ắt bị lãng quên. Bậc trưởng lão của văn học Việt Nam ở hải ngoại là Võ Phiến đã nhiều lần nói rằng ở chốn xa xứ, văn học Việt Nam viết bằng tiếng mẹ đẻ (tiếng Việt) không thể tồn tại lâu dài được nếu không có mối liên hệ với cội rễ của nó, tức là với Việt Nam. Nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc đã biểu thị tình trạng đó một cách bi đát hơn: Lưu vong thường được mở đầu bằng một bi kịch chích trị hoặc một bi kịch kinh tế nhưng kết thúc bằng bi kịch văn hoá. Càng ngày tôi càng thấm thía một điều : Sống và viết ở hải ngoại không phải chỉ là sống và viết ở hải ngoại. Khi nhà văn rời quê hương để ra định cư và sáng tác ở một chỗ ở và một bàn viết mà còn thay đổi một thế giới với mối liên hệ chằng chịt phức tạp để rồi - một cách tự giác hay không - dần dần thay đổi cách nghĩ, cách cảm từ đó cách viết và cuối cùng, không chóng thì chầy, thay đổi cả căn cước (identity) của chính hắn với tư cách nhà văn nữa" 12

Để không bị lâm vào tình thế của sự lựa chọn cơ bản như vậy, nhiều nhà văn Việt Nam ở hải ngoại đem tương lai tác phẩm văn học của mình gắn liền với công chúng độc giả ở Việt Nam, song điều đó không đơn giản. Hơn nữa, chúng tôi nhận thấy rằng sách báo của nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa thì có thể dễ dàng tìm thấy trong các thư viện và hiệu sách (chủ yếu của Việt kiều) ở Mỹ, còn tác phẩm của các tác giả người Việt ở hải ngoại thì rất hãn hữu được xuất bản ở Việt Nam, và nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này trước hết là nguyên nhân ý thức hệ.

Nhà thơ Ba Lan nổi tiếng Milos Forman, giải thưởng Nobel, nhiều năm sống lưu vong ở My và cuối đời đã trở về Tổ quốc, từng nói về số phận của nhà văn lưu vong: "Chúng ta không nghe thấy tiếng nói của nhà văn lưu vong, đó chỉ là một động tác mà thôi", tức là nhà văn đó và tác phẩm của anh ta trên thực tiễn không đến được với độc giả của mình ở trong nước. Song vào những năm gần đây tình hình trên thế giới đã thay đổi: đã xuất hiện Internet vốn vượt qua những khoảng cách khổng lồ và những biên giới quốc gia. Hiện nay tồn tại không ít kiểu xuất bản Internet, qua đó văn học Việt Nam ở hải ngoại đã tới được Việt Nam. Tất nhiên nó không thể thay thế được kiểu xuất bản in ấn; ngoài ra, ở Việt Nam còn có sự kiểm duyệt khắt khe và sự giám sát của nhà nước đối với Internet vốn có thể cung cấp thông tin và sự tiếp cận với các tác phẩm văn học. Nổi tiếng hơn cả là hai tờ tạp chí mạng - Talawas (người phụ trách là nhà văn nữ có tên tuổi Phạm Thị Hoài hiện sống ở Đức) và Tiền Vệ (người phụ trách là nhà phê bình văn học nổi tiếng Nguyễn Hưng Quốc, hiện sống ở Úc) Nhiều tờ tạp chí in ấn ("Hợp lưu", "Văn học", v.v.) cũng có mạng riêng.

Ở Việt Nam hiện nay rõ ràng có sự chú ý tới sáng tác văn học của kiều bào đang sinh sống ở hải ngoại. Điều này được thể hiện trong một số bài viết hiếm hoi trên báo chí cũng như trong việc xuất bản sách của chính các Việt kiều.:

Trong thời gian gần đây, Trung tâm Văn hoá và ngôn ngữ Đông Tây, các công ty "Phương Nam" và "Nhã Nam", các nhà xuất bản của nhà nước, đã có những nỗ lực tích cực trong việc xuất bản ở Việt Nam tác phẩm của các tác giả Việt Nam ở hải ngoại. Trên con đường này cũng có những trở ngại nhất định, đó chính là

1. Thiếu sự chuẩn bị cho các tác giả Việt Nam để tiếp thu nội dung và những đặc điểm về phong cách nghệ thuật trong các tác phẩm của các tác giả hải ngoại,

2. Sự giám sát ngặt nghèo từ phía các cơ quan nhà nước đối với các tác phẩm "có những vấn đề chính trị "

Tuy vậy việc công bố tác phẩm của các nhà văn lưu vong Việt Nam trên Tổ quốc của họ mỗi ngày một trở nên nhiều hơn.

Chẳng hạn, giáo sư Nam Dao hiện sống ở Canada là tác giả hai cuốn tiểu thuyết được in ở Việt Nam - "Trăng nguyên sơ" và "Đất -- trời".Cây bút văn xuôi Đỗ Kh. thường xuyên sống ở Mỹ. Ở Việt Nam nhà xuất bản Văn hoá thông tin đã cho ra mắt độc giả cuốn " Ký sự đi Tây". Cuốn sách này bán rất chạy và mới đây đã được tái bản. Bộ tiểu thuyết sử thi gồm 4 tập "Sông Côn mùa lũ" của Nguyễn Mộng Giác được xuất bản tại Việt Nam . văn xuôi của Mai Ninh ("Ảo đăng"), khảo cứu triết học "Tư duy tự do" của Phan Huy Đường, khảo cứu lịch sử "Thần, người và đất Việt" của Tạ Chí Đại Trường, chuyên luận khoa học "Tôn giáo và xã hội hiện đại" của Cao Huy Thuần. Tại thành phố Hồ Chí Minh có in tập thơ của nhà thơ nổi tiếng Du Tử Lê hiện đang sống ở Mỹ. Nhà văn trẻ. Phan Việt ở Mỹ được trao giải nhì cho tập truyện ngắn Phù phiếm truyện tại cuộc thi "Văn học tuổi 20" do báo Tuổi trẻ" và Nhà xuất bản Trẻ (thành phố Hồ Chí Minh) tổ chức. Nữ văn sĩ Thuận hiện sống ở Paris. Cuốn mất tích được Hội Nhà văn Việt Nam trao giải thưởng vào năm 2005. Hai năm sau, một nữ văn sĩ Việt kiều khác là Đoàn Minh Phượng cũng nhận được giải thưởng tương tự về cuốn tiểu thuyết "Và khi tro bụi". Ở tuổi 20, chị đã dời khỏi Việt Nam để sang Đức.

Rõ ràng là văn học Việt Nam ở hải ngoại rất khó sống nếu thiếu công chúng độc giả ở Việt Nam. Quá trình toàn cầu hoá về kinh tế và văn hoá vốn càng ngày càng có sức cuốn hút mạnh mẽ đối với Việt góp phần thúc đẩy bắc những nhịp cầu giữa văn học ở trong nước và văn học ở ngoài

         

No comments: