Nõ Nường: Phồn thực và "linh tinh tình
phộc"
...Nữ cầm cái Nường đưa lên, nam cầm Nõ
“phộc’’ vào và phải làm ba lần như thế. Trong đêm tối, chủ tế nghe “cạch’’ đủ
ba tiếng đèn sáng lại. Phút ấy gọi là phút “thiêng’’, “dập’’ chiêng trống để
mừng và kính cáo với thần linh, thiên địa biết “lễ mật tắt đèn’’ đã thành
công...
“Trò Trám’’ là tên gọi của địa phương, giới
nghiên cứu gọi lễ hội “phồn thực’’, còn chúng tôi gọi lễ hội “Nõ Nường’’- tức
lễ hội “vòng đời” - là loại hình sinh
hoạt cộng đồng cổ xưa nhất còn truyền kỳ lại đến ngày nay; nơi tập trung các
hình thái hoạt động “ hèm tục’’ hàm chứa bản sắc văn hoá cộng đồng - rõ nét cá
biệt của từng địa phương.
Đặc điểm của lễ hội “vòng đời’’- Trò Trám là
“lễ mật’’, “tắt đèn” xướng diễn trò “linh tinh tình phộc” vào giờ “lành” nửa
đêm (giờ tý). Hôm sau tiến hành lễ rước lúa “thần’’ và mở hội trình trò Tứ dân:
“Sĩ, Nông, Công, Thương’’ để minh giải diễn trình tư tưởng của lễ hội trên các
“kênh” khác nhau: phạm trù tâm linh và hiện thực. Ở đây, động thái “linh tinh
tình phộc” và “chày cối” là hiện tượng “tục hèm” trừ đuổi tà ma triệt tiêu hiểm
hoạ, cho vật thịnh dân an xóm làng trù phú “khuyển kệ minh kê”. Về tính hiện
thực, động thái “linh tinh tình phộc’’ đó là phút “ khởi nguyên’’ sự sống cho
một vòng đời, nên gọi là lễ “cầu đinh”.
1. Miếu trò xóm Trám
Một ngôi miếu cổ ẩn mình bên ngòi nước trong
khu rừng Trám, ở đây (cứ 2 hoặc 4 năm 1 lần – năm chẵn ) vào đầu xuân, nhân dân
mở lễ hội diễn nhiều tích trò, nên gọi là miếu Trò, còn vì miếu Trò nằm trong
rừng Trám nên gọi là miếu Trò Trám (nay rừng Trám không còn). Và xóm ở cạnh
cũng gọi xóm Trám, hay Phường Trám, tên chữ xóm Cổ Lãm, thuộc làng có tên tục
là Kẻ Gáp, tên chữ là Thạch Cáp, nay là xã Tứ Xã (có 32 xóm trong đó xóm Trám
và xóm Bùi có đầu tiên) nằm trong vùng di tích đồ đá cũ của người Việt cổ như
Gò Mun, Đồng Đậu con ,v.v… ở huyện Lâm Thao tỉnh Phú Thọ. Cách Đền Hùng khoảng
5km về phía đông nam và nằm bên bờ tả ngạn sông Thao, trước đây chưa có con đê
thì Tứ Xã là vùng đồng trũng ngập nước, thỉnh thoảng nổi nên những đồi gò (chỗ
ở của người Việt cổ), lúa chỉ làm một vụ, quanh năm sinh sống bằng nghề vó bè,
cá mú nên chuyện tát hôi hay được nhắc đến trong hát Trò Trám:
Không đâu vui bằng phường ta
Đàn ông đi tát đàn bà đi hôi
2. Lễ mật giờ lành
Miếu Trò thờ vật linh - sinh thực, tên tục
gọi là bà “ Đụ Đị’’ (Dụ Dị) tên nôm Nõ Nường (hình 2) làm vật “hèm’’ để trừ tà,
đuổi ma, triệt tiêu hiểm họa tai ương, cầu yên cầu phúc, cầu lộc cầu tài.
Linh vật “nõ - nường”.
Tiến trình của lễ: Lễ mật tắt đèn, xướng diễn
trò “linh tinh tình phộc’’
Tiến trình của hội: Rước lúa “thần’’ trình
trò Tữ dân, lời ca Nõ Nường.
Đặc điểm của lễ: Linh thiêng huyền bí thần
chú vật hèm .
Đặc điểm của hội: Trò -vè - hí tiếu - trêu -
ghẹo - múa vui
Nghĩa là toàn bộ trò diễn ở đây đều phải tuân
theo chức năng hoạt động của Nõ Nường “ linh tinh tình phộc’’ - tức là “Đụ
Đị’’. “Đụ Đị’’ là ngôn từ thuộc tầng ngôn ngữ cổ, ngữ nghĩa của nó hiện nay ở
miền Trung đang còn hiểu: “Đụ’’ vừa là hành động, vừa là hình vật - cái Nõ, còn
“đị’’ là hình ba góc - cái Nường.
Dân ca Miền Nam có câu:
Bông xanh bông trắng
Rồi lại vàng bông
Ơ “Nường’’ ơi !
Chữ “Nường’’ ở đây là tên gọi theo đặc điểm của giới tính cái (Nõ
Nường), do đó giới nghiên cứu gọi lễ hội này là lễ hội “Phồn thực’’- nghĩa hẹp,
chúng tôi gọi lễ hội “Nõ Nường’’( vòng đời) - nghĩa rộng - Nõ Nường là biểu
tượng CON NGƯỜI.
Lễ hội kéo dài một đêm và một ngày: bắt đầu vào tối ngày 11 và kết thúc
vào chiều ngày 12 tháng giêng âm lịch. Các trò diễn ra trong lễ ngoài hội, theo
tuần tự. Đầu hôm ngày 11 gọi là cáo tế, dâng sớ.
Sau lễ cáo tế dâng sớ có lễ hát cúng đệm “đàn giằng xay’’ do cụ Từ thể
hiện, đồng thời có lễ chầu chực .
Lễ chầu chực là ngồi ngóng đợi giờ lành gồm các bô lão và do chức sắc
phân làm hai nhóm: nhóm chức sắc cao thì ngồi cùng cụ Từ hát thờ ở miếu, nhóm
chức sắc thấp thì ngồi ở điếm Trám - cách miếu trò khoảng 200m (có cả đôi trò
đã hoá trang , đến giờ thì một bô lão dẫn vào miếu ). Nghe tiếng gà gáy là nửa
đêm, đến giờ lành (giờ tý) bước vào giờ chính lễ “Lễ mật’’.
Nghi lễ: “linh tinh phộc”.
Trước linh vị thần miếu - thần Nõ Nường, “ đôi trò’’ nam thanh, nữ tú
đứng sau chủ tế, hướng mặt vào nhau, sẵn sàng đợi lệnh diễn trò. Chủ tế, sau
khi khấn xong lời thần chú - cầu xin, gieo quẻ âm dương và lạy xong ba lạy thì
bước lên cạnh bàn thờ, mở hòm lấy vật “hèm’’ (ngày trước vật hèm là cái mo nang
và dùi gỗ vông, xong việc thì thả xuống hồ ngâm lấy nước tưới ruộng, để diệt
trừ sâu rầy cho mùa màng cây trái xum xuê (thời chưa có thuốc trừ sâu); nay làm
bằng gỗ, sơn đỏ, xong việc là cất vào hòm đặt trong tủ, để trên gác xép sau bàn
thờ, còn gọi là bàn thờ thượng, có cầu thang, đến giờ chủ tế lên bê xuống lấy
Nõ trao cho nam, lấy Nường trao cho nữ, rồi bước ngang sang phải (bàn thờ) ba
bước, quay lại, chếch hướng về đôi trò, miệng hô: “linh tinh tình phộc’’ đồng
thời hai tay khoát lên tạo thanh hình chữ “V’’ trước trán - đèn tắt, tuần tự hô
ba lần.
Theo lệnh tuần tự của mỗi lần hô, đôi trò vừa múa (đứng tại chỗ, hai tay
cầm vật “hèm’’ đưa sang đưa về) miệng hát:
Bên kia có nứng cùng chăng.
Bên này lủng lẳng như giằng cối xay
Hát xong hai câu này thì nữ cầm cái Nường đưa lên, nam cầm Nõ “phộc’’
vào và phải làm ba lần như thế. Trong đêm tối, chủ tế nghe “cạch’’ đủ ba tiếng
đèn sáng lại. Phút ấy gọi là phút “thiêng’’, “dập’’ chiêng trống để mừng và
kính cáo với thần linh, thiên địa biết “lễ mật tắt đèn’’ đã thành công. Sau đó
chủ tế dẫn đầu “đám trò’’ chạy quanh miếu ba vòng theo ngược chiều kim đồng hồ,
theo sau là dân làng: vừa chạy vừa la hét và gõ dùi vào mẹt để đuổi ma quỷ trừ
hiểm họa cả năm cho dân làng, cùng mùa màng cây trái và gia súc...
Khi nghe hiệu chiêng trống “dập’’ và tiếng la hét ở ngoài miếu thì số
người ở nhà trong phường cũng đồng loạt “gõ’’ dùi vào mẹt hoặc dùng chày “giã’’
vào cối và la hét theo để đuổi ma quỷ. Sau đó những đôi vợ chồng cũng phải thực
hiện lễ thức “tình phộc’’ và những đôi nam nữ cùng dân làng đang ở quanh rừng
Trám ngoài miếu, cũng phải thực hiện lễ thức “tình phộc’’ bổ sung “bồi’’ thêm,
và ngày mai trong hội hát trình nghề Tứ dân chi nghiệp, cái nọ “phộc’’ vào cái
kia và lời ca ẩn ngữ Nõ Nường lại “bồi’’ thêm lần nữa “quá tam ba bận’’. Tức là
“tôi luyện’’ cho vật “hèm’’ đầy đủ linh nghiệm, thần hộ mệnh của toàn phường.
Tình phộc ngoài rừng Trám
Theo phong tục ngoài rừng trám các đôi trai gái và dân làng, cũng thực
hiện lễ thức “ tình phộc’’ và nữ phải giữ một vật của nam để làm tin như khăn
đội đầu.
Cô nào có chửa trong dịp đó là lễ “hèm’’ của làng thành công, đem lại
điều may mắn cả năm cho gia đình và toàn phường. Phường sẽ đứng ra lo liệu tổ
chức lễ cưới cho họ và không phải nộp khoản tiền “cheo’’. Đứa con sinh ra trong
dịp “lễ mật’’ này là của quí, vật cưng của gia đình và toàn phường. Ngoài ra,
cô gái có chửa ấy, nếu từ chối lấy anh gặp tối qua, mà muốn lấy một anh khác
thì dân làng cũng vận động người con trai đó và anh ta cũng rất vui vẻ tự
nguyện. Đồng thời những bà mà có chửa trong đêm đó thì gia đình càng phấn khởi
với câu châm ngôn: Cá ao ai về ao ta, ta được.
Việc “tình phộc’’ ngoài rừng Trám sau “lễ mật’’ các già làng kể lại với
nhiều tình tiết sinh động hấp dẫn, rằng: dù gặp bà Chánh Lý thì cũng thế, vì đi
hội là phải theo hội để được “vật thịnh dân an’’. Có những đôi nam nữ sau đó
thành chồng vợ và họ đã qua đời vài chục năm nay; vì tục “Tình phộc’’này đến
đầu thế kỷ XX đã tàn, không diễn ra nữa.
3. Lời ca ẩn ngữ Nõ Nường
Lễ hội Trò Trám là “Lễ hội Nõ Nường’’ do đó toàn bộ tích trò diễn ra ở
đây đều tuân theo chức năng hoạt động của Nõ Nường “linh tinh tình phộc’’. Vì
thế, nếu lễ hội tại miếu thờ cụ Tổ nghề mộc, thì việc cưa, đục, đó là công việc
của nghề thợ mộc. Trái lại, ở lễ hội Nõ Nường thì cái cưa “xẻ’’ gỗ, cái đục “
đục’’ gỗ là tượng trưng cho Nõ “ phộc’’ vào Nường; hoặc Sĩ chiếc bút “quyệt’’
vào nghiên mực, Nông cái cày “cắm’’ xuống đất, cần câu lưỡi “móc’’ vào mồm
cá... và lời ca của nhóm “tứ dân chi nghiệp’’ (Sĩ, Nông, Công, Thương) cũng đều
ám chỉ việc Nõ “ phộc’’ vào Nường. Lời ca có trên 350 câu thơ Lục bát không kể
lời ứng tác tức thì. Xin trích lời ca của một số vai diễn sau đây:
Lời ca của cây đàn “Giằng xay’’. Đàn “Giằng xay’’ biểu tượng Nõ Nường,
nhân vật trung tâm, giữ vai trò lĩnh xướng trong các vai diễn ở đây.
Đàn ông tậu ruộng ba bờ
Chớ để kẻ khác mang lờ đến đơm
Ruộng ba bờ là hình ba góc - cái “Nường’’ và “Lờ’’ là cái Nõ
Hoặc lời ca của người thợ cày:
Nhà ta vui cấy,
vui cầy
Làm ăn vất vả tối
ngày không thôi
Mong sao như đũa
có đôi
Tháng năm năm
việc, tháng mười mười công
Ý phiếm chỉ ở đây
là chữ “cấy” và chữ “cày” khi hát được nhấn mạnh.
Hoặc lời ca của
người thợ cấy:
Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy lấy ông chủ nhà
Đi cấy thì gốc chổng lên
Ngọn thời cắm xuống mới nên mùa màng
Trong đoạn hát của người thợ cấy có những từ
“gốc” và “ngọn” đều là ẩn ngữ, phiếm chỉ về sự hoạt động của Nõ Nường: ngọn cỏ
“cắm xuống” mới nên mùa màng, hoặc “lấy ông chủ nhà” là chồng mình - nghĩa là
chị ta đi cấy ruộng nhà. Nếu rạch ròi ra thì cả đoạn này đều mang tính ẩn ngữ.
Hoặc lời ca của cô mua bán “xuân”:
Còn xuân thì mua xuân đi,
Nay lần mai lữa
còn gì là xuân
“Bán” và “mua”
đều ở một chữ “xuân”.
Hoặc lời ca của
anh đi câu:
Cành câu trúc anh đúc lưỡi câu vàng
Anh tra mồi nguộc[i] anh sang câu hồ
Người ta câu diếc câu rô
Anh đây câu lấy một cô không chồng
Có chồng thì nhả mồi ra
Không chồng thì cắn, thì nuốt, thì tha lấy
mồi
Hoặc lời hát của anh cung bông:
Mặc ai căng lưới ngọn bè
Anh người phường Trám làm nghề cung bông
Cô nào bông cán đã xong
Muốn đi kịp chợ đón cung anh vào
Lời của chị kéo sợi:
Xin đừng quản thấp lo cao
Bông em đã nỏ anh vào mà cung
Sợi lôi ra bằng cổ chày
Phường chài đón hỏi mua dây kéo thuyền.
Trong đoạn này, chữ “cung anh” và “bông em”
hoặc sợi bằng “cổ chày”... đều là ẩn ngữ.
Hoặc lời ca của anh thợ xẻ:
Người ta xẻ gỗ trên ngàn
Anh đây cưa lấy một nàng đương tơ
Em tài bắt chệch sớm trưa
Anh thì giỏi xẻ khéo cưa cùng phường
Ở đây các chữ “cưa”, “xẻ”, “bắt chệch” đều là
ẩn ngữ.
Hoặc lời ca của thầy đồ và học trò:
Học trò đi học sách kinh
Tay cầm quản bút “quyệt” tình nghiên đây
Học trò đi học chữ thầy
Học nhồi học nhét bụng đầy văn chương.
Lễ hội Nõ Nường là lễ hội ngợi ca về sự cường
tráng và hoạt động “linh tinh tình phộc” của Nõ Nường “vật hèm”: Nõ to và dài
như “giằng cối xay” còn Nường thì rộng và sâu như “cối xay lúa’’đó là biểu
tượng. Ở đây không còn quan niệm “dâm” và “tục” nữa.
Lời ca của nhóm hề pha trò:
- Gặp đây anh mới hỏi nàng
Cái gì lủng lẳng một gang trong quần
- Chàng hỏi thì thiếp thưa rằng
Cái đeo lủng lẳng là “giằng cối xay”.
- Ước gì em hoá ra trâu
Anh hoá ra chạc xỏ nhau cả ngày.
- Ước gì em hoá lưỡi cày
Anh hoá thành bắp lắp ngay bây giờ
- Bà già như ruộng đỉnh gò
Đang hạng con gái như kho ruộng mềm.
Lễ hội Nõ Nường Trò Trám thuộc dòng lễ hội
tục hèm, mang đậm đà bản sắc văn hoá của người Việt cổ. Nó được ra đời rất sớm,
từ thời dân tộc ta mới hình thành tư tưởng. Đến thời đại văn minh Đông Sơn,
dòng lễ hội vòng đời này được hoàn thiện về ý nghiã và nghệ thuật, được ghi lại
thành hoa văn trên mặt trống đồng Ngọc Lũ và lan toả, truyền kỳ trong văn hoá
đân tộc. Ngày nay việc tìm hiểu và bảo tồn dòng lễ hội này đó là điều cần thiết
trong hội nhập quốc tế của đất nước ta.
nguồn D.Đ.M.S
[i] (*): nguộc là
con chẫu chuộc
No comments:
Post a Comment