Thân sinh của Cao
Bá Quát là ông đồ Cao Hữu Chiếu - một danh nho tuy không đỗ đạt gì. Ông
hướng con cái vào đường khoa cử với rất nhiều kỳ vọng. Đời Chu có 8 kẻ sĩ :
Bá Đạt - Bá Quát, Trọng Đột - Trọng Hốt; Thúc Dạ - Thúc Hạ, Quý Tuỳ -
Quý Đa. Tám hiền sĩ đời Chu này đều là bốn cặp sinh đôi. Ông chọn hai
tên trong tám kẻ sĩ đời Chu đặt tên cho hai đứa con sinh đôi của mình: Cao
Bá Đạt, Cao Bá Quát là muốn cho hai con sẽ trở thành những bậc hiền tài
giúp nước. Cao Bá Quát đặt tên tự cho mình là Chu thần (quan nhà
Chu) cũng ngụ ý đó.
Năm 1841, nhân một
khoa thi hương – ân khoa của Thiệu Trị, Cao được cử làm sơ khảo kỳ thi Thừa
Thiên. Vì mến tài một số sĩ tử, ông lấy muội đèn chữa quyển của thí sinh
phạm húy. Việc bại lộ, Cao bị tra tấn, suýt bị tội chết, sau phải đi làm
lao dịch theo một đoàn thuyền của hoàng gia đi mua hàng xa xỉ ở Indônêxia.
Từ nước ngoài trở về, Cao bị thải về Hà Nội, sống nhờ vợ bên hồ Trúc Bạch.
Năm 1847, ông được triệu vào kinh, đến năm Tự Đức thứ ba 1850, ông ra làm
giáo thụ ở phủ Quốc Oai (Sơn Tây), gần như bị đuổi khéo về Bắc.
Năm 1853, Cao Bá
Quát lấy cớ mẹ già, thôi chức giáo thụ và năm sau 1854 làm quân sư cho Lê
Duy Cự dấy nghĩa ở Mỹ Lương (Mỹ Đức, Hoà Bình) chống lại triều đình nhà
Nguyễn. Bọn phong kiến gọi là giặc Châu Chấu. Khởi nghĩa thất bại, Cao hy
sinh ngay trong trong trận đánh cuối cùng ở huyện Yên Sơn. Tự Đức đã tru di
ba họ nhà ông 1855 (1).
Cao Bá Quát sáng
tác nhiều, cả Hán lẫn Nôm : Tài tử đa cùng phú, Cao Bá Quát thi tập, Cúc
Đường thi thảo, Cao Chu Thần di cảo, Mẫn Hiên thi tập (4 tập). Tất cả
có trên 1.000 bài.
Thơ Cao Bá Quát nổi
tiếng hay, tài năng thi hào được người đương thời và đời sau xem như
thần thánh che mờ cả thời Tiền Hán và Thịnh Đường. Đức độ của người được
muôn đời kính trọng, xót thương.
*
Trên con đường viễn
du Phú Thị - kinh đô Huế, Cao Bá Quát thường ghé thăm anh trai Cao Bá Đạt
làm tri huyện Nông Cống. Tại huyện đường của ông anh có một viên thư lại là
Hoàng Văn Đồng. Ông này có một người vợ tuyệt thế giai nhân, giỏi thi phú.
Người đẹp Mỹ Lệ thường xướng họa rất tâm đắc với Bá Quát. Một số bài thơ
viết về phong cảnh Thanh Hóa như Vịnh Thanh Hoá Miêu Tử sơn (Vinh
núi Con Mèo ở Thanh Hoá), Vọng phu thạch (Hòn Vọng Phu Thanh Hóa)…còn
lại trong di cảo của Cao là ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt này. Ở đây, đã
nẩy nở một thiên tình sử giữa danh sĩ với giai nhân. Mối tình của họ kéo
dài 5 năm từ 1848-1853, để lại biết bao huyền thoại. Áng thơ tình diễm
tuyệt dưới đây là của nàng Mỹ Lệ gửi người tình Chu Thần Cao Báo Quát:
THẤT THẬP DẠ THỪA
NGUYỆT,TẨU BÚT KÝ HỮU
NHÂN
Thiên cao chúng
tinh hy
Minh nguyêt tĩnh
như thủy
Tứ tức hậu trùng
minh
Sắt sắt kim phong
khỉ (khởi)
Đường thượng hữu
giai nhân
Ỷ lan sầu bất ngữ
Khởi thị dạ hà kỳ
Bộ bộ hành phục chỉ
Bất ưu trường dạ
hàn
Đãn tích nguyệt
tương mỹ
Thiếp niên thị bát
thời
Doanh doanh chính
tương tị (tự)
Trưởng đại ái dư
nghiên
Thượng tưởng dung
nhan mỹ
Noa y hiệt kỳ quang
Bất nhẫn nhàn phao
trí
Tài tác hợp hoan
thư
Ký tử tâm trung sị
(sự)
Dịch
nghĩa:
ĐÊM MƯỜI BẢY DƯỚI
ÁNH TRĂNG VIẾT CHẠY BÚT GỬI BẠN
Trời cao, sao lác
đác
Trăng sáng trong
như nước
Lạnh lùng tiếng sâu
mùa kêu
Sàn sạt gió vàng
nổi dậy.
Trên nhà có một
người đẹp
Ngồi tựa lan can
buồn không nói
Bỗng đứng dậy xem
đêm đã khuya chưa
Bước một bước lại
dừng một bước
Không lo đêm dài
lạnh
Chỉ sợ đêm sắp tàn
[Nghĩ lại} khi
thiếp tuổi đôi tám
Cũng đầy đặn như
trăng
Lớn lên vẫn yêu cái
đẹp xưa
Những tưởng giữ mãi
được như thế
Kéo áo bọc lấy ánh
trăng
Không nỡ dễ dàng bỏ
phí
Xén ra thành bức
thư hợp hoan
Gửi cho chàng những
điều tâm sự.
KHƯƠNG HỮU DỤNG dịch
Tình cảm quá đẹp
giữa hai người qua bài thơ đã thật nặng gánh trần duyên. Năm 1850,
điều mà Cao Bá Quát mãi mãi không thể ngờ tới là đôi tài tử có với
nhau cậu con trai Hoàng Văn Khải – theo khai sinh họ bố chính thống hiện
thời. Sau này, khi cả hai ông bố đẻ và bố nuôi không còn trên thế gian nữa,
bà mẹ mới gọi con trai 18 tuổi lại, tiết lộ bí mật này trước khi cậu
đậu cử nhân ân khoa 1868 dưới triều Tự Đức - cùng khoa với Phan Đình Phùng.
Cậu Khải rất đỗi kinh ngạc, đành chấp nhận sự thật kinh hoàng, không ngờ
mình là một giọt máu của bậc kỳ tài nổi loạn, xin đổi khai sinh lấy chữ Cao
ghép vào giữa thành HOÀNG CAO KHẢI !
Hoàng Cao
Khải mới đỗ cử nhân, bổ làm huấn đạo, rồi tri huyện Thọ Xuân (Thanh
Hóa). Tuy quan tước ở hàng tam phẩm nhưng theo năng lực vẫn được Nguyễn Hữu
Độ dẫn dắt, tiến cử phong lên làm Tổng đốc Lạng Sơn, tổng đốc Hải Dương,
tổng đốc Bắc Ninh... Với thành tích đánh dẹp phong trào Cần vương ở
Bắc bộ, và giải giáp cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, Hoàng Cao Khải đã được
Triều đình nhà Nguyễn tấn phong đến chức Khâm sai Kinh lược sứ Bắc Kỳ
(người Pháp gọi là Phó vương - vice), quyền uy nghiêng ngửa thiên hạ. Cuối
đời, ông được triệu về Kinh giữ chức Thượng thư bộ Binh. Nhìn chung, Hoàng
Cao Khải là nhân vật lịch sử công ít tội nhiều.
Thái Doãn Hiểu
---------------------
(1) Nhưng theo dã
sử thì lại khác. Cao không chết mà sống ẩn vào dân gian một thời gian dài.
Nhà văn Xuân Cang bảo tôi: “Cao Bá Quát tuổi con rồng, mà lại là rồng đất
trốn trong hang thì có trời bắt được”. Điều Xuân Cang nói ứng với lệnh truy
nã Cao Bá Quát của triều đình nhà Nguyễn vẫn có hiệu lực vào năm 1858 và
mãi về sau.
Nguồn: Bichkhe.org
No comments:
Post a Comment