LX: Nhà thơ Diễm châu tên thật là Phạm Văn Rao; tên thánh là Alphonse.Sinh năm 1937 tại thành phố Hải Phòng.Tốt nghiệp Đại học Sư phạm Sài Gòn – Giáo sư Anh văn.Tu nghiệp Đại học Indiana, Hoa Kỳ.Giám đốc Trung tâm Ngoại ngữ Đại học Bách khoa Sài Gòn.Tổng thư ký tạp chí Trình bầy ở SG trước 1975.Cùng gia đình rời Việt Nam năm 1983.Sách xuất bản trong nước trước 75 [ngoài những những bản dịch truyện và thơ], đã in Hạnh hoa và Sáng muôn thu (tuyệt bản); ở ngoài nước [ngoài các tập tuyển thơ, truyện, kịch dịch, gần tới một trăm ấn phẩm khác nhau] đã in Thơ Diễm Châu và Mười bài ở Paris… (phổ biến hạn chế).Diễm Châu đã giới thiệu hàng trăm tác giả quốc tế qua hàng ngàn bản dịch Việt văn.
Diễm Châu mất đột ngột ở Strasbourg, Pháp, sáng sớm ngày 28 tháng 12, 2006.
Chiều xuân lạnh đọc thơ Diễm Châu
Xuân
nhất định không chịu nghe tháng Ba dỗ dành quay trở lại: gió vẫn buốt, chân
trời xanh nhợt nhạt, những hạt băng nhỏ xíu chui vào da thịt rét căm căm…
Làm
gì với cảm giác tê dại này?
Thơ
thẩn giở thơ văn Ăn Mày Văn Chương tìm hơi thở ấm…
Tìm
ra Chân Phương thân thuộc - lãng tử giới thiệu một bài thơ của Diễm Châu tặng
chàng giữa thập niên 80 xáo trộn dải đất S.
Tôi
đọc. Buốt giá. Bởi cảm giác cay đắng và đau đớn.
Chết
rồi- Lãng tử ơi! sao xúc cảm này quen thuộc quá?
Tôi
lặng lẽ mở dần từng bài thơ của Diễm Châu. Đọc chậm rãi.
Cảm
giác tức ngực, nghẹn thở, không nghe thấy tiếng động gì bên tai, không chú ý
đến bất kỳ cái gì xung quanh nữa.
Chỉ
trở lại với chính mình- cảm giác chính mình duy nhất. Và những cảnh tượng hiện
thực hiển hiện trong liên tưởng suy tư…
Thi
sĩ ơi! Diễm Châu! anh đã làm gì với những chữ cái
tiếng Việt? Sao chữ lại có trọng lượng nặng đến thế, miêu tả sửng sốt ngày hôm
qua của đất Việt, một giai đoạn sống hãi hùng chưa thể xếp vào ngôi quá khứ đã
được nhận thức đầy đủ.
Đây
là giấc ác mộng chiến tranh,
nơi, con người là những
vành khăn tang trắng đẫm nước mắt, rớt bên huyệt và thì thào cùng gió:
VN, ta thù ghét mi nhưng vẫn không quên
những con đường của mi
trong buổi chiều nắng tàn
lúc hàng dừa xõa tóc
VN, trong bước lưu đày ta nhớ hàng phượng rợp
bóng
ta nhớ sân trường tiếng
ve kêu ran và cơn mưa ngã phiêu phiêu
cơn mưa bay à à trên
đường đẩy xuống lòng cống rãnh
những mảnh đời dang dở
những mối tình vô vọng những ước mơ mọn hèn
VN, ta thù ghét mi khi mi thả lũ con rừng rú
xuống đồng bằng
ta thù ghét mi khi mi
xua đuổi những nạn nhân hiền hòa ra biển
VN, sao mi đẩy ra xa những xác người giạt về
quanh quẩn bên mi?
VN, mi có nghe tiếng thét kinh hoàng đêm đêm?
VN, ta đã gặp lại người ta yêu trong một đêm
giông bão
trên con thuyền không
người, người ta yêu tóc rũ
người ta yêu quỳ xuống ôm
lấy ta, vuốt tóc
người ta yêu giọt nước mắt
long lanh
người ta yêu đôi cánh tay
gầy guộc
người ta yêu trần truồng
như một loài thú
VN, chính người ta yêu đã khép mắt cho ta chứ
không phải mi
Trong
phút chốc những cuốn phim thế giới cứ thuyết minh đi thuyết minh lại về chiến
tranh Vietnam bỗng hiện về trong óc: những con đường quốc lộ hoảng loạn dòng
người rách rưới , những súng, đạn, xe nhớn nhác tháo
chạy…
quê hương, quê hương
- những chiều, những sáng, những đêm đã từng có thật.
những sự thật không được
báo trước trong giấc mộng chuyển dời của đất nước con rồng cháu tiên:
VN, những ngày ở thành phố HCM ta là một con
chó
ta chạy trên những
đường rày cong queo bên những toa tàu đổ
ta làm kế hoạch lớn cho
mi bằng cách lượm nước mắt khô và gói ghém những nỗi niềm thương nhớ
VN, bạn bè ta thất tán tứ phương
đứa bị thủ tiêu trên
đường Cửa Thuận
đứa bặt tin từ Vĩnh Phú,
Sơn La
đứa ngồi giảng đạo ở Hỏa
Lò Hà Nội
đứa tuốt tranh ngoài Phú
Giáo – Đồng Xoài
đứa ngược Buôn Hồ đứa
xuôi Thái Mỹ
đứa tiếp tục đạp xe vào
thành phố buổi sáng
đứa chơi vơi một cõi mù sương..
VN, ta đã cõng một đảng viên già bị phản bội
sau khi đánh ngã y bằng đế Gò Đen
Ta tiếc thương cho một kẻ khùng điên suốt
ngày mơ ước một anh Đặng Tiểu Bình
VN, ta còn ở Rạch Giá xác một người bạn khác
VN, mẹ cha ta không còn mồ mả
lũ anh em ta bây giờ
xất bất xang bang
lũ cháu ta lúc này đạp
xích-lô ghiền ma túy và chết cho Heng Xomrin
VN, hơn 100 tên đồ tể của mi ngồi cãi lộn với
nhau về chế độ bao cấp
Trong lúc người ta yêu bỏ xác ngoài biển khơi
VN, mi thật là khốn nạn khi sinh ra ta đồng
thời với bọn người ngựa
những tên bán Chúa phản
thầy hạng cú diều độc địa
VN, ta không còn ai
để thở than những buổi tối buồn
VN, những ngày cúp điện những đêm xét hộ khẩu
mi ở đâu?
mi còn nhớ dòng sông
với những con đò buôn người chi chit như lá tre?
mi còn nhớ khu vườn
khoảng khoát sau vương cung thánh đường Sài-gòn nơi những thằng hề phương bắc
công khai làm tình với gái đĩ miền nam?
VN, mi còn chiếu phim con heo cho thủy thủ
Liên Sô ở kho 5?
bọn lính tàu bay nước
ngoài ở khách sạn Độc Lập Tự Do của mi mỗi ngày dội nước dơ mấy lần xuống đám
học trò trẻ nít?
VN, mỗi ngày mi nướng bao nhiêu mạng người?
VN, mi làm cách mạng sao dám nói dối?
VN, mồ cha những thằng công an khu vực của mi
VN, mỗi ngày mi tra tấn bao nhiêu người vô
tội ở Phan Đăng Lưu, Đại Lợi?
VN, chừng nào mi mở khách sạn Hilton để bỏ tù
thế giới?
sao mi đào thêm mãi
những con kinh nước mắt làm cạn nguồn sống của nông dân?
VN, mi đã cướp của ta 8 năm trời đẹp nhất
mi đã cắm vào sọ ta cái
chùa Một Cột của mi với bọn lãnh đạo ngồi trên
VN, ta xuất huyết từng giờ và mi vẫn thản
nhiên ngồi vỗ béo lũ rệp
mi phủ báo Nhân Dân lên
những mưu mô thâm hiểm của mi
mi phất cờ Giải Phóng
trên mỗi đồng tiền công trái
những đồng tiền thắt họng
những đồng tiền siết máu
mi giết những cụ già ám
hại trẻ thơ và chia rẽ những người tình trong trắng
(Việt nam, Tổ quốc và
Em)
Tôi
trân trân nhớ tới những trang sách viết về châu Âu sau chiến tranh thế giới: có
ký ức nào dám bịa đặt và bịa đặt nổi những nỗi đau?
không phải nỗi đau tàn phá
của bom đạn mà là nỗi kinh hoàng trước những khoảnh khắc nhân tính bị hủy
diệt. Bằng những hiện thực trơ trụi và điên đảo không thể nào tin nổi, chỉ để
người đời sau rút ra những bài học tiêu hủy chất người đẫm máu của lịch
sử mà thôi, bởi trong thực tế, con người bất lực trước cái ác.
Ôi
con người! từ bao giờ những khát máu bản năng thuần
chuyển thành phút buông tay bất lực trước nhân tính suy đồi?
Thêm
bao nhiêu giọt nước mắt và những vành tang cho loạn lạc chiến tranh? Để những
âm thầm thế hệ gạt nước mắt đau xót mai ngày, khi đọc lại trang sử ấu thơ của
mình…
Tôi
nhớ đến những trang sách châu Âu viết về những xã hội người thời hậu chiến :
khuôn mặt giãy giụa ác độc cuối cùng của chiến tranh ở quốc gia nào cũng thế,
hậu quả sau cùng của chiến tranh người dân ở đất nước nào cũng lãnh đủ như thế.
Đấy là lòng hận, sự trả thù, nỗi cuồng tín mê muội và hân hoan của bạo lực khi
không đồng hóa nổi thế giới con người với những lực lượng đen tối nhất luôn lẩn
quất trong chính tâm linh con người.
Ai
hiểu ra điều này, người đó buồn và đau đớn.
Đấy
là khi thi sĩ đào huyệt chôn nỗi đau riêng tư bằng ngọn bút.
Đọc
thơ Diễm Châu, ta muốn khóc:
Em yêu dấu
mỗi ngày anh viết một tờ
thư
những lá thư chồng chất
không người nhận
mỗi ngày anh vẽ một con
tem
mang hình một người bạn
những người bạn không còn
nữa
mỗi ngày anh trút hơi
thở lên trang giấy
hơi thở đóng băng
mỗi ngày anh nắn nót
từng dòng chữ
dòng chữ hóa đá
anh đằm mình trong bụm
cỏ
gặm nhấm ngày qua như
một cọng rác
anh lau mặt bằng tình
thương mòn mỏi
gạt những sợi tóc bạc dần..
mỗi ngày
tia nắng đầu tiên nhỏ
một giọt lệ
anh lại viết một tờ thư.
9. 1984( Mỗi ngày)
muốn
khóc không vì nỗi bất lực hay sự tủi thân nào mà bởi lý do cực kỳ đơn giản: ta quá buồn! đời quá buồn!
Chân
Phương đã vượt lên nỗi buồn này bằng giọng cười ngạo nghễ. Tôi tưởng nhìn
thấy lãng tử mến yêu của tôi đốt thuốc lập lòe bên Diễm Châu trầm ngâm lặng lẽ.
Thời gian đau đã biến những thi sĩ của thời đại thành chứng nhân lịch sử
bắt buộc:
hãy cám ơn người
họa sĩ thiên tài đã bôi đen giấc mơ anh
hãy cám ơn người đàn bà có đuôi mắt hình mũi tên đã biến anh thành thi sĩ
từng ngày từng ngày những giọt cường toan
khắc lên mình chúng ta
những hình thù quái dị
khi cuộc tình bùng cháy giữa bình minh
(GỬI PHƯƠNG SINH- Diễm Châu)
Nếu
Chân Phương đã biến thành khói thuốc len lỏi qua các vách ngục tù của bóng tối
bay lên trời xanh, thì Diễm Châu không thể rời bỏ được trần gian ngạt ngột, bởi
Diễm Châu đã biến thành những giọt mồ hôi chua chát rỏ thấm xuống đất đen.
Thơ
Diễm Châu là sự quánh đọng của những khoảnh khắc trầm ngâm nhìn thấu suốt sự
vật. Bởi vậy ngôn từ thơ Diễm Châu nặng trĩu- như chất liệu đã tinh ròng thành
vàng của thời gian sống được thử thách trong một đời người- bởi vậy hồn vía ta
bị thu hút mặc nhiên, khi đọc những bài thơ rứt gan ruột của Diễm Châu.
Diễm
Châu rỏ máu tim khi rung chuyển cơn khóc đau câm nín:
TỰ DO
— nhớ Thế Nguyên
Khi người nghệ sĩ bản địa múa ballet
trên chiếc xe cọc cạch
kẻ thiên tài từ paris
về giương ống kính
thâu hình một bóng ma
ôi tự do
mi đã cho anh trương
chi đỏ những đồng francs yêu nước
mi đoàn kết những
chuyến bay việt kiều đầy ắp
những món hàng thâu lợi
gấp trăm
mi đã cho bạn bè ta mùi
vị mật ong
ảo tưởng thiên đường hé
mở
buổi chiều carnaval mi
đeo mặt nạ
cột vào lưng ta chiếc
pháo thăng thiên
từ chin tầng trời cao
ngất
ta ngó nghiêng như cánh
diều ác độc
nhìn quê hương quay theo
vòng bánh xe
người nghệ sĩ múa ballet
đầu cúi
xuống trái tim – nấm mộ
ôi tự do
mi cười như một con
rối.
Tiếng
Việt của Diễm Châu như kẻ vật lộn với nỗi đau và vẻ đẹp của những điệp khúc
thời gian bị thử thách - thứ tiếng Việt lộn nhào trong từng tế bào tinh tế
thưởng thức những niềm vui đang mất đi:
NGƯỜI LÀM VƯỜN VÀ BÔNG HOA
Tôi, người làm vườn và bông hoa
Không đơn chiếc trong nhà tù thế
giới...
O. E. MANDELSTAM
Khi chuyến xe buýt uể oải cuốn đi sợi cuối
cùng của gió
ta chỉ còn một không
gian thủy tinh
ở đấy nắng chảy xuống
thành luồng như đổ lửa
và lá cỏ vươn dài như
những lưỡi gươm xanh
buổi sáng đàn quạ kêu
vang như lệnh vỡ
ta bước ra vườn em còn
mặc áo già lam
trưa về ta ngồi sau song
cửa
ai đã thay màu rực rỡ
cho em?
ở chốn địa đàng ta
không phải người tù duy nhất
trót đưa chân nên quanh
quẩn với người
ta lục tìm trái tim với
nỗi sầu chất ngất
kết cho đời một tràng chuỗi tinh khôi..
những lá cỏ cao dần theo
con nắng
những lá cỏ phủ kín mình
hoa
ta chỉ còn một vạt màu
của biển
và kỷ niệm một khoảnh
khắc tình ta.
11. 7.
1984
Sao
lại có một bài thơ đẹp đến đớn đau như thế:
buổi
sáng đàn quạ kêu vang như lệnh vỡ
ta bước ra vườn em còn
mặc áo già lam
trưa về ta ngồi sau song
cửa
ai đã thay màu rực rỡ
cho em?
Chỉ
một kẻ tuyệt vọng yêu cuộc đời này mới có thể hiểu vực thẳm của chia ly:
những lá cỏ cao dần theo
con nắng
những lá cỏ phủ kín mình
hoa
ta chỉ còn một vạt màu
của biển
và kỷ niệm một khoảnh
khắc tình ta.
Buồn
quá, Diễm Châu ơi, kẻ xa quê day dứt!
Nhiều
khi tôi trầm ngâm suy nghĩ, đọc rất nhiều thơ văn, cảm nhận rất nhiều cung bậc
cảm xúc mà vẫn không thể nào tự đặt mình vào tâm sự của những người Việt
xứ Nam. Bởi tôi là dân Bắc- và cuộc chiến của tôi là cuộc chiến của dân Bắc.
Đấy
cũng là một thao thức đau không chia xẻ nổi với nhau của quê hương tôi trong
thời đại này. Con người chỉ còn đọng lại sự tỉnh táo, niềm xúc cảm sâu thẳm
cùng sự bất lực chấp nhận- những gì đã diễn ra trong biển nước mắt chịu đựng
giữa những kẻ cùng giống nòi.
Dường
như tiếng thở dài của các thi sĩ phương Nam trên đất Việt đậm đặc màu sắc và
phong phú tâm trạng hơn các thi sĩ Bắc? hay chỉ là cảm
tính đánh giá của tôi khi đọc thơ Diễm Châu và Chân Phương?
nhưng rõ ràng tôi yêu mến
những vần thơ đầy màu sắc – như thể chân trời chỉ đẹp khác lạ khi cầu vồng bảy
sắc hiện ra như thế:
CHO TÔI UỐNG
Hãy cho tôi uống, tôi không khát
ÁLVARO DE CAMPOS
Dưới đáy chiếc ly có một vòng tròn
vòng đáy của chiếc ly
vòng vàng
óng ánh
bên trên là những mùa
giông bão
những bắp thịt của sóng
dòng cuồng lưu
bên trên nữa là những
cành rong
môi san hô
nắng mới pha màu hổ phách
chiếc giường lông chim ảo
ảnh
khát vọng sủi tăm
bên trên nữa là mặt hồ
thầm lặng
những vườn nho soi bóng êm
đềm
mắt biếc nằm trên tay
ôi vòng mắt chim khuyên
chiếc nhẫn của con gi sừng..
hãy cho tôi uống...
Có
một nét gì đó mênh mang trong những màu sắc suy tư kiểu phương Nam này- có lẽ
đấy là dấu ấn pha tạp các nền văn hóa của những con người quen tự do?
Tôi
cho rằng mình đọc thơ Diễm Châu quá ít, chưa đủ để khám phá sắc màu thi
sĩ toàn diện của anh. Thậm chí tôi còn chưa có điều kiện đọc mảng thơ
dịch đồ sộ của Diễm Châu, trong đó chắc chắn chứa những mảnh thiên tài lấp lánh
của một người dịch biết sáng tác.
Nhưng
từ những gì đã đọc được của Diễm Châu trên trang web Ăn Mày Văn
Chương đủ để ta tự nhủ:
Diễm
Châu là một trong những nhà thơ Việt đặc biệt, rất cần đọc ngày hôm nay.
Nguyễn
Hồng Nhung
No comments:
Post a Comment