Thursday, April 11, 2013

THƠ DIỄM CHÂU

LX: Nhà thơ Diễm châu tên thật là Phạm Văn Rao; tên thánh là Alphonse.Sinh năm 1937 tại thành phố Hải Phòng.Tốt nghiệp Đại học Sư phạm Sài Gòn – Giáo sư Anh văn.Tu nghiệp Đại học Indiana, Hoa Kỳ.Giám đốc Trung tâm Ngoại ngữ Đại học Bách khoa Sài Gòn.Tổng thư ký tạp chí Trình bầy ở SG trước 1975.Cùng gia đình rời Việt Nam năm 1983.Sách xuất bản trong nước trước 75 [ngoài những những bản dịch truyện và thơ], đã in Hạnh hoaSáng muôn thu (tuyệt bản); ở ngoài nước [ngoài các tập tuyển thơ, truyện, kịch dịch, gần tới một trăm ấn phẩm khác nhau] đã in Thơ Diễm ChâuMười bài ở Paris… (phổ biến hạn chế).Diễm Châu đã giới thiệu hàng trăm tác giả quốc tế qua hàng ngàn bản dịch Việt văn.
Diễm Châu mất đột ngột ở Strasbourg, Pháp, sáng sớm ngày 28 tháng 12, 2006.





Chiều xuân lạnh đọc thơ Diễm Châu

Xuân nhất định không chịu nghe tháng Ba dỗ dành quay trở lại: gió vẫn buốt, chân trời xanh nhợt nhạt, những hạt băng nhỏ xíu chui vào da thịt rét căm căm…

Làm gì với cảm giác tê dại này?
Thơ thẩn giở thơ văn Ăn Mày Văn Chương  tìm hơi thở ấm…

Tìm ra Chân Phương thân thuộc - lãng tử giới thiệu một bài thơ của Diễm Châu tặng chàng giữa thập niên 80 xáo trộn dải đất S.
Tôi đọc. Buốt giá. Bởi cảm giác cay đắng và đau đớn.
Chết rồi- Lãng tử ơi! sao  xúc cảm này quen thuộc quá?


Tôi lặng lẽ mở dần từng bài thơ của Diễm Châu. Đọc chậm rãi.
Cảm giác tức ngực, nghẹn thở, không nghe thấy tiếng động gì bên tai, không chú ý đến bất kỳ cái gì xung quanh nữa.
Chỉ trở lại với chính mình- cảm giác chính mình duy nhất. Và những cảnh tượng hiện thực hiển hiện trong liên tưởng suy tư…

Thi sĩ ơi! Diễm Châu! anh đã làm gì với những chữ cái tiếng Việt? Sao chữ lại có trọng lượng nặng đến thế, miêu tả sửng sốt ngày hôm qua của đất Việt, một giai đoạn sống hãi hùng chưa thể xếp vào ngôi quá khứ đã được nhận thức đầy đủ.

Đây là giấc ác mộng chiến tranh,
nơi, con người là những vành khăn tang trắng đẫm nước mắt, rớt bên huyệt và thì thào cùng gió:

 VN, ta thù ghét mi nhưng vẫn không quên những con đường của mi
trong buổi chiều nắng tàn lúc hàng dừa xõa tóc
VN, trong bước lưu đày ta nhớ hàng phượng rợp bóng
ta nhớ sân trường tiếng ve kêu ran và cơn mưa ngã phiêu phiêu
cơn mưa bay à à trên đường đẩy xuống lòng cống rãnh
những mảnh đời dang dở những mối tình vô vọng những ước mơ mọn hèn
VN, ta thù ghét mi khi mi thả lũ con rừng rú xuống đồng bằng  
ta thù ghét mi khi mi xua đuổi những nạn nhân hiền hòa ra biển
VN, sao mi đẩy ra xa những xác người giạt về quanh quẩn bên mi?
VN, mi có nghe tiếng thét kinh hoàng đêm đêm?
VN, ta đã gặp lại người ta yêu trong một đêm giông bão
trên con thuyền không người, người ta yêu tóc rũ
người ta yêu quỳ xuống ôm lấy ta, vuốt tóc
người ta yêu giọt nước mắt long lanh
người ta yêu đôi cánh tay gầy guộc
người ta yêu trần truồng như một loài thú
VN, chính người ta yêu đã khép mắt cho ta chứ không phải mi

Trong phút chốc những cuốn phim thế giới cứ thuyết minh đi thuyết minh lại về chiến tranh Vietnam bỗng hiện về trong óc: những con đường quốc lộ hoảng loạn dòng người rách rưới , những súng, đạn, xe nhớn nhác tháo chạy…
quê hương, quê hương -  những chiều,  những sáng, những  đêm đã từng có thật.
những sự thật không được báo trước trong  giấc mộng chuyển dời của đất nước con rồng cháu tiên:

VN, những ngày ở thành phố HCM ta là một con chó
ta chạy trên những đường rày cong queo bên những toa tàu đổ
ta làm kế hoạch lớn cho mi bằng cách lượm nước mắt khô và gói ghém những nỗi niềm thương nhớ
VN, bạn bè ta thất tán tứ phương
đứa bị thủ tiêu trên đường Cửa Thuận
đứa bặt tin từ Vĩnh Phú, Sơn La
đứa ngồi giảng đạo ở Hỏa Lò Hà Nội
đứa tuốt tranh ngoài Phú Giáo – Đồng Xoài
đứa ngược Buôn Hồ đứa xuôi Thái Mỹ
đứa tiếp tục đạp xe vào thành phố buổi sáng
đứa chơi vơi một cõi mù sương..
VN, ta đã cõng một đảng viên già bị phản bội sau khi đánh ngã y bằng đế Gò Đen
Ta tiếc thương cho một kẻ khùng điên suốt ngày mơ ước một anh Đặng Tiểu Bình
VN, ta còn ở Rạch Giá xác một người bạn khác
VN, mẹ cha ta không còn mồ mả
anh em ta bây giờ xất bất xang bang
cháu ta lúc này đạp xích-lô ghiền ma túy và chết cho Heng Xomrin
VN, hơn 100 tên đồ tể của mi ngồi cãi lộn với nhau về chế độ bao cấp
Trong lúc người ta yêu bỏ xác ngoài biển khơi
VN, mi thật là khốn nạn khi sinh ra ta đồng thời với bọn người ngựa
những tên bán Chúa phản thầy hạng cú diều độc địa
VN, ta không còn ai để thở than những buổi tối buồn
VN, những ngày cúp điện những đêm xét hộ khẩu mi ở đâu?
mi còn nhớ dòng sông với những con đò buôn người chi chit như lá tre?
mi còn nhớ khu vườn khoảng khoát sau vương cung thánh đường Sài-gòn nơi những thằng hề phương bắc công khai làm tình với gái đĩ miền nam?
VN, mi còn chiếu phim con heo cho thủy thủ Liên Sô ở kho 5?
bọn lính tàu bay nước ngoài ở khách sạn Độc Lập Tự Do của mi mỗi ngày dội nước dơ mấy lần xuống đám học trò trẻ nít?
VN, mỗi ngày mi nướng bao nhiêu mạng người?
VN, mi làm cách mạng sao dám nói dối?
VN, mồ cha những thằng công an khu vực của mi
VN, mỗi ngày mi tra tấn bao nhiêu người vô tội ở Phan Đăng Lưu, Đại Lợi?
VN, chừng nào mi mở khách sạn Hilton để bỏ tù thế giới?
sao mi đào thêm mãi những con kinh nước mắt làm cạn nguồn sống của nông dân?
VN, mi đã cướp của ta 8 năm trời đẹp nhất
mi đã cắm vào sọ ta cái chùa Một Cột của mi với bọn lãnh đạo ngồi trên
VN, ta xuất huyết từng giờ và mi vẫn thản nhiên ngồi vỗ béo lũ rệp
mi phủ báo Nhân Dân lên những mưu mô thâm hiểm của mi
mi phất cờ Giải Phóng trên mỗi đồng tiền công trái
những đồng tiền thắt họng những đồng tiền siết máu
mi giết những cụ già ám hại trẻ thơ và chia rẽ những người tình trong trắng
(Việt nam, Tổ quốc và Em)


Tôi trân trân nhớ tới những trang sách viết về châu Âu sau chiến tranh thế giới: có ký ức nào dám bịa đặt và bịa đặt nổi những nỗi đau?
không phải nỗi đau tàn phá của bom đạn mà là nỗi kinh hoàng trước những khoảnh khắc  nhân tính bị hủy diệt. Bằng những hiện thực trơ trụi và điên đảo không thể nào tin nổi, chỉ để người đời sau rút ra những bài học  tiêu hủy chất người đẫm máu của lịch sử mà thôi, bởi trong thực tế, con người bất lực trước cái ác.
Ôi con người! từ bao giờ những khát máu bản năng thuần chuyển thành phút buông tay bất lực trước nhân tính suy đồi? 
Thêm bao nhiêu giọt nước mắt và những vành tang cho loạn lạc chiến tranh? Để những âm thầm thế hệ gạt nước mắt đau xót mai ngày, khi đọc lại trang sử ấu thơ của mình…
Tôi nhớ đến những trang sách châu Âu viết về những xã hội người thời hậu chiến : khuôn mặt giãy giụa ác độc cuối cùng của chiến tranh ở quốc gia nào cũng thế, hậu quả sau cùng của chiến tranh người dân ở đất nước nào cũng lãnh đủ như thế. Đấy là lòng hận, sự trả thù, nỗi cuồng tín mê muội và hân hoan của bạo lực khi không đồng hóa nổi thế giới con người với những lực lượng đen tối nhất luôn lẩn quất trong chính tâm linh con người.
Ai hiểu ra điều này, người đó buồn và đau đớn.
Đấy là khi thi sĩ đào huyệt chôn nỗi đau riêng tư bằng ngọn bút.
Đọc thơ Diễm Châu, ta muốn khóc:


Em yêu dấu

mỗi ngày anh viết một tờ thư
những lá thư chồng chất
không người nhận
mỗi ngày anh vẽ một con tem
mang hình một người bạn
những người bạn không còn nữa
mỗi ngày anh trút hơi thở lên trang giấy
hơi thở đóng băng
mỗi ngày anh nắn nót từng dòng chữ
dòng chữ hóa đá

anh đằm mình trong bụm cỏ
gặm nhấm ngày qua như một cọng rác
anh lau mặt bằng tình thương mòn mỏi
gạt những sợi tóc bạc dần..

mỗi ngày
tia nắng đầu tiên nhỏ một giọt lệ
anh lại viết một tờ thư.

9. 1984( Mỗi ngày)



muốn khóc không vì nỗi bất lực hay sự tủi thân nào mà bởi lý do cực kỳ đơn giản:  ta quá buồn! đời quá buồn!

Chân Phương đã  vượt lên nỗi buồn này bằng giọng cười ngạo nghễ. Tôi tưởng nhìn thấy lãng tử mến yêu của tôi đốt thuốc lập lòe bên Diễm Châu trầm ngâm lặng lẽ. Thời gian đau đã biến những thi sĩ của thời đại thành  chứng nhân lịch sử bắt buộc:

hãy cám ơn người họa sĩ thiên tài đã bôi đen giấc mơ anh
          hãy cám ơn người đàn bà có đuôi mắt hình mũi tên đã biến anh thành thi sĩ
          từng ngày từng ngày những giọt cường toan
                                                khắc lên mình chúng ta những hình thù quái dị
          khi cuộc tình bùng cháy giữa bình minh
                    (GỬI  PHƯƠNG  SINH- Diễm Châu)

Nếu Chân Phương đã biến thành khói thuốc len lỏi qua các vách ngục tù của bóng tối bay lên trời xanh, thì Diễm Châu không thể rời bỏ được trần gian ngạt ngột, bởi Diễm Châu đã biến thành những giọt mồ hôi chua chát rỏ thấm xuống đất đen.

 Thơ Diễm Châu là sự quánh đọng của những khoảnh khắc trầm ngâm nhìn thấu suốt sự vật. Bởi vậy ngôn từ thơ Diễm Châu nặng trĩu- như chất liệu đã tinh ròng thành vàng của thời gian sống được thử thách trong một đời người- bởi vậy hồn vía ta bị thu hút mặc nhiên, khi đọc những bài thơ rứt gan ruột của Diễm Châu.

 Diễm Châu  rỏ máu  tim khi  rung chuyển cơn khóc  đau câm nín:

TỰ DO

                   — nhớ Thế Nguyên

Khi người nghệ sĩ bản địa múa ballet trên chiếc xe cọc cạch
kẻ thiên tài từ paris về giương ống kính
thâu hình một bóng ma

ôi tự do
mi đã cho anh trương chi đỏ những đồng francs yêu nước
mi đoàn kết những chuyến bay việt kiều đầy ắp
những món hàng thâu lợi gấp trăm
mi đã cho bạn bè ta mùi vị mật ong
ảo tưởng thiên đường hé mở
buổi chiều carnaval mi đeo mặt nạ
cột vào lưng ta chiếc pháo thăng thiên
từ chin tầng trời cao ngất
ta ngó nghiêng như cánh diều ác độc
nhìn quê hương quay theo vòng bánh xe
người nghệ sĩ múa ballet đầu cúi
xuống trái tim – nấm mộ

ôi tự do
mi cười như một con rối.

Tiếng Việt của Diễm Châu như kẻ vật lộn với nỗi đau và vẻ đẹp của những điệp khúc thời gian bị thử thách - thứ tiếng Việt lộn nhào trong từng tế bào tinh tế thưởng thức những niềm vui đang mất đi:

NGƯỜI LÀM VƯỜN VÀ BÔNG HOA

Tôi, người làm vườn và bông hoa
Không đơn chiếc trong nhà tù thế giới...
                             O. E. MANDELSTAM

Khi chuyến xe buýt uể oải cuốn đi sợi cuối cùng của gió
ta chỉ còn một không gian thủy tinh
đấy nắng chảy xuống thành luồng như đổ lửa
lá cỏ vươn dài như những lưỡi gươm xanh

buổi sáng đàn quạ kêu vang như lệnh vỡ
ta bước ra vườn em còn mặc áo già lam
trưa về ta ngồi sau song cửa
ai đã thay màu rực rỡ cho em?

chốn địa đàng ta không phải người tù duy nhất
trót đưa chân nên quanh quẩn với người
ta lục tìm trái tim với nỗi sầu chất ngất
kết cho đời một tràng chuỗi tinh khôi..

những lá cỏ cao dần theo con nắng
những lá cỏ phủ kín mình hoa
ta chỉ còn một vạt màu của biển
kỷ niệm một khoảnh khắc tình ta.

11. 7. 1984


Sao lại có một bài thơ đẹp đến đớn đau như thế:


buổi sáng đàn quạ kêu vang như lệnh vỡ
ta bước ra vườn em còn mặc áo già lam
trưa về ta ngồi sau song cửa
ai đã thay màu rực rỡ cho em?

Chỉ một kẻ tuyệt vọng yêu cuộc đời này mới có thể hiểu vực thẳm của chia ly:
những lá cỏ cao dần theo con nắng
những lá cỏ phủ kín mình hoa
ta chỉ còn một vạt màu của biển
kỷ niệm một khoảnh khắc tình ta.

Buồn quá, Diễm Châu ơi, kẻ xa quê day dứt!

Nhiều khi tôi trầm ngâm suy nghĩ, đọc rất nhiều thơ văn, cảm nhận rất nhiều cung bậc cảm xúc mà vẫn  không thể nào tự đặt mình vào tâm sự của những người Việt xứ Nam. Bởi tôi là dân Bắc- và cuộc chiến của tôi là cuộc chiến của dân Bắc.

Đấy cũng là một thao thức đau không chia xẻ nổi với nhau của quê hương tôi trong thời đại này. Con người chỉ còn đọng lại sự tỉnh táo, niềm xúc cảm sâu thẳm cùng sự bất lực chấp nhận- những gì đã diễn ra trong biển nước mắt chịu đựng giữa những kẻ cùng giống nòi.

Dường như tiếng thở dài của các thi sĩ phương Nam trên đất Việt đậm đặc màu sắc và phong phú tâm trạng hơn các thi sĩ Bắc? hay chỉ là cảm tính đánh giá của tôi khi đọc thơ Diễm Châu và Chân Phương?
nhưng rõ ràng tôi yêu mến những vần thơ đầy màu sắc – như thể chân trời chỉ đẹp khác lạ khi cầu vồng bảy sắc hiện ra như thế:


CHO TÔI UỐNG

Hãy cho tôi uống, tôi không khát
                 ÁLVARO DE CAMPOS

Dưới đáy chiếc ly có một vòng tròn
vòng đáy của chiếc ly
vòng vàng
óng ánh
bên trên là những mùa giông bão
những bắp thịt của sóng
dòng cuồng lưu
bên trên nữa là những cành rong
môi san hô
nắng mới pha màu hổ phách
chiếc giường lông chim ảo ảnh
khát vọng sủi tăm
bên trên nữa là mặt hồ thầm lặng
những vườn nho soi bóng êm đềm
mắt biếc nằm trên tay
ôi vòng mắt chim khuyên
chiếc nhẫn của con gi sừng..

hãy cho tôi uống...

Có một nét gì đó mênh mang trong những màu sắc suy tư kiểu phương Nam này- có lẽ đấy là dấu ấn pha tạp các nền văn hóa của những con người quen tự do?

Tôi cho rằng mình đọc thơ Diễm Châu quá ít, chưa đủ để khám phá  sắc màu thi sĩ  toàn diện của anh. Thậm chí tôi còn chưa có điều kiện đọc mảng thơ dịch đồ sộ của Diễm Châu, trong đó chắc chắn chứa những mảnh thiên tài lấp lánh của một người dịch biết sáng tác.

Nhưng từ  những gì đã đọc được của  Diễm Châu trên trang web Ăn Mày Văn Chương  đủ để ta tự nhủ:

 Diễm Châu là một trong những nhà thơ Việt đặc biệt, rất cần đọc ngày hôm nay.

Nguyễn Hồng Nhung



No comments: