55. Con Bò Khóc
Tôi
 đến nhà tù sớm để dạy thiền; nhà tù này nhốt các thường phạm. Trong lúc
 chờ vô lớp tôi tiếp một tù nhân cao lớn, rất bặm trợn, râu tóc bù xù, 
tay xăm dày đặc, mặt đầy thẹo lớn nhỏ chứng tỏ anh từng đánh lộn nhiều 
lần. Anh trông rất đáng sợ. Tôi tự hỏi lớp thiền có cả những người dữ 
tợn như vậy sao?
Anh
 kể cho tôi nghe chuyện xảy ra mấy ngày trước đây khiến anh bị vô tù như
 thế này. Nghe anh nói, tôi nhận ra ngay giọng Ulster (Ulster là một trong bốn tỉnh của  Ái Nhĩ Lan nằm trên cực Bắc của đảo) nặng của anh. Anh cho biết anh được sinh ra và lớn lên trên các đường phố hung tợn của Belfast (Belfast là thủ đô của Ái Nhĩ Lan).
 Anh chém lộn lần đầu tiên lúc mới lên bảy vì bị thằng bạn trong lớp 
tống tiền; nó đòi anh phải đưa cho nó tiền ăn trưa của anh, nhưng anh cự
 tuyệt. Thằng bạn anh rút dao dọa và đòi tiền lần thứ hai. Anh cũng trả 
lời “không.” Nó chẳng thèm nói thêm, nhảy tới đâm vô cánh tay anh, rồi 
bỏ đi. Anh xách tay máu chạy về nhà. Thay vì băng bó cho anh, cha anh - 
đang thất nghiệp - lôi anh xuống bếp, mở tủ lấy con dao dài đưa anh và 
biểu anh trở lại trường tìm chém thằng đã đâm anh. Anh được dạy dỗ như 
vậy đó - ăn miếng trả miếng. Nếu anh không có sức vóc vạm vỡ, anh chết 
mất từ đời nào rồi.
Nhà
 tù tôi đến dạy thiền hôm ấy thuộc dạng nhà quê, dùng nhốt tù sắp mãn 
hạn hay tù ngắn hạn. Tại đây họ được huấn luyện để tái hội nhập cộng 
đồng; họ có thể học nghề hay học canh tác. Họ lập được nhiều thành tích 
đáng kể như cung cấp thực phẩm rẻ cho tất cả các nhà tù ở Perth. Ngoài 
việc trồng trọt và nuôi gia súc (bò, cừu, heo) nhà tù anh còn có lò mổ. 
Lò mổ là chỗ làm mà nhiều tù nhân thích nhất, và công tác mà họ tranh 
nhau là giết gia súc. Anh tù gốc Ái Nhĩ Lan “đáng nể” của chúng ta đang 
được ưu tiên đó.
Anh
 mô tả chỗ anh đang làm cho tôi nghe. Rào chắn bằng thép trắng có hình 
như cái phễu, mở rộng ở đầu ngoài và thu hẹp chỉ đủ cho một con vật đi 
qua ở đầu trong. Anh ngồi ngay chỗ đầu trong trước cây súng điện đặt 
trên bục. Thú vật được đuổi lần vào trong đáy phễu bằng chó săn hay roi 
chọc. Chúng la hét và tìm cách thoát thân, chừng như cảm thấy, nghe, 
ngửi được tử thần. Bước gần tới anh chừng nào chúng quằn quại, kêu la 
càng thảm thiết chừng nấy. Do đó thay vì bắn vào mỗi con một phát anh 
phải bắn hai phát: phát đầu làm tê cho nó đứng yên và phát sau nhắm vô 
đầu, giết. Một phát làm tê, một phát giết, cứ thế anh giết hết con này 
đến con khác, hết ngày này đến ngày khác.
Lúc
 được đổi tới chỗ này anh rất vui, nhưng chỉ vài ngày sau tâm anh bắt 
đầu không an. Anh bắt đầu chửi thề và tiếp tục lặp đi lặp lại câu, “Đ.M”
 Chúa ơi, lạy Chúa!” Anh sợ và không còn tin Chúa nữa.
Hôm
 nọ, cần làm bò. Một phát làm tê, một phát giết. Anh giết bò như thường 
ngày. “Có con bò bước tới gần tôi,” anh kể. “Nó trầm lặng, không có một 
tiếng rên la. Nó bước chầm chậm, đầu cúi xuống, chấp nhận. Đến đúng vị 
trí, nó ngước đầu nhìn tôi, thản nhiên. Tôi chưa từng gặp trường hợp nào
 như vậy trước đây. Tôi bối rối chết trân. Tôi không giơ súng lên nổi. 
Còn con bò, nó nhìn tôi trân trân.
Anh
 rơi vào khoảng không gian vô tận. Anh không nói bao lâu, nhưng trong 
khoảnh khắc bò nhìn sâu vào ánh mắt anh, anh bị dao động mạnh. Mắt bò 
rất to, mắt trái nó bắt đầu ngấn lệ. Nước mắt tiếp tục dâng rồi trào ra 
chảy dài xuống má trái nó thành một vệt dài lấp lánh. Cửa tâm anh, khép 
kín từ lâu, chợt mở tung. Chới với, anh nhìn thẳng vào mắt của bò. Cũng 
vậy, nước mắt nó cũng chảy dài trên má mặt. Nó đang khóc.
Tới
 đây, anh buông súng. Anh chạy đi tìm cấp chỉ huy, thề sẽ làm bất cứ 
việc gì miễn “con bò này được cứu sống” và từ đó anh ăn chay luôn cho 
tới nay.
Câu chuyện anh kể về sau được các bạn tù của anh xác nhận là thật.
Con bò khóc đã thật sự chuyển hóa một tù nhân có quá khứ vô cùng hung tợn.
Và “lòng từ” trả lời của câu thứ ba mà nhà vua cần biết như kể trong câu chuyện trên, có biết bao ý nghĩa!
56. Cô bé gái nhỏ và bạn cô
Tôi
 có kể chuyện “con bò khóc” với một nhóm người cao niên tại một thị xã 
dưới miền Tây Nam của Tây Úc. Một vị cao niên kể lại cho tôi nghe một 
trường hợp tương tợ xảy ra trong thời niên thiếu của cụ hồi đầu thế kỷ 
qua.
Một
 sáng nọ, đứa con gái nhỏ khoảng bốn, năm tuổi của bạn cụ đòi một đĩa 
sữa bò. Bà rất vui thấy con chịu uống sữa nên không để ý tại sao con 
mình muốn uống sữa bằng đĩa chớ không phải ly như thường tình. Sáng hôm 
sau cô bé gái cũng đòi một đĩa sữa nữa. Bà càng vui hơn vì tin sữa sẽ 
giúp con mình mau lớn. Rồi cô bé tiếp tục đòi và bà tiếp tục rót sữa ra 
đĩa cho con mỗi sáng.
Vì
 không trực tiếp thấy con uống sữa và vì hiếu kỳ, bà để ý theo dõi sau 
đó. Bà thấy con bưng đĩa sữa xuống gầm sàn nhà của gia đình. Bé để đĩa 
xuống đất, nhìn vô khoảng không gian tối om dưới sàn, khẽ gọi. Lát sau, 
có con rắn đen rất lớn bò ra, uống sữa trong lúc bé đứng nhìn mỉm cười. 
Hoảng hồn nhưng bà không dám gây tiếng động sợ rắn chồm chụp bé. Uống 
hết sữa rắn bò trở vô bóng tối. Chiều, chồng bà đi làm vè. Bà kể lại 
chuyện bà thấy. Chồng bà biểu bà tiếp tục rót cho bé đĩa sữa vào sáng 
mai, để rồi ông sẽ tính.
Như
 thường lệ, bé bưng sữa xuống cho rắn. Rắn vừa bò ra, súng liền nổ. Đạn 
bắn làm văng rắn vô trụ sàn nhà, tét đầu. Bé sửng sốt. Còn cha cô từ sau
 bụi rậm bước ra, gác súng xuống đất, đi lượm xác rắn.
Từ sáng hôm ấy, bé không chịu ăn uống gì hết. “Cháu gầy dần,” lời cụ 
kể, “ba má cháu không làm sao thuyết phục được cháu.  Họ đưa cháu vô nhà
 thương. Và cháu chết.”
Người cha giết rắn vô tình giết luôn con mình. Ông đâu ngờ phát súng của ông đã giết bạn của con mình trước mắt con mình.
Tôi hỏi cụ chớ rắn có hành động gì hại cháu bé gái không? 
“Đời nào,” cụ đáp
Tôi đồng ý với cụ nhưng không lặp lại ngôn từ riêng của cụ.
57. Con rắn, ông thị trưởng, và nhà sư
Trong
 tám năm tu học ở Thái Lan, tôi thường trú trong tự viện giữa rừng già, 
nơi có nhiều rắn rít. Chín mươi chín phần trăm các loài rắn ở đây rất 
độc, một số có thể quấn chết người như không - tôi nghe nói như vậy từ 
lúc tôi mới tới hồi năm 1974.
Bấy
 giờ tôi gặp rắn hầu như hằng ngày. Có lần tôi đạp nhầm con rắn dài trên
 thước rưỡi ngay trong cốc tôi. May quá rắn cũng như tôi, cả hai nhảy ra
 hai phía. Lần khác tôi thấy rắn mà tưởng cành cây khô (xin lỗi rắn nha, rắn đâu đến đỗi vô tri như vậy!)
 một lần nữa - lần này mới lạ - có con rắn làm sao không biết mà có thể 
bò lên lưng của một sư bạn đang ngồi tụng kinh chung vói các sư chúng 
tôi. Lúc tôi thấy thì rắn đã lên tới vai sư rồi. Tôi ngưng ngang câu 
kinh trong lúc rắn và sư đưa mắt nhìn nhau. Sư bạn tôi nhẹ hất vạt áo và
 rắn bò đi một cách tự nhiên. Tôi tiếp tục bài kinh, nhưng tâm vẫn chưa 
thật định tĩnh.
Là
 sư tu học trong rừng, chúng tôi được dạy rải tâm từ bi đến mọi loài 
vật, nhất là rắn rít. Chúng tôi phải bảo vệ chúng. Đó phải chăng là một 
trong những lý do chúng tôi chưa ai bị rắn cắn.
Tại
 Thái tôi có dịp thấy con trăn dài cả bảy thước, to bằng bắp vế; tôi vô 
cùng ngạc nhiên và không thể tưởng tượng nổi. Tôi thấy con trăn này một 
lần nữa cùng với các bạn đồng tu, nhưng sau đó nghe nói trăn đã chết! 
Con rắn to thứ nhì mà tôi thấy làm tôi rợn tóc gáy luôn. Lúc ấy tôi đang
 đi trong rừng, tôi chợt thấy một khúc thân đen ngòm vừa to vừa dài chận
 ngang đường với đầu đuôi khuất trong bụi rậm hai bên đường. Biết là con
 rắn thật lớn, tôi theo dõi và tính sơ nghĩ nó dài ít nhất phải mười 
thước. Tôi thuật lại cho dân làng nghe, họ nói đó là con rắn hổ mang 
chúa - rất to và rất nguy hiểm!
Một
 đệ tử của Ajahn Chah, nay là một sư rất nổi tiếng, thuật lại câu chuyện
 sau: Sư đang tọa thiền với một sư khác trong rừng. Có tiếng động cho 
biết có một con rắn hổ mang to lù lù bò đến. Nhiều nơi ở Thái gọi rắn hổ
 mang là “rắn một bước” có nghĩa là khi bị nó mổ rồi nạn nhân chỉ bước 
được một bước là sụm xuống chết ngay chớ không còn con đường thoát thân 
nào cả. Rắn bò tới vị sư cả vươn đầu cao ngang đầu sư cả, phùng mang và 
bắt đầu kêu phì phì. Đứng vào thế của sư, bạn sẽ làm gì nè? Chạy? Vô ích
 vì hổ mang phóng rất nhanh, nai còn chạy không kịp và bị mổ huống hồ gì
 bạn!
Sư
 cả điềm nhiên mỉm cười, từ từ đưa tay lên vỗ nhẹ lên đầu rắn nói: «Cám 
ơn bạn đã đến viếng sư”. Tất cả các sư đều sửng sốt hơn khi các sư thấy 
rắn xếp mang, hạ đầu và bò tới một sư khác. Sư “có duyên” này kể lại 
rằng sư điếng người, chớ còn hồn vía đâu mà vỗ đầu rắn như sư cả.
Sư
 cả vỗ đầu rắn nổi tiếng là một chơn tu rất từ bi. Ngài có đến Úc và an 
trú tại tự viện của chúng tôi. Bấy giờ chúng tôi đang xây chánh điện và 
xúc tiến nhiều công trình kiến trúc khác. Một hôm ông Thị trưởng sở tại 
đến viếng để thanh tra công trình xây cất. Ông này làm thị trưởng thì 
chắc chẳng ai bằng. Ông sinh ra và lớn lên tại địa phương. Ông còn là 
một nhà nông rất thành công. Tưởng ông dềnh dàng, bệ vệ, với cái bụng 
quá khổ khiến chiếc áo vét ông mặc hôm ấy không gài nút được. Gặp ông sư
 cả thản nhiên đưa tay vỗ nhẹ lên bụng “trống chầu” của ông. Tôi nghĩ, 
“Thôi chết rồi, các công trình dở dang của tự viên khó thể hoàn tất!”
Trong
 lúc vỗ bụng ông, sư cả nhìn ông mỉm cười. Ông cười theo và cười càng 
lúc càng đắc ý hơn. Rõ ràng ông thích được sư cả vỗ bụng. Thế là tất cả 
các công trình đều được chấp thuận và sư cả trỏ thành người bạn rất thân
 của chúng tôi và rất nhiệt tình đối với tự viện.
Tâm
 từ bi là nền tảng của mọi hành động của các sư chúng tôi. Sư cả có tâm 
từ bi nên ông có thể vỗ đầu rắn hổ mang và vỗ bụng ông thị trưởng, và cả
 hai đều quý mến sư. Dĩ nhiên tôi không dám khuyến khích các bạn làm như
 vậy nếu các bạn chưa nhập vào dòng Thánh.
58. Con rắn bất thiện
Nói
 về rắn, các câu chuyện tiền thân (Jatakas) của Đức Phật kể rất nhiều. 
Sau đây là một chuyện mà tôi xin phóng tác để cho thấy từ bi không tất 
yếu là thụ động hay yếu mềm.
Có
 con rắn bất thiện sống trong khu rừng gần một làng nọ. Nó đầy ác ý, 
hiểm độc và bần tiện. Nó cần người vì vui thích riêng của nó. Lúc vào 
tuổi về chiều nó bắt đầu suy tư đến cái chết của loài rắn; rắn chết vì 
sao và như thế nào? Chúng có hậu kiếp không? Bấy giờ nó mới để ý đến các
 vấn đề này, những vấn đề mà trước đây chẳng những nó không tin mà còn 
khinh miệt và gọi những đồng loại có lòng tin là đồ non dạ non lòng hay 
tin nhảm nhí.
Không
 xa hang của rắn bất thiện có con rắn thánh. Như các thánh khác, rắn 
thánh an trú trên núi. Một hôm rắn bất thiện quyết định đến viếng rắn 
thánh. Nó hóa trang để rắn bạn không biết nó là ai rồi lén bò lên tự 
viện của rắn thánh. Nó đến lúc rắn thánh đang quấn tròn trên tảng đá cao
 thuyết pháp và hàng trăm rắn khác đang say sưa theo dõi. Nó bò đến một 
bìa ngoài dừng lại gần lối ra và lắng tai nghe.
Càng
 nghe nó càng thấm, bài pháp đã thuyết phục được nó. Nó được cải hóa. Nó
 rất hoan hỷ. Sau buổi pháp thoại nó mạnh dạn lên đảnh lễ rắn thánh, 
khóc và xin sám hối các tội lỗi nó đã từng gây ra trong quá khứ. Nó 
nguyện sẽ làm con rắn thiện và không bao giờ cắn mổ ai hết. Nó còn 
nguyện sẽ từ bi và sẽ dạy cho các rắn khác làm rắn thánh thiện. Lúc rời 
tự viện nó không quên cúng dường (dĩ nhiên trước mắt các đồng loại).
Rắn
 nói lời của loài rắn, nhưng những lời ấy không khác lời của loài người 
là bao. Rắn bất thiện trước đây không thể nói rằng bây giờ mình thiện 
rồi mong dân làng tin tưởng ngay. Phải chứng minh trước đã. Nó chứng 
minh bằng cách không mổ anh nhà quê lãng trí đạp nhầm nó. Từ dạo đó dân 
lành không còn sợ nó nữa. Họ ung dung đi ngang qua hang nó lúc không 
thấy nó cũng như lúc có nó đang khoanh trước miệng hang. Trẻ con còn 
theo chọc nó nữa, gọi nó là “loài bò sát trơn lùi” hay “con trùn bự quá 
khổ”. Nó không cần tự vệ. Thấy vậy, bọn trẻ làm tới. Chúng liệng đá, đất
 cục phá nó và cười hô hố mỗi khi đất đá trúng nó. Nó biết nó có thể 
phóng nhanh rượt cắn bất cứ đứa nào, nhưng nó đã nguyện là không rồi – 
nó tu mà. Đám trẻ càng thêm hóm hỉnh, chúng vác cây đập nó. Nó chịu đòn.
 Rồi nó bò lên chỗ rắn thánh.
Thấy thân thể bầm dập của nó, rắn thánh hỏi lý do. Nó đáp:
“Tất cả đều do ông mà ra.”
“Sao vậy, nào tôi có làm gì đâu?“ Rắn thánh chống chế
“Ông bảo  tôi không cắn. Xin ông nhìn đây mà xem. Tu hành chỉ có trong chùa còn ngoài đời…”
“Ồ,
 chú rắn ngu xuẩn kia!” Rắn thánh ngắt lời nó, “Chú thật điên rồ! Chú 
thật ngốc nghếch! Tôi dạy chú không cắn chứ tôi có bảo chú đừng huýt 
gió, có phải vậy không?”
Ở đời thánh đôi khi cũng phải “huýt gió”. Nhưng không nên “cắn hay mổ” ai.
 Chơn Quán Trần-ngọc Lợi dịch