Về tác giả
(thường được gọi là Ajahn Brahm), thế danh Peter
Betts, sanh tại Luân Đôn, Anh Quốc ngày 7 tháng tám năm 1951. Tốt nghiệp
ngành Vật lý thuyết tại Đại Học Cambridge, Anh quốc. Dạy trung học một
năm. Sang Thái Lan tu Phật. Thọ giới Tỳ kheo tại Bangkok, Thái
Lan lúc 23 tuổi. Theo tu thiền trong rừng trên miền Đông Bắc Thái Lan
với Đại trưởng lão Ajahn Chah suốt chín năm dài. Hiện nay Ngài là Sư trụ
trì Tự viện Bodhinyana tọa lạc tại Serpetine, Tây Úc. Ngoài ra, Ngài
còn là Giám đốc tinh thần Hội Phật giáo Tây Úc (The Buddhist Society of
South Australia), Cố vấn tinh thần Hội Phật giáo Victoria (The Buddhist
Society of Victoria), Cố vấn tinh thần của Hội Phật giáo Nam Úc ( The
Buddhist Society of south Australia), Bảo trợ tinh thần của Hội Ái Hữu
Phật giáo Singapore ( The Buddhist Fellowship in Singapore) và Bảo trợ
tinh thần của Trung tâm Bodhikusuma tại Sydney (The Bodhikusuma Center
in Sydney)
Đã ấn tống: Opening The Door Of Your
Heart: And Other Buddhist Tales Of Happiness hay Who Ordered This
Truckload of Dung? Inpiring Stories For Welcoming Life’s Difficulties
(2005); Mindfulness, Bliss, and Beyond: A Meditator’s Handbook (2006);
Simply This Moment! A Collection Of Talks on Buddhist Practice (2007).
TU SĨ ẨN LÂM
PHỎNG VẤN THIỀN SƯ AJAHN BRAHMAVAMSO
Rachael Kohn
(Bình Anson trích dịch)
PHỎNG VẤN THIỀN SƯ AJAHN BRAHMAVAMSO
Rachael Kohn
(Bình Anson trích dịch)
Thiền sư Ajahn Brahmavamso là vị trụ trì tu viện Bodhinyana (Giác Minh), bang Tây Úc, Australia. Ngài cũng là vị cố vấn tinh thần của Hội Phật giáo Tây Úc. Ngài đã từng tu học tại Thái Lan, trong truyền thống Phật giáo Nguyên thủy, dưới sự hướng dẫn của ngài Thiền sư Ajahn Chah. Sau đây là vài đoạn trích dịch từ một bài phỏng vấn của bà Rachael Kohn, phóng viên đài phát thanh Úc châu, vào tháng 3-2003.
* * *
Rachael Kohn (RK): Tìm sự an bình trong một thế giới vui chơi ồn ào
quả thật là một điều hiếm có đối với một chàng
trai trẻ. Sinh ra tại thủ đô London của Anh
quốc, tốt nghiệp thạc sĩ ngành Vật lý Lý thuyết tại
Đại học Cambridge, Ajahn Brahmavamso
trở thành một tu sĩ Phật giáo trong truyền thống Ẩn lâm của Thiền sư Ajahn
Chah tại Thái Lan. Ngày nay, ngài là vị trụ trì Tu viện Bodhinyana, huyện
Serpentine, bang Tây Úc, và là một giảng sư
được nhiều nơi thỉnh mời, và nổi tiếng về tài kể các mẫu chuyện
ngắn rất ý nghĩa.
Mặc dù sống đơn giản là căn bản của đời sống tu sĩ, nhất là trong khung cảnh núi rừng ở huyện Serpentine, nhưng có lẽ điểm chính yếu của tuệ quán Phật giáo là tìm thấy sự an bình trong thế giới loạn động. Và đó cũng tương tự với sự kiện lần đầu tiên khi tôi gặp Sư Brahmavamso tại Trung tâm Thiền Phật giáo Bodhikusuma tọa lạc trong khu nội thị ồn ào của thành phố Sydney, với các đoàn xe tải di chuyển rầm rộ ngay trước cửa.
Bạch Sư, ngài là tu sĩ từ nhiều năm qua, hình như ngài đi tu lúc 23 tuổi?
Mặc dù sống đơn giản là căn bản của đời sống tu sĩ, nhất là trong khung cảnh núi rừng ở huyện Serpentine, nhưng có lẽ điểm chính yếu của tuệ quán Phật giáo là tìm thấy sự an bình trong thế giới loạn động. Và đó cũng tương tự với sự kiện lần đầu tiên khi tôi gặp Sư Brahmavamso tại Trung tâm Thiền Phật giáo Bodhikusuma tọa lạc trong khu nội thị ồn ào của thành phố Sydney, với các đoàn xe tải di chuyển rầm rộ ngay trước cửa.
Bạch Sư, ngài là tu sĩ từ nhiều năm qua, hình như ngài đi tu lúc 23 tuổi?
Ajahn Bramavamso (AB): Vâng, năm tôi
23 tuổi, tôi thấy đời sống thế tục không có gì hấp dẫn, và quyết
định trở thành tu sĩ. Trước
đó, tôi đi dạy, sau khi tốt nghiệp đại học.
Trong thời gian làm giáo viên, tôi cảm thấy trong tâm có một cảm
xúc rất mạnh mẽ về đời sống tu sĩ, hay một sự
thôi thúc tâm linh nào đó. Hơn
nữa, trong truyền thống Phật giáo Thái Lan, người ta có thông lệ xuất gia
tu gieo duyên, nghĩa là đi tu chỉ trong một
thời gian ngắn.
Vì thế, tôi quyết định xin nghỉ việc tạm
thời trong vài năm, du hành
sang Thái Lan, xuất gia đi tu, để thỏa mãn
sự thôi thúc trong tâm, rồi sau đó, sẽ trở về
đời sống thế tục. Nhưng một khi tôi trở thành tu sĩ, có cái gì
đó đã xảy ra rất nhanh chóng làm cho
tôi nhận thức được rằng đây chính là
điều tôi hằng mong ước, và tôi cảm
thấy rất thoải mái trong vai trò của một tu sĩ.
RK: Xin Sư nói rõ hơn, về lý do thật sự
đã làm cho Sư có một quyết
định thay đổi cuộc sống như thế?
AB: Điều làm tôi có một quyết định rốt ráo như thế là vì tôi nhận
thức được rằng đối với tôi lúc ấy, có một cái gì
đó trong đời sống thật sự quan trọng hơn là
chỉ đi làm việc hay dính mắc vào tình
cảm yêu đương. Có lẽ một trong những kinh
nghiệm rung cảm nhất trong đời tôi là kinh nghiệm có
được khi tôi tham dự các khóa thiền khi còn
là cư sĩ. Tôi đạt được một mức độ an định rất
thâm sâu, với nhiều hỷ lạc. Cảm giác đó không bao giờ rời khỏi tôi, và
tôi muốn tìm hiểu ý nghĩa thật sự của nó, và vai trò của nó trong thế gian
này. Sự an định trong thiền là những
gì làm thay đổi cái nhìn của tôi về ý
nghĩa của đời sống, và tôi muốn tìm
hiểu sâu xa hơn về ý nghĩa đó. Điều này
chỉ thực hiện được trong đời sống xuất gia.
RK: Thế nhưng qua những gì Sư đã
từng kể cho biết, đời sống tu hành của
Sư cũng không thoải mái lắm. Ý tôi muốn nói là Sư
đã bỏ nhiều công sức xây dựng chùa
chiền trong suốt 20 năm, trong hoàn
cảnh rất khó khăn...
AB: Xây dựng tự viện quả thật rất cực nhọc, nhưng cũng
đầy thú vị nếu chúng ta làm việc trong
niềm hoan hỷ. Một trong những câu chuyện tôi thường kể là khi chúng tôi
xây dựng chánh điện tại tu viện của thầy tôi,
ngài thiền sư Ajahn Chah, ở Thái Lan. Một ngày nọ, ngài Ajahn Chah
bảo chúng tôi phải dời một đống đất lớn từ
nơi này sang một nơi khác, vì ngài cho rằng nếu
để ở đây thì không
đẹp mắt.
Chúng tôi làm việc cực khổ suốt 3 ngày, từ 9 giờ sáng
đến 10 giờ đêm, không ngừng nghỉ,
ngoại trừ lúc ăn. Mỗi ngày, chúng tôi
chỉ ăn một bữa cơm, và chúng tôi làm
việc trong thời tiết nóng bức của vùng nhiệt
đới. Sau khi hoàn tất, chúng tôi rất vui mừng, nhưng lúc
đó, ngài Ajahn Chah lại
đi viếng một tu viện khác. Sáng hôm
sau, vị sư phó trụ trì đến gặp chúng tôi, bảo
rằng chúng tôi đã đổ đống đất đó nhầm
chỗ và chúng tôi phải dời đống đất đi
nơi khác. Thế là chúng tôi phải làm việc thêm 3 ngày nữa, và dĩ
nhiên tôi rất vui sướng khi hoàn tất công việc ấy.
Tuy nhiên, ngày hôm sau, Ajahn Chah trở về, ngài gọi chúng tôi
đến và bảo: "Tại sao các sư lại đem đổ
đống đất ở chỗ đó? Tôi đã dặn các sư phải đổ đất tại chỗ này mà?!" Thế là
chúng tôi lại phải ra sức lao động di
dời đống đất thêm 3 ngày nữa. Dĩ nhiên
là tôi phát cáu, nổi sân. Là người Tây phương duy nhất trong một tu việc
châu Á, tôi có thể lầm bầm, càu nhàu bằng tiếng Anh, không sợ người khác
biết. Nhưng các vị sư khác vẫn hiểu được,
vì họ có thể đoán qua cử chỉ của tôi.
Và một sự kiện xảy ra làm tôi luôn luôn ghi nhớ. Một vị sư
đến gần tôi và dịu dàng nói: "Đẩy
xe cút kít rất dễ, nhưng càng suy nghĩ về nó lại càng tạo thêm khó
khăn!" Chỉ một câu nói đó đã thay
đổi cái nhìn của tôi về công việc tôi
đang làm. Ngay khi tôi chấm dứt càu
nhàu, than phiền, công việc đẩy xe cút kít
đổ đất trở nên dễ dàng và nhẹ nhàng
hơn. Đây là tôi
đã học
được một trong những bí quyết của đời sống tu sĩ. Cho dù ta
đang làm bất cứ việc gì, ngồi hành
thiền giờ này sang giờ khác trong tịnh thất hay phải lao
động xây cất chùa chiền, chính sự
đắn đo than trách làm cho công việc
trở nên khó khăn, cực nhọc hơn.
RK: À, như thế có vẻ như một trong các bí quyết của
đời sống tu sĩ là phải biết tuân lệnh.
Phải chăng đó là một hình thức tra
tấn, khổ nhục? Tuân lệnh làm một việc nầy, rồi
đảo ngược lại, rồi làm lại như trước?
AB: Không có chi. Xin cám ơn Bà.
AB: Không hẳn thế. Cùng một sự kiện qua một góc nhìn này, ta thấy
thế này, nhưng qua một góc nhìn kia, ta lại thấy khác. Ta có thể thấy việc
gì cũng là một cực hình khổ sở, việc ăn uống có thể là một cực hình, bị
phỏng vấn như thế này cũng là một cực hình, v.v. nhưng thái độ của ta đối
với các công việc ấy như thế nào mới là điều quan trọng. Và một trong
những bài học quý giá có được trong đời sống
tu sĩ là cách thức ta xử lý một vấn đề
nào đó. Thông thường ta có được sự lựa
chọn. Nếu ta tiếp tục tuân theo đường lối ngu xuẩn quen thuộc để nhìn
cuộc đời, ta sẽ bị khổ não. Nhưng nếu
ta thật sự thay đổi cách nhìn của mình
về đời sống, hay nói cách khác, khi ta có thêm
trí tuệ, ta sẽ thấy vấn đề đó không còn
khó khăn, khổ sở nữa.
RK: Phải chăng lúc nào Sư cũng
quan tâm đến thái độ của Sư đối với mọi sự
việc? Tôi có ý nói là dường như Sư lúc nào cũng là một người tìm sự
toàn bích, tìm kiếm cái hạnh phúc tuyệt đối...
Bởi vì đối với tôi, khi nghỉ đến hạnh phúc,
tôi thường thấy thỏa mãn với những cái hạnh phúc và không hạnh
phúc, vì đó là tổng hợp của những gì
mà đời sống thường đem đến cho chúng ta.
Nhưng Sư, hình như Sư lại nỗ lực tìm kiếm một giải pháp huyền diệu
nào đó để thấy được hạnh phúc trong mọi sự
việc.
AB: Vâng, đúng thế. Tôi luôn luôn nghĩ
rằng việc tầm cầu hạnh phúc là động lực chính
của cuộc sống. Trong cuộc sống, bất cứ việc gì chúng ta làm trên
thế gian này, luôn luôn là để tầm cầu một hạnh phúc nào
đó. Riêng tôi, một trong những kinh
nghiệm ban đầu về niềm hỷ lạc thâm sâu trong
thiền định đã cho tôi thấy thế nào là hạnh phúc xuất thế. Và khi ta
thưởng thức được điều đó, ta càng nỗ
lực để tìm hiểu sâu xa hơn nữa về ý
nghĩa đích thực của hạnh phúc.
Ý nghĩa của hạnh phúc là ý nghĩa của đời
sống. Đó không phải chỉ đơn thuần là ý nghĩa hạnh phúc trong thiền
định, mà còn là ý nghĩa hạnh phúc của
bất cứ công việc nào ta đang thực hiện. Ngay
cả khi thân thể của ta ra lệnh cho ta: “Bây giờ bạn phải đi ngủ”, hay “Bây
giờ bạn phải bị bệnh”, hay “Bạn không thể làm
được điều bạn mong muốn”. Không có vấn
đề chi, nếu có sự việc nào
đó trong đời sống ngăn cản, không cho chúng
ta làm những gì chúng ta muốn làm. Cũng như thể
đó là các mệnh lệnh của
đời sống, lúc ấy, ta có cơ hội
để buông xả, không bám víu vào
đó, khi ta không thể làm gì khác hơn,
và ta nên có thái độ thỏa lòng với
hoàn cảnh hiện tại. Và đó là một trong
những điều kỳ diệu mà tôi
đã tìm thấy khi thực hành Phật pháp.
Ta có thể an vui, hạnh phúc, trong bất cứ hoàn cảnh nào.
RK: Tôi còn nhớ Sư đã từng kể một câu chuyện khi Sư đến thăm
viếng trại tù và thuyết giảng cho các tù nhân. Khi Sư nói cho họ biết về đời
sống tu sĩ, hình như họ rất ngạc nhiên, và họ nói: "Trời! Thế là khổ quá!
Quý Sư hãy đến đây sống với chúng tôi, đời sống ở đây dễ chịu hơn là đời sống
tu sĩ!” Đó là một trong những câu chuyện Sư thường kể để chuyển tải một thông
điệp nào đó…
AB: Ta hiểu rõ đời sống qua các câu chuyện, hơn là qua các ý tưởng. Các ý tưởng tựa hồ như thể một bản báo cáo xưa cũ về những gì thật sự xảy ra trong cuộc sống. Nếu chúng ta kể các mẫu chuyện về đời sống chung quanh ta và lồng trong đó các ý nghĩa mà ta muốn truyền tải, người nghe sẽ dễ thông hiểu và hấp thu. Vì thế, tôi thích kể các câu chuyện ý nhị đó. Trở lại câu chuyện Bà vừa nêu ra, đó là khi chúng tôi đến viếng một trại tù gần tu viện, và một vị tu sĩ trong đoàn thuyết pháp cho các trại viên. Sau thời pháp, một tù nhân có hỏi về đời sống của một tu viện Phật giáo ở phương Tây. Chúng tôi cho ông ấy biết là tại tu viện, chúng tôi thức dậy rất sớm, khoảng 3 giờ sáng, rồi cùng nhau tụ tập tại ngôi chánh điện lạnh lẽo, ngồi xếp chân trên mặt đất, hành thiền, và sau đó, tụng kinh công phu sáng. Đến khoảng 6.30 sáng, chúng tôi uống trà hoặc cà phê, rồi làm các công việc lao động bảo quản chùa, thường rất nặng nhọc trong 3-4 giờ, trước khi ăn trưa. Bữa ăn trưa cũng không được chọn lựa, có chi ăn nấy, do sự cúng dường của các cư sĩ, và các loại thức ăn được trộn lẫn lộn với nhau trong một bình bát của mỗi tu sĩ. Như thế, hương vị thức ăn cũng không có gì hấp dẫn. Sau khi nghỉ trưa, chúng tôi lại phải chấp tác lao động nữa, vì lúc đó, tu việc có nhiều công trình xây dựng. Chúng tôi không xem ti vi, vì chùa không có máy ti vi mà cũng không có máy radio, nên không ai xem thể thao, không ai được phép chơi thể thao, không được phép đánh đàn hay nghe nhạc, v.v. Vào buổi chiều, chúng tôi không có xi nê phim ảnh giải trí, mà cũng không được ăn buổi chiều. Chúng tôi lại tụ tập nơi chánh điện, ngồi xếp chân hành thiền hằng giờ trên nền đất buốt lạnh, và sau buổi thiền, mỗi tu sĩ trở về liêu cốc riêng, sống một mình, và nằm ngủ trên nền đất, lạnh lẽo. Khi nghe chúng tôi trình bày như thế, các trại viên rất sửng sốt, ngạc nhiên, vì họ không ngờ chúng tôi lại có một đời sống như thế. Cho nên, một trại viên, có lẽ ông ta đã quên rằng ông đang sống trong tù, phát biểu: "Ghê quá! Đời sống như thế là quá khắc khổ! Tại sao các Sư không vào đây mà sống với chúng tôi, trong trại này, sung sướng hơn?!" Thật là điên rồ và khôi hài, vì ông ta đã quên rằng ông đang bị giam trong tù! Điểm quan trọng trong câu chuyện này là: lý do chính mà các vị tu sĩ và các vị cư sĩ thiền sinh khi đến viếng tu viện đều muốn ở lại đó, vì họ cảm thấy an lạc, thỏa mãn. Họ không xem tu viện như là tù giam, bởi vì họ tự nguyện, thật lòng muốn đến tu học tại đó, cho dù cuộc sống có phần khắc khổ. Trong khi ấy, các trại viên tội nhân bị chính quyền giam vào một nơi mà họ không muốn ở, cho nên đối với họ, nơi đó là một nhà tù. RK: Bạch Sư, như thế, đó là sự tự do, phải không? Đó là quan kiến của chúng ta về sự tự do, về những gì tạo ra tự do. Tôi có ý muốn nói về những gì tạo ra sự tự do là sự lựa chọn, không gò bó, không trói buộc. Còn ý của ngài thì sao?
AB: Thật ra, chúng ta có hai loại tự do: tự do ham muốn và tự do khỏi ham muốn. Đa số người ta trên thế gian này chỉ biết đến loại tự do của ham muốn, tự do của chọn lựa. Trong đạo Phật, nhất là trong hành thiền, chúng tôi nhắm đến loại tự do thứ hai, đó là tự do khi thoát khỏi sự ham muốn, tự do khi thoát khỏi sự chọn lựa. Cho nên, khi ta bằng lòng ngay trong hiện tại, khi tâm ta an bình, các sự ham muốn sẽ không xảy ra. Ta được tự do, thoát khỏi áp lực của những sự ham muốn vốn có khuynh hướng áp đảo chúng ta và sai khiến ta phải làm theo mệnh lệnh của chúng. Đó là những mệnh lệnh trong nội tâm của mỗi người chúng ta, ra lệnh chúng ta phải làm sao cho vượt trội hơn người khác, phải làm sao để xua đuổi cơn đau, phải làm sao để đạt được một mục đích nào đó, cho dù chúng ta cũng không biết tại sao cần phải làm như thế, … Khi hành thiền, dần dần chúng ta sẽ đạt được sự tự do thoát khỏi các mệnh lệnh đó. RK: Có phải chăng Sư lúc nào cũng biết được lý do để đạt mục đích là trở thành một tu sĩ Phật giáo, và một vị trụ trì tu viện?
AB: Không hẳn thế. Trở thành vị trụ trì chỉ là vì hoàn cảnh đưa đẩy. Còn trở thành một tu sĩ Phật giáo là điều tôi mơ ước từ khi còn trẻ. Lúc ấy, chung quanh tôi, tôi thấy có nhiều người có rất nhiều của cải tài sản và danh vọng. Hình như họ có cơ hội để sống với ước mơ của họ, nhưng sự mong muốn của họ không bao giờ ngưng. Họ không bao giờ thoát khỏi lòng mong muốn, lúc nào cũng nỗ lực để thoả mãn sự mong muốn, thèm khát điều này, rồi lại điều kia, như là những người đói khát, thật là khổ tâm. Đôi khi chúng ta cũng thế, chúng ta muốn chấm dứt cảm giác đói khát trong nội tâm, muốn được thỏa mãn vĩnh viễn, nhưng hình như điều đó không bao giờ đạt được… Có rất nhiều người giàu có và thành công trên đời này, được nhiều người ca tụng và bắt chước, nhưng nếu ta hỏi họ: "Ông Bà có thật sự tự do không?" Nếu họ thành thật, có lẽ ta sẽ nhận được các câu trả lời rất lý thú! Rồi tôi gặp được vài vị tu sĩ Phật giáo, và họ là những người an lạc nhất mà tôi đã từng thấy trên đời này. Mặc dù sống trong tu viện với nhiều giới luật nghiêm khắc, trong một đời sống rất đạm bạc và đơn giản, nhưng ta có thể cảm nhận được sự an lạc, thảnh thơi, tự do của các vị tu sĩ đó. Từ đó, ta mới hiểu được sự khác biệt của hai loại tự do: tự do của ham muốn và tự do thoát khỏi ham muốn. Trong thế giới ngày nay, chúng ta có quá nhiều phương tiện để theo đuổi và thỏa mãn các ham muốn của chúng ta, hầu như ta có thể làm được những gì ta muốn. Nhưng có mấy ai thật sự cảm thấy tự do? RK: Tất cả đều tùy thuộc chúng ta mong muốn gì từ cuộc sống. Tôi biết thông điệp của Sư thông thường là về sự hạnh phúc, như thể để chuyển tải câu: “Đừng lo âu. Hãy an vui", liên quan đến việc thay đổi thái độ của chúng ta, chứ không phải để thay đổi thế gian. Thế nhưng, chắc Sư cũng biết, thái độ đó cũng có thể phát sinh một thái độ thờ ơ đối với cuộc đời.
AB: Không hẳn thế đâu. Tôi không nghĩ điều đó có liên hệ gì đến sự thờ ơ lãnh đạm, bởi vì khi có nhiều người thay đổi thái độ sống thì thế gian sẽ thay đổi theo. Tuy nhiên, chúng ta cũng nên ghi nhận rằng ngày nay, thay vì phải giải quyết các vấn đề trong đời sống với một thái độ an vui, người ta giải quyết chúng với một tâm sân hận, giống như thái độ của một chuyên viên diệt trừ sâu bọ. Thay vì cố gắng tìm hiểu và chung sống hòa hợp với thiên nhiên, ta lúc nào cũng muốn khống chế và tiêu diệt tất cả những gì đã và đang tạo ra vấn đề khó khăn cho chúng ta, và những thứ đó có thể bao gồm cả những người thân hoặc một loại thù địch nào đó mà ta xem như là sâu bọ. Nhưng ắt hẳn chúng ta cũng biết rằng ta không thể nào diệt trừ tất cả các loài sâu bọ trên thế giới, mà ta cũng không thể diệt trừ tất cả các sâu bọ trong thân thể của chính mình, như ung thư và các loại bệnh tật khác. Đôi khi, chúng ta phải dành thì giờ để học cách sống an bình và hài hòa với thiên nhiên. RK: Đạo Phật có dạy chúng ta phải đối kháng những điều nguy hiểm, xấu ác, quỷ quyệt không?
AB: Vâng. Chúng tôi giảng dạy về sự đối kháng tâm sân hận, về sự đối kháng tâm đố kỵ, về sự đối kháng tâm ngu si. Đó là những điều chúng ta phải thật sự đối kháng, đó là những gì liên quan đến lòng sân hận và cảm giác muốn trả thù, liên quan đến sự đau đớn dằn vặt trong tâm, sự ưu sầu, cảm giác tội lỗi, v.v, tất cả những cảm tính tiêu cực của đời sống. Đó là những gì chúng ta muốn đối kháng, muốn hiểu rõ, để vượt qua, bằng cách buông xả. Khi ấy, chúng không còn hiện hữu nữa. RK: Tôi thích câu chuyện Sư thường kể về một vị giảng viên vào trong lớp học và mang theo một lọ chứa đầy các viên sỏi… Ngài có thể kể ra đây không?
AB: Vâng. Thật ra, đó là một câu chuyện tôi học được từ một vị Phật tử, có quảng bá trên Internet. Cho nên, có lẽ nhiều thính giả của đài phát thanh đã từng biết qua, nhưng đó là một câu chuyện hay. Một ngày nọ, một vị giảng viên đại học đến lớp giảng, thay vì đọc và dạy những gì ghi trong sách như thường lệ, ông ấy mang theo một lọ thủy tinh to, và đặt nó trên bàn viết. Trong khi các sinh viên thắc mắc không biết ông ấy có ý định gì, ông bắt đầu mở một cái túi và lấy ra các viên sỏi to và bỏ từng viên vào lọ cho đến khi không còn bỏ thêm được viên nào nữa. Ông hỏi cả lớp: "Lọ này đã đầy chưa?”, và mọi người trả lời: "Vâng, đầy rồi”. Ông mỉm cười, rồi lấy ra một túi khác, chứa các viên sỏi nhỏ, và bỏ từng viên sỏi nhỏ vào lọ, vào trong các khe giữa các viên sỏi lớn, đến khi không còn bỏ thêm được viên nào. Rồi ông hỏi: "Đầy lọ chưa?”. Bây giờ, có lẽ đoán được ý ông, cả lớp lắc đầu và trả lời: "Dạ, chưa đầy”. Họ cười vang, thích thú theo dõi các động tác của ông. Ông mỉm cười, lấy ra một túi khác chứa đầy cát mịn, từ từ đổ cát vào lọ, vừa đổ vừa lắc lọ để các hạt cát mịn chảy vào các khe trống trong lọ, cho đến khi không còn đổ cát thêm được nữa. Rồi ông lại hỏi: “Đã đầy chưa?” và cả lớp trả lời: "Dạ chưa". Lần này, ông nhờ sinh viên mang đến một chai nước và từ từ đổ nước vào lọ cho đến khi đầy tràn. Rồi ông hỏi cả lớp: "Những gì tôi làm hôm nay có ý nghĩa gì?" Đây là lớp học về quản lý kinh doanh, cho nên, một sinh viên nhanh nhẩu đưa tay đứng lên phát biểu: "Thưa Thầy, việc này có ý nghĩa là cho dù chúng ta có bận rộn như thế nào, chúng ta vẫn có thể thu xếp để đảm nhận thêm vài việc khác nữa". Nhưng vị giáo viên nói: "Không hẳn thế. Đấy không phải là ý nghĩa điều tôi muốn diễn tả. Điều mà tôi muốn trình bày ở đây là nếu các em muốn bỏ vào lọ các viên sỏi to thì các em phải bỏ chúng vào trước tiên. Đừng đợi đến lúc cuối, vì như thế, các em sẽ không bao giờ bỏ chúng vào trong lọ được.” Đây là một câu chuyện về thứ tự ưu tiên, về những gì ta phải dành ưu tiên trong lịch làm việc của mình, của cuộc đời mình. Cũng vậy, có những sự việc chúng ta đều biết chúng quý giá như những viên đá quý, những viên sỏi to của cuộc đời, như gia đình ta, như sự liên hệ giữa ta và những người thân thương, như sự an bình trong tâm thức, v.v., nhưng nhiều khi, ta lại xếp chúng sang một bên, xếp vào thứ bậc cuối cùng của lịch làm việc trong ngày, trong tuần, trong cuộc đời của ta, để rồi sẽ không bao giờ có được cơ hội thực hiện những điều ấy. Đó là một trong những lý do làm chúng ta không tìm được hạnh phúc. Chúng ta không đặt đúng thứ tự ưu tiên những gì cần phải thực hiện cho cuộc đời mình. Chúng ta phải luôn luôn nhớ đến câu chuyện bỏ đá vào lọ của vị giảng viên đại học kia, và thu xếp thực hiện những việc thật sự quan trọng nhất trong cuộc đời chúng ta. Chúng ta vẫn luôn luôn có cơ hội để làm thêm các việc khác, kém quan trọng hơn, về sau này. RJ: Bạch Sư, có còn những gì khác mà Sư muốn đặt thêm vào lọ của Sư không?
AB: Bỏ vào lọ của tôi? Đó là sự an bình và hạnh phúc cho tôi và cho người khác. Rốt cuộc, điều quan trọng nhất trong đời tôi là làm thế nào để mang lại hạnh phúc cho tôi và cho người khác. Tuy nhiên, sau nhiều năm trong đời tu sĩ, tôi thấy không thể nào tách rời hạnh phúc của riêng tôi và hạnh phúc của người khác. Vì thế, tôi sẵn sàng đi đây đi đó để phục vụ mọi người, càng nhiều càng tốt, thuyết giảng, và kể nhiều câu chuyện vui nhưng có ý nghĩa, để mọi người vui vẻ đón nhận và thông hiểu. RK: Bạch Sư, chúng ta đang ngồi đây, bên cạnh một bàn thờ rất truyền thống, trên đó có một tượng Phật và chung quanh có các đóa hoa sen. Câu hỏi cuối cùng của buổi phỏng vấn hôm nay là: các biểu tượng này có ý nghĩa như thế nào?
AB: Vâng. Chúng ta nhìn vào bàn thờ, bắt đầu từ vị trí cao nhất, tượng Đức Phật trong tư thế hành thiền, mắt khép lại, miệng mỉm cười, rõ ràng đó là biểu tượng của sự an bình. Khi ta nhìn những hình ảnh như thế, lòng ta cảm thấy thanh thản, nhẹ nhàng, từ bi. Hai bên tượng Phật là các cây nến, đó là biểu tượng của trí tuệ, vì ta thắp nến là để mang ánh sáng, xua tan sự tối tăm, mê ám. Qua nhiều thế kỷ trong lịch sử, đó là biểu tượng cho sự giác ngộ. Trí tuệ hiện hữu, không ai thật sự sở hữu trí tuệ, nhưng chúng ta cần có cây nến để thắp sáng, để tự mình thấy rõ ràng mọi sự việc. Rồi ta thấy các đóa hoa sen trên bàn thờ. Hoa sen là một biểu tượng quan trọng trong đạo Phật. Hoa sen có nhiều lá, và nhiều cánh hoa, hằng ngàn cánh hoa, và đây là một trong những đề mục hành thiền ưa thích nhất của tôi. Trong thiên nhiên, muốn mở các cánh hoa sen, mặt trời phải duy trì đầy đủ các tia nắng ấm liên tục trên ngàn cánh hoa, từ cánh hoa thứ nhất ở ngoài cùng cho đến cánh hoa thứ một ngàn nằm sâu bên trong. Phần trong cùng của hoa sen là phần thơm ngát nhất, tế nhị nhất và mỹ lệ nhất. Nếu ta may mắn, và nếu mặt trời vẫn duy trì được các tia nắng ấm trong suốt thời gian nở hoa, lúc ấy, nụ sen sẽ mở ra, và ta sẽ thấy được phần quan trọng nhất, được gọi là viên ngọc của hoa sen. Đây là biểu tượng của hành thiền, vì chúng ta phải duy trì chánh niệm liên tục, không ngừng nghỉ, không gián đoạn trong suốt thời gian lâu dài, để mở ra cánh sen thứ một ngàn nằm sâu bên trong, như thế, ta mới thấy được thật sự những gì ở bên trong, viên ngọc ở trong tâm chúng ta.
AB: Ta hiểu rõ đời sống qua các câu chuyện, hơn là qua các ý tưởng. Các ý tưởng tựa hồ như thể một bản báo cáo xưa cũ về những gì thật sự xảy ra trong cuộc sống. Nếu chúng ta kể các mẫu chuyện về đời sống chung quanh ta và lồng trong đó các ý nghĩa mà ta muốn truyền tải, người nghe sẽ dễ thông hiểu và hấp thu. Vì thế, tôi thích kể các câu chuyện ý nhị đó. Trở lại câu chuyện Bà vừa nêu ra, đó là khi chúng tôi đến viếng một trại tù gần tu viện, và một vị tu sĩ trong đoàn thuyết pháp cho các trại viên. Sau thời pháp, một tù nhân có hỏi về đời sống của một tu viện Phật giáo ở phương Tây. Chúng tôi cho ông ấy biết là tại tu viện, chúng tôi thức dậy rất sớm, khoảng 3 giờ sáng, rồi cùng nhau tụ tập tại ngôi chánh điện lạnh lẽo, ngồi xếp chân trên mặt đất, hành thiền, và sau đó, tụng kinh công phu sáng. Đến khoảng 6.30 sáng, chúng tôi uống trà hoặc cà phê, rồi làm các công việc lao động bảo quản chùa, thường rất nặng nhọc trong 3-4 giờ, trước khi ăn trưa. Bữa ăn trưa cũng không được chọn lựa, có chi ăn nấy, do sự cúng dường của các cư sĩ, và các loại thức ăn được trộn lẫn lộn với nhau trong một bình bát của mỗi tu sĩ. Như thế, hương vị thức ăn cũng không có gì hấp dẫn. Sau khi nghỉ trưa, chúng tôi lại phải chấp tác lao động nữa, vì lúc đó, tu việc có nhiều công trình xây dựng. Chúng tôi không xem ti vi, vì chùa không có máy ti vi mà cũng không có máy radio, nên không ai xem thể thao, không ai được phép chơi thể thao, không được phép đánh đàn hay nghe nhạc, v.v. Vào buổi chiều, chúng tôi không có xi nê phim ảnh giải trí, mà cũng không được ăn buổi chiều. Chúng tôi lại tụ tập nơi chánh điện, ngồi xếp chân hành thiền hằng giờ trên nền đất buốt lạnh, và sau buổi thiền, mỗi tu sĩ trở về liêu cốc riêng, sống một mình, và nằm ngủ trên nền đất, lạnh lẽo. Khi nghe chúng tôi trình bày như thế, các trại viên rất sửng sốt, ngạc nhiên, vì họ không ngờ chúng tôi lại có một đời sống như thế. Cho nên, một trại viên, có lẽ ông ta đã quên rằng ông đang sống trong tù, phát biểu: "Ghê quá! Đời sống như thế là quá khắc khổ! Tại sao các Sư không vào đây mà sống với chúng tôi, trong trại này, sung sướng hơn?!" Thật là điên rồ và khôi hài, vì ông ta đã quên rằng ông đang bị giam trong tù! Điểm quan trọng trong câu chuyện này là: lý do chính mà các vị tu sĩ và các vị cư sĩ thiền sinh khi đến viếng tu viện đều muốn ở lại đó, vì họ cảm thấy an lạc, thỏa mãn. Họ không xem tu viện như là tù giam, bởi vì họ tự nguyện, thật lòng muốn đến tu học tại đó, cho dù cuộc sống có phần khắc khổ. Trong khi ấy, các trại viên tội nhân bị chính quyền giam vào một nơi mà họ không muốn ở, cho nên đối với họ, nơi đó là một nhà tù. RK: Bạch Sư, như thế, đó là sự tự do, phải không? Đó là quan kiến của chúng ta về sự tự do, về những gì tạo ra tự do. Tôi có ý muốn nói về những gì tạo ra sự tự do là sự lựa chọn, không gò bó, không trói buộc. Còn ý của ngài thì sao?
AB: Thật ra, chúng ta có hai loại tự do: tự do ham muốn và tự do khỏi ham muốn. Đa số người ta trên thế gian này chỉ biết đến loại tự do của ham muốn, tự do của chọn lựa. Trong đạo Phật, nhất là trong hành thiền, chúng tôi nhắm đến loại tự do thứ hai, đó là tự do khi thoát khỏi sự ham muốn, tự do khi thoát khỏi sự chọn lựa. Cho nên, khi ta bằng lòng ngay trong hiện tại, khi tâm ta an bình, các sự ham muốn sẽ không xảy ra. Ta được tự do, thoát khỏi áp lực của những sự ham muốn vốn có khuynh hướng áp đảo chúng ta và sai khiến ta phải làm theo mệnh lệnh của chúng. Đó là những mệnh lệnh trong nội tâm của mỗi người chúng ta, ra lệnh chúng ta phải làm sao cho vượt trội hơn người khác, phải làm sao để xua đuổi cơn đau, phải làm sao để đạt được một mục đích nào đó, cho dù chúng ta cũng không biết tại sao cần phải làm như thế, … Khi hành thiền, dần dần chúng ta sẽ đạt được sự tự do thoát khỏi các mệnh lệnh đó. RK: Có phải chăng Sư lúc nào cũng biết được lý do để đạt mục đích là trở thành một tu sĩ Phật giáo, và một vị trụ trì tu viện?
AB: Không hẳn thế. Trở thành vị trụ trì chỉ là vì hoàn cảnh đưa đẩy. Còn trở thành một tu sĩ Phật giáo là điều tôi mơ ước từ khi còn trẻ. Lúc ấy, chung quanh tôi, tôi thấy có nhiều người có rất nhiều của cải tài sản và danh vọng. Hình như họ có cơ hội để sống với ước mơ của họ, nhưng sự mong muốn của họ không bao giờ ngưng. Họ không bao giờ thoát khỏi lòng mong muốn, lúc nào cũng nỗ lực để thoả mãn sự mong muốn, thèm khát điều này, rồi lại điều kia, như là những người đói khát, thật là khổ tâm. Đôi khi chúng ta cũng thế, chúng ta muốn chấm dứt cảm giác đói khát trong nội tâm, muốn được thỏa mãn vĩnh viễn, nhưng hình như điều đó không bao giờ đạt được… Có rất nhiều người giàu có và thành công trên đời này, được nhiều người ca tụng và bắt chước, nhưng nếu ta hỏi họ: "Ông Bà có thật sự tự do không?" Nếu họ thành thật, có lẽ ta sẽ nhận được các câu trả lời rất lý thú! Rồi tôi gặp được vài vị tu sĩ Phật giáo, và họ là những người an lạc nhất mà tôi đã từng thấy trên đời này. Mặc dù sống trong tu viện với nhiều giới luật nghiêm khắc, trong một đời sống rất đạm bạc và đơn giản, nhưng ta có thể cảm nhận được sự an lạc, thảnh thơi, tự do của các vị tu sĩ đó. Từ đó, ta mới hiểu được sự khác biệt của hai loại tự do: tự do của ham muốn và tự do thoát khỏi ham muốn. Trong thế giới ngày nay, chúng ta có quá nhiều phương tiện để theo đuổi và thỏa mãn các ham muốn của chúng ta, hầu như ta có thể làm được những gì ta muốn. Nhưng có mấy ai thật sự cảm thấy tự do? RK: Tất cả đều tùy thuộc chúng ta mong muốn gì từ cuộc sống. Tôi biết thông điệp của Sư thông thường là về sự hạnh phúc, như thể để chuyển tải câu: “Đừng lo âu. Hãy an vui", liên quan đến việc thay đổi thái độ của chúng ta, chứ không phải để thay đổi thế gian. Thế nhưng, chắc Sư cũng biết, thái độ đó cũng có thể phát sinh một thái độ thờ ơ đối với cuộc đời.
AB: Không hẳn thế đâu. Tôi không nghĩ điều đó có liên hệ gì đến sự thờ ơ lãnh đạm, bởi vì khi có nhiều người thay đổi thái độ sống thì thế gian sẽ thay đổi theo. Tuy nhiên, chúng ta cũng nên ghi nhận rằng ngày nay, thay vì phải giải quyết các vấn đề trong đời sống với một thái độ an vui, người ta giải quyết chúng với một tâm sân hận, giống như thái độ của một chuyên viên diệt trừ sâu bọ. Thay vì cố gắng tìm hiểu và chung sống hòa hợp với thiên nhiên, ta lúc nào cũng muốn khống chế và tiêu diệt tất cả những gì đã và đang tạo ra vấn đề khó khăn cho chúng ta, và những thứ đó có thể bao gồm cả những người thân hoặc một loại thù địch nào đó mà ta xem như là sâu bọ. Nhưng ắt hẳn chúng ta cũng biết rằng ta không thể nào diệt trừ tất cả các loài sâu bọ trên thế giới, mà ta cũng không thể diệt trừ tất cả các sâu bọ trong thân thể của chính mình, như ung thư và các loại bệnh tật khác. Đôi khi, chúng ta phải dành thì giờ để học cách sống an bình và hài hòa với thiên nhiên. RK: Đạo Phật có dạy chúng ta phải đối kháng những điều nguy hiểm, xấu ác, quỷ quyệt không?
AB: Vâng. Chúng tôi giảng dạy về sự đối kháng tâm sân hận, về sự đối kháng tâm đố kỵ, về sự đối kháng tâm ngu si. Đó là những điều chúng ta phải thật sự đối kháng, đó là những gì liên quan đến lòng sân hận và cảm giác muốn trả thù, liên quan đến sự đau đớn dằn vặt trong tâm, sự ưu sầu, cảm giác tội lỗi, v.v, tất cả những cảm tính tiêu cực của đời sống. Đó là những gì chúng ta muốn đối kháng, muốn hiểu rõ, để vượt qua, bằng cách buông xả. Khi ấy, chúng không còn hiện hữu nữa. RK: Tôi thích câu chuyện Sư thường kể về một vị giảng viên vào trong lớp học và mang theo một lọ chứa đầy các viên sỏi… Ngài có thể kể ra đây không?
AB: Vâng. Thật ra, đó là một câu chuyện tôi học được từ một vị Phật tử, có quảng bá trên Internet. Cho nên, có lẽ nhiều thính giả của đài phát thanh đã từng biết qua, nhưng đó là một câu chuyện hay. Một ngày nọ, một vị giảng viên đại học đến lớp giảng, thay vì đọc và dạy những gì ghi trong sách như thường lệ, ông ấy mang theo một lọ thủy tinh to, và đặt nó trên bàn viết. Trong khi các sinh viên thắc mắc không biết ông ấy có ý định gì, ông bắt đầu mở một cái túi và lấy ra các viên sỏi to và bỏ từng viên vào lọ cho đến khi không còn bỏ thêm được viên nào nữa. Ông hỏi cả lớp: "Lọ này đã đầy chưa?”, và mọi người trả lời: "Vâng, đầy rồi”. Ông mỉm cười, rồi lấy ra một túi khác, chứa các viên sỏi nhỏ, và bỏ từng viên sỏi nhỏ vào lọ, vào trong các khe giữa các viên sỏi lớn, đến khi không còn bỏ thêm được viên nào. Rồi ông hỏi: "Đầy lọ chưa?”. Bây giờ, có lẽ đoán được ý ông, cả lớp lắc đầu và trả lời: "Dạ, chưa đầy”. Họ cười vang, thích thú theo dõi các động tác của ông. Ông mỉm cười, lấy ra một túi khác chứa đầy cát mịn, từ từ đổ cát vào lọ, vừa đổ vừa lắc lọ để các hạt cát mịn chảy vào các khe trống trong lọ, cho đến khi không còn đổ cát thêm được nữa. Rồi ông lại hỏi: “Đã đầy chưa?” và cả lớp trả lời: "Dạ chưa". Lần này, ông nhờ sinh viên mang đến một chai nước và từ từ đổ nước vào lọ cho đến khi đầy tràn. Rồi ông hỏi cả lớp: "Những gì tôi làm hôm nay có ý nghĩa gì?" Đây là lớp học về quản lý kinh doanh, cho nên, một sinh viên nhanh nhẩu đưa tay đứng lên phát biểu: "Thưa Thầy, việc này có ý nghĩa là cho dù chúng ta có bận rộn như thế nào, chúng ta vẫn có thể thu xếp để đảm nhận thêm vài việc khác nữa". Nhưng vị giáo viên nói: "Không hẳn thế. Đấy không phải là ý nghĩa điều tôi muốn diễn tả. Điều mà tôi muốn trình bày ở đây là nếu các em muốn bỏ vào lọ các viên sỏi to thì các em phải bỏ chúng vào trước tiên. Đừng đợi đến lúc cuối, vì như thế, các em sẽ không bao giờ bỏ chúng vào trong lọ được.” Đây là một câu chuyện về thứ tự ưu tiên, về những gì ta phải dành ưu tiên trong lịch làm việc của mình, của cuộc đời mình. Cũng vậy, có những sự việc chúng ta đều biết chúng quý giá như những viên đá quý, những viên sỏi to của cuộc đời, như gia đình ta, như sự liên hệ giữa ta và những người thân thương, như sự an bình trong tâm thức, v.v., nhưng nhiều khi, ta lại xếp chúng sang một bên, xếp vào thứ bậc cuối cùng của lịch làm việc trong ngày, trong tuần, trong cuộc đời của ta, để rồi sẽ không bao giờ có được cơ hội thực hiện những điều ấy. Đó là một trong những lý do làm chúng ta không tìm được hạnh phúc. Chúng ta không đặt đúng thứ tự ưu tiên những gì cần phải thực hiện cho cuộc đời mình. Chúng ta phải luôn luôn nhớ đến câu chuyện bỏ đá vào lọ của vị giảng viên đại học kia, và thu xếp thực hiện những việc thật sự quan trọng nhất trong cuộc đời chúng ta. Chúng ta vẫn luôn luôn có cơ hội để làm thêm các việc khác, kém quan trọng hơn, về sau này. RJ: Bạch Sư, có còn những gì khác mà Sư muốn đặt thêm vào lọ của Sư không?
AB: Bỏ vào lọ của tôi? Đó là sự an bình và hạnh phúc cho tôi và cho người khác. Rốt cuộc, điều quan trọng nhất trong đời tôi là làm thế nào để mang lại hạnh phúc cho tôi và cho người khác. Tuy nhiên, sau nhiều năm trong đời tu sĩ, tôi thấy không thể nào tách rời hạnh phúc của riêng tôi và hạnh phúc của người khác. Vì thế, tôi sẵn sàng đi đây đi đó để phục vụ mọi người, càng nhiều càng tốt, thuyết giảng, và kể nhiều câu chuyện vui nhưng có ý nghĩa, để mọi người vui vẻ đón nhận và thông hiểu. RK: Bạch Sư, chúng ta đang ngồi đây, bên cạnh một bàn thờ rất truyền thống, trên đó có một tượng Phật và chung quanh có các đóa hoa sen. Câu hỏi cuối cùng của buổi phỏng vấn hôm nay là: các biểu tượng này có ý nghĩa như thế nào?
AB: Vâng. Chúng ta nhìn vào bàn thờ, bắt đầu từ vị trí cao nhất, tượng Đức Phật trong tư thế hành thiền, mắt khép lại, miệng mỉm cười, rõ ràng đó là biểu tượng của sự an bình. Khi ta nhìn những hình ảnh như thế, lòng ta cảm thấy thanh thản, nhẹ nhàng, từ bi. Hai bên tượng Phật là các cây nến, đó là biểu tượng của trí tuệ, vì ta thắp nến là để mang ánh sáng, xua tan sự tối tăm, mê ám. Qua nhiều thế kỷ trong lịch sử, đó là biểu tượng cho sự giác ngộ. Trí tuệ hiện hữu, không ai thật sự sở hữu trí tuệ, nhưng chúng ta cần có cây nến để thắp sáng, để tự mình thấy rõ ràng mọi sự việc. Rồi ta thấy các đóa hoa sen trên bàn thờ. Hoa sen là một biểu tượng quan trọng trong đạo Phật. Hoa sen có nhiều lá, và nhiều cánh hoa, hằng ngàn cánh hoa, và đây là một trong những đề mục hành thiền ưa thích nhất của tôi. Trong thiên nhiên, muốn mở các cánh hoa sen, mặt trời phải duy trì đầy đủ các tia nắng ấm liên tục trên ngàn cánh hoa, từ cánh hoa thứ nhất ở ngoài cùng cho đến cánh hoa thứ một ngàn nằm sâu bên trong. Phần trong cùng của hoa sen là phần thơm ngát nhất, tế nhị nhất và mỹ lệ nhất. Nếu ta may mắn, và nếu mặt trời vẫn duy trì được các tia nắng ấm trong suốt thời gian nở hoa, lúc ấy, nụ sen sẽ mở ra, và ta sẽ thấy được phần quan trọng nhất, được gọi là viên ngọc của hoa sen. Đây là biểu tượng của hành thiền, vì chúng ta phải duy trì chánh niệm liên tục, không ngừng nghỉ, không gián đoạn trong suốt thời gian lâu dài, để mở ra cánh sen thứ một ngàn nằm sâu bên trong, như thế, ta mới thấy được thật sự những gì ở bên trong, viên ngọc ở trong tâm chúng ta.
RK: Ngài Thiền sư Ajahn Brahm, chúng tôi kính tri ân Ngài đã
tham dự buổi phỏng vấn hôm nay.
Người có bốn vợ
Ông
nọ rất thành công trên đường đời nên cưới tới bốn vợ. Lúc sắp lìa trần,
ông mời đến giường bệnh cô vợ thứ tư, trẻ nhất và đẹp nhất. Ông vuốt ve
cô và âu yếm hỏi:
“Em à! Anh sẽ chết trong nay mai. Dưới suối vàng anh sẽ cô đơn biết bao nếu không có em. Em đi theo anh nha?”
“Sao
được!” cô đáp gọn lỏn, “Em phải ở lại đây để tán dương Anh trong lễ
tang chớ!” Nói chưa xong cô đã bỏ đi ra. Thái độ và lời nói lạnh lùng
của cô không khác gì lưỡi dao găm đâm sâu vào tim ông. Lâu nay ông rất
hãnh diện về cô và đi đám tiệc quan trọng nào ông cũng đều đưa cô cùng
đi, cô làm ông hãnh diện lúc tuổi về chiều. Vậy mà cô không thương ông
như ông từng thương cô. Thật ông không ngờ!
Nhưng
chưa sao, vì ông còn ba bà nữa. Ông cho mời chị thứ ba mà ông cưới thời
trung niên. Ông đã dày công mới đoạt được quả tim vàng này. Ông thương
chị sâu đậm vì chị đã đem lại cho ông nhiều niềm vui khó quên. Chị rất
duyên dáng được nhiều người dòm ngó nhưng một lòng chung thủy với ông.
Hy vọng, ông nắm chặt tay chị và thỏ thẻ:
“Em à! Anh sẽ chết trong nay mai. Dưới suối vàng anh sẽ cô đơn biết bao nếu không có em. Em đi theo anh nha?”
“Không
đâu anh”, chị trả lời với thái độ quả quyết của một nữ thương nhân, “Em
cần ở lại đây để lo cho đám tang Anh thật hoành tráng, và sau đó em còn
phải đi theo các con anh.”
Sự
thiếu chung thủy của chị ba làm ông dao động mạnh. Ông biểu chị đi ra
cho khuất mắt để ông còn cho mời bà thứ hai. Bà thứ hai là người ông tin
cẩn nhất, từng giúp ông giải quyết mọi khó khăn và cho ông nhiều ý kiến
quý giá. Nhìn thẳng vào đôi mắt tự tin của bà, ông hỏi:
“Em à! Anh sẽ chết trong nay mai. Dưới suối vàng anh sẽ cô đơn biết bao nếu không có em. Em đi theo anh nha?”
“Xin lỗi anh,” bà thưa với giọng hối tiếc, “Em sẽ đi theo anh đến tận nơi an nghỉ cuối cùng của anh, chớ không thể đi xa hơn.”
Ông
như trên trời rớt xuống, hy vọng ông tan tành theo mây khói rồi. Ông
bèn cho mời bà thứ nhất, người mà ông có vẻ hất hủi trong những tháng
năm sau này lúc ông gặp chị ba quyến rũ và cô tư sắc nước hương trời.
Nhưng bà nhất đây mới thật là người vợ mẫu mực luôn luôn đứng sau lưng
ông. Ông hơi sượng sùng khi thấy bà bước vô với vẻ mặt hơi gầy và quần
áo xốc xếch. Ông nói như khẩn cầu:
“Em à! Anh sẽ chết trong nay mai. Dưới suối vàng anh sẽ cô đơn biết bao nếu không có em. Em đi theo anh nha?”
“Dĩ nhiên, em sẽ theo Anh,” bà đáp với giọng thụ động, “Em sẽ theo Anh đời đời kiếp kiếp.”
Bà thứ nhất theo ông không rời vì bà ta là nghiệp. Bà hai là gia đình, chị ba có tên Tiền tài và cô tư được gọi là danh.
Bây giờ các bạn đã biết rõ
bốn bà vợ là ai rồi, xin các bạn đọc lại câu chuyện một lần nữa. Và
theo ý các bạn, ai trong bốn bà vợ cần được chăm sóc cẩn thận nhất? Còn
ai khác hơn là bà nghiệp, phải không các bạn?