Nguyễn Vy Khanh
Về cứu-rỗi và thế-giới nan-y
Giới y-sĩ Việt-Nam cầm bút không nhiều trước biến cố 30 tháng Tư 1975 (Hoàng-Vũ Hoàng Văn Đức, Trần Ngọc Ninh, Nhân-Tử Nguyễn Văn Thọ, Nguyễn Hữu Phiếm, Trần Văn Tích, Dương Tấn Tươi, Anh Tuấn Nguyễn Tuấn Phát, v.v.); sau ra đến hải-ngoại thì có tăng nhân-số nhưng là tăng theo cùng tỉ lệ với số cây bút tài tử và cộng đồng ngoài giới này, và cũng lão hóa có phần nặng nề hơn khuynh hướng chung. Những cây bút y-sĩ sau 1975 viết nhiều thể loại từ thơ văn đến nghiên cứu, từ điển, hồi ký,… Tuy vậy những ngòi bút thuần túy văn-chương thì vẫn không nhiều so với tổng-số người hành nghề y-khoa – trong khi những ngành nghề khác cung cấp nhiều nhà văn thơ hơn như giáo chức, nhà báo, chuyên-viên điện toán, v.v. Đã khởi viết từ trước, nay tiếp tục sáng tác văn-chương ở hải ngoại có Trang Châu, Ngô Thế Vinh,… thật mới và tương đối mới thì có Nguyễn Xuân Quang, Mai Kim Ngọc, Hoàng Chính, Trần Long Hồ,…
Mặt khác, các nhân-vật y-sĩ trong tiểu-thuyết hải ngoại cũng không hẳn nhiều hoặc có những đặc tính tiêu biểu, đáng gây chú ý. Phần các nhân-vật y-sĩ này, có thể tìm thấy rải rác ở các tác-giả y-sĩ như Nguyễn Xuân Quang, Mai Kim Ngọc, Trang Châu, Hoàng Chính,… hoặc ngoài nghề y như Nguyễn Trung Hối (bác sĩ Nguyễn trong Khi Lá Rừng Phong Dần Đỏ), v.v. Các tác-phẩm này dĩ nhiên có thể tương đối so được về qui mô kỹ thuật với những Le Médecin de Campagne của H. Balzac (chuyện viên sĩ quan Genestas và Benassis y-sĩ vùng quê), chuyện tình Docteur Zhivago với nàng Lara của B. Pasternak, Les Hommes en Blanc của André Soubiran (nhiều tập, 1-Tu seras médecin đến 6-Au revoir docteur Roch), hay chuyện tình bác sĩ tên Naôê đã cả đời nghiên cứu bệnh ung thư xương nhưng chính định mệnh khiến ông mắc bệnh nan y đó; dù thân xác đau đớn vẫn mãi giữ kín bí mật với người yêu, và rồi trầm mình xuống lòng hồ giá lạnh – trong Đèn Không Hắt Bóng của Junichi Watanabe,…
Về phần Việt-Nam, có thể ghi nhận Mây Bão (1963), Vòng Đai Xanh (1970) của Ngô Thế Vinh và truyện ký Y Sĩ Tiền Tuyến (1970) của Trang Châu là những tác-phẩm đặc biệt mà nhân-vật chính là các y-sĩ quân đội. Nhân-vật Vũ, sinh viên rồi y-sĩ, của Mây Bão
đã nhận biết sứ mạng khi “thấy các bệnh nhân mệt lả rên xiết trong bộ
áo trắng, lồm cồm bò giữa đống gạch vữa như những con bọ trắng ngầy ngụa
trong một đống rác. Vũ hơi rùng mình, đồng thời chàng thấy đời mình có
thể hy sinh trọn vẹn cho những nơi như đây, cho những con người bất hạnh
của chiến tranh và bệnh tật cần được chăm sóc …”, vì chiến tranh đã
hiện diện khắp nơi, hết còn chuyện “nhà thương như một nơi bất khả xâm
phạm của các tai họa chiến tranh”! Nhân-vật của Mây Bão lý-tưởng, phức-tạp, chính-trị bao nhiêu thì nhân-vật Tôi trong Vòng Đai Xanh bất chấp hiểm nguy nơi các chiến trường Cao nguyên. Sau Ngô Thế Vinh, Trang Châu qua nhân-vật Tôi trong Y Sĩ Tiền Tuyến
đã không còn lựa chọn, không chỉ cứu người ở bệnh xá mà ngay cả nơi
giao chiến, cứu chiến hữu và cứu cả kẻ thù đồng nghiệp. Từ đó, người
y-sĩ nhập cuộc không tránh khỏi những suy tư, “Một ngày máu lửa đã cho
tôi cảm nghĩ gì? Điều tôi ước mong đã đến: có đụng độ lớn, có chiến
thắng. Nhưng trong vinh quang tôi thấy buồn hơn vui. Chiến tranh ở giờ
phút này, trong tư tưởng tôi, không còn là một ván cờ như tôi thường ví.
Quân cờ bị loại là quân cờ vứt đi, nhưng những cái xác nằm kia còn liên
hệ ảnh hưởng đến biết bao nhiêu người”. Sau 1975, các nhân-vật y-sĩ và
bệnh-nhân trong các truyện ngắn dài của Trần Long Hồ, Nguyễn Xuân Quang
và Hoàng Chính mang sắc thái của thời-đại và tình-cảnh mới. Bài viết này
ngừng lại ở một số sáng tác của Hoàng Chính mà chúng tôi có dịp thưởng
thức.
Nếu những Mây Bão, Vòng Đai Xanh, Mặt Trận Ở Sài-gòn, Y Sĩ Tiền Tuyến
đặc biệt do ở khung cảnh chiến-tranh, nhà văn trực diện với cái chết và
sự sống-còn thi ở Hoàng Chính chủ yếu là tình cảnh di trú, lưu đày, xa
lạ nơi xứ người. Thế-giới thơ văn của Hoàng Chính căn bản là không-gian
của tình yêu, nhưng đó đây vẫn có những cảnh tượng bệnh-viện và nhân-vật
thuộc ngành y-tế, xảy ra trước và sau biến cố 30-4-1975, trong nước và ở
hải ngoại sau khi rời khỏi nước, ở các trại tạm trú tị nạn và nơi định
cư mới – phần chính là ở Canada ‘đất lạnh tình nồng’ vốn cũng là đề tài
và không gian quen thuộc trong các sáng tác của ông: những nhà thương,
những cảnh cấp cứu, những con bệnh nan-y bên cạnh những cảnh tượng tòa
án và các văn phòng dịch-vụ xã hội và thế giới ghetto Việt Nam.
Ở Việt Nam
Trước hết, thế-giới khổ-nạn của Hoàng Chính bắt đầu ở quê nhà sau
biến cố tháng Tư năm 1975. Sau cái ngày gọi là ‘giải phóng’, một mỹ từ
ngược ngạo cho vết hằn thô bạo mà lịch sử sẽ ghi sâu, tập đoàn toàn trị
vì thù hằn, thiển cận, đã đày ải con người, những con người sống ở miền
Nam đã hành-xử như những kẻ dấn thân trọn vẹn – họ là người lính, người
công chức, nhưng cả những y-sĩ và những người Hoa, người Thượng. Cuộc
‘gặp gỡ’ lịch sử giữa một y-sĩ và một ‘ông già Tàu’ trong truyện Gửi
Riêng, Chốn Nào đã xác nhận rằng con người còn sống với tình cảm và
những cảm xúc hướng thượng, hơn là những lý-thuyết ngoại nhập. Truyện
như tuyên ngôn cho một trường phái:
“Chời ơi nị viết gì lên tường vậy. Ông già Tầu vừa la khẽ vừa chăm chăm nhìn vách tường. Rồi lẩm nhẩm đọc. Ngày ta buồn thần thánh cũng thôi linh.
Rồi cái cổ gật gù. Hay đó. Cái này nị nghĩ ra hả. Đâu có. Vậy ai nghĩ
ra. Nguyễn Tất Nhiên. Y ta viết cho nị hả. Ừ. Phải bạn không. Không.
Quen không. Không. Không quen biết làm sao người ta viết cho nị được.
Cười. Hắn cười hạnh phúc. Ông già cười, xớt chia niềm hạnh phúc nhỏ
nhoi. Có một người không quen, viết cho mình những dòng chữ bùa phép.
Hạnh phúc chứ sao không.
(…). Tối nào nị với ngộ cũng ngồi đọc thơ Đường. Nị với ngộ chu du
thiên hạ, nị với ngộ bay theo tiếng chuông chùa Hàn San, nị với ngộ uống
rượu bằng chén bồ đào. Nị với ngộ đi tìm hình ảnh hoa đào năm cũ. Nếu
không có những thứ đó, tụi mình làm sao mà sống sót cái nóng hừng hực
của hơi người, bao tử tụi mình làm sao pha cho loãng được chất cường
toan tiết ra đặm đặc. Thành ra ngộ nghĩ Nguyễn Tất Nhiên làm thơ cho
ngộ. Nếu nị thích, ông ấy cũng viết cho nị luôn. Rồi mấy ông Lý Thương
Ẩn, Thôi Hộ, Liễu Tôn Nguyên, Trần Tử Ngang hay Vương Hàn gì gì đó … khi
viết, cũng là viết cho nị, cho ngộ.
Chứ cho ai bây giờ.
Ông già Tầu gật gù. Nị học bác sĩ mà ăn nói văn hoa, mai mốt ra tù nị
viết văn làm thơ được đó. Hắn nhớ lời ông già Tầu. Và hắn thấy cõi sống
này còn có biết bao nhiêu điều để viết.
(…) Nhưng hắn biết chắc những người đã đặt bút xuống viết bất cứ một
điều gì chân thật, bao giờ cũng là viết cho một người nào đó. Như Nguyễn
Tất Nhiên đã gửi vào Khám Lớn cho hắn câu thơ bùa phép; như Thôi Hộ
ngàn năm trước đã gửi qua không gian và thời gian biền biệt đến cho hắn
và ông già Tầu, một dung nhan mặn mà người con gái có đôi má hoa đào.
Và hắn tin, nếu mình viết với cả tấm lòng thì hôm nay, ngày mai, hay
cả ngàn năm sau nữa, thế nào cũng có ít là một người ở đâu đó, nói một
ngôn ngữ nào đó, đón nhận với cả tấm lòng.
Và hắn viết, là viết cho những cõi người xa xôi ấy”.
Ý-hướng của một loại văn-chương nhân-bản, vị nhân-sinh: một tuyên ngôn cho con người, chăng?
Ở miền Nam, một cuộc chiến-tranh ý thức hệ đã xảy ra nơi các lớp ‘học
tập chính trị’, trong lớp học và cả nơi nhà xí. Truyện Mùa Thu Cuối
Cùng ghi lại rằng chỉ vì một cơn gió làm người sinh viên y-khoa mất chăm
chú nghe anh chàng giảng viên của ‘đỉnh cao trí tuệ’ đến từ Bắc phương,
đã bị tên này nhồi sọ rằng “Con người xã-hội xã-hội chủ nghĩa cũng biết
rung cảm, và rung cảm nhiệt tình nữa kia. Tôi nhắc lại, trước khi rung
cảm, phải xác định quan-điểm của mình. Nếu cậu đứng trên lập trường tư
sản, mọi rung cảm sẽ lệch lạc, thoái bộ, và phản động. Từ cảm xúc đi tới
hành động là một bước ngắn. Cậu sẽ đi ngược chiều của cả ba dòng thác
cách mạng thế giới. Tuy nhiên, nếu đứng trên lập trường quan- điểm vô
sản, những rung động vô sản sẽ thuận lợi cho cuộc cách mạng vô sản trên
bình diện thế giới. Nếu được như thế, cậu sẽ đi cùng chiều với bánh xe
lịch sử”. Phòng vệ sinh của khu Cơ thể học vương mùi “formol dùng để ướp
xác chết đặm nồng trong không khí” trở thành nơi “đấu tranh giai-cấp
gay gắt giữa các đại biểu (hoặc cũng có thể là bọn cách-mạng theo đuôi)
của giai-cấp thống trị với giai-cấp bị trị trong đám sinh viên”. Truyện
gợi lại cái không khí rùng rợn mất nhân tính của … khung trời đại-học
đáng ra phải đầy thơ mộng và tình người – Hoàng Chính đã khôi hài hóa
những lời lẽ đấu tranh chính trị phát ra từ những cửa miệng xinh xắn của
những cô sinh viên Nha, Y ở lứa tuổi đáng ra phải biết yêu, biết người
khác phái ra sao!
Ở Việt Nam, cái nghèo của con bệnh (ở đây là bệnh sâu răng) khiến
liên hệ con bệnh với ông nha-sĩ cũng khó khăn. Nhân-vật chính có “cái
răng sâu, làm độc. Một bên má anh sưng phù”. Người bố cần tiền nhưng đã
giúp cho người con số tiền để dành để đi chữa răng, “cái răng đau làm
mất ăn mất ngủ cả tuần lễ rồi. Thiếu ngủ, hai con mắt thâm quầng”. Tìm
nha sĩ, nhưng vì không hẹn, nên “ông nha sĩ cau có, ục ịch những bước
đi. Mắt kính cận gọng vàng đẩy người đối diện ra xa, phía bên ngoài vòng
phấn trắng giai cấp. Cái khoảng cách viền bằng vũng không gian nồng mùi
băng phiến tỏa ra từ chiếc áo choàng trắng nõn.
“Được rồi. Cậu vào đây đi. Đau sao? Há miệng lớn ra!”
Anh run rẩy, há miệng. Nước mắt trào ra hai khóe.
“Ồ, tởm quá! tởm quá! Người lớn mà răng để đến thế này ư. Phải thuốc
trụ sinh mới được. Tuần sau lại đây tôi trám nó lại. Tởm quá!”
Ông nha sĩ cần kiệm, mướn ông già lụm cụm làm phụ tá. Ông già mặc áo
sơ mi cụt tay nhăn nhúm, trơ ra cái khuỷu tay đen đúa chằng chịt những
sẹo. Ông già đi tới đi lui, lê đôi dép da lẹt quẹt.
Tiền chữa răng là do người bố nhịn cả cà-phê, nhưng vẫn không đủ. Ông nha sĩ phán:
“Chỉ có bấy nhiêu thôi ư!” Ông nha sĩ chép miệng, “Tởm quá!”
Anh ngẩn ngơ. Nghèo mà cũng đáng tởm sao. Hay tại những ngón tay nhà
giầu mũm mĩm phải sờ vào những tờ giấy bạc mềm nhũn và lạnh như miếng cá
ươn.
“Có bấy nhiêu thì làm sao mà trám được cái răng cho ra hồn mà ăn chứ!
Thôi được rồi! Bấy nhiêu cũng được. Tôi giúp cậu làm phước.” Ông nha sĩ
nhét tiền vào túi áo blouse trắng muốt.
Anh thấy lòng xốn xang. Số tiền ấy, bố để dành chắc phải lâu lắm.
(…) Lần hẹn chót. Ông nha sĩ hứa sẽ lấy hết những thứ trám tạm ra
khỏi lòng cái răng sâu. Anh mừng thầm trong bụng. Hẹn tới hẹn lui hoài
thế này, tiền nào chịu cho nổi” (Vời Vợi Non Cao).
Trong hoàn cảnh xã hội thiếu phương tiện và tình người đó đã khiến
xảy ra những chuyện thương tâm khác, như chuyện người phụ nữ trong
truyện vượt cạn một mình và đã chết sau khi sanh thằng con trai sẽ côi
cút trên đường đời trong Khó Đi Mẹ Dẫn Con Đi.
Có những chứng bệnh bất thường trong một xã-hội bất an. Hoàng Chính
đã tả tài tình một người bị mắc bệnh ‘liên tưởng’. Nhân-vật Hắn bị bạn
bè nghi bị “mát dây” mà chính hắn cũng nghi mình bị chứng gàn. “Hắn bị
một chứng bệnh mà tự hắn chẩn đoán lấy là Bệnh Liên tưởng. (Mấy cha biết
không? Tôi bị cái bệnh tạm gọi là “Hội chứng pháo dây”. Hồi còn nhỏ mỗi
lần tết đến, mấy cha đi lượm pháo, chắc là còn nhớ pháo dây chứ gì. Sợi
pháo dây dài, đốt ở một đầu, ngọn lửa sẽ ngoằn ngoèo cháy theo sợi dây
cho tới hết. Cái bệnh của tôi y chang như vậy. Nghĩa là một khi bị “đốt”
bởi một ý tưởng nào, là tôi cứ bị ám ảnh bởi ý tưởng đó, cho tới khi bị
đánh thức bởi một ý tưởng khác. Chẳng hạn như thấy con nhỏ N.- tạm dấu
tên nó nghe mấy cha, không khéo mấy cha làm um lên, nó dám giải phẫu cắt
bỏ một trái thận của tôi à – kể tới đâu rồi? ầ, tới chỗ con nhỏ N –
trong phòng mổ, phải rồi – con nhỏ N. trong phòng mổ, mặc vỏn vẹn có một
cái áo blouse – không có gì ở trong hết ráo – đường nét, núi đồi, sông
rạch vân vân … cứ làm hai con mắt tôi xốn xang như bị đau mắt cấp tính,
thế là cóc có cầm con dao mổ được đúng cách nữa, và đầu óc cứ bần thần
mụ mẫm như thằng cha bệnh nhân tai biến mạch máu não sắp sửa mê man bất
tỉnh, đến nỗi hôm ấy chút xíu nữa cắt đứt cha nó cái dây thần kinh của
thằng cha bệnh nhân vô tội vạ. Cho tới khi con nhỏ y-tá gây mê tới đứng
cạnh con nhỏ N, tôi mới được cứu rỗi, nhưng rồi lại bị đôi mắt
long lanh của con nhỏ y-tá thôi miên. Bố khỉ! Không hiểu sao mình biết
rõ như ban ngày rằng dưới cái vỏ căng phồng, mơn mởn gọi mời ấy cũng chỉ
là da, mỡ dưới da, những sợi cơ trơn, cơ vân, những mạch máu li ti chạy
ngoằn ngoèo, những phiến mỡ dưới da trắng ơn ởn, những tuyến bài tiết
mồ hôi uốn khúc quanh co, sâu hơn chút nữa là xương sườn, xương sống,
xương chậu, xương hông, xương mu … Vậy mà mỗi lần nhìn thấy khối vật
chất dễ thương ấy, lòng vẫn mềm rũ xuống như bánh tráng nhúng nước mưa”
(Phiên Tòa).
Ở đảo tị-nạn
Hàng triệu người Việt trở thành người-không-xứ-sở khi bước chân lên
đảo tị nạn. Không những vậy, một số trong họ còn là những con bệnh bất
thường. Và may mắn thay, trong số tị-nạn có những y-sĩ. Vầng Trăng Lưu
Lạc viết về người y-sĩ làm ở phòng khám ngoại chẩn trại tỵ nạn Mã Lai và
một thiếu nữ ‘bệnh nhân’ tên Liên: “Em muốn biết mình có sức khỏe tốt
để mong sớm được định cư, mới giúp đỡ được ba mẹ em bên nhà …”. Trốn đi
để thoát khỏi bàn tay đồng loại tàn độc, lại rơi vào tay những kẻ lợi
dụng ở đảo, những tay cảnh sát Mã lai, “ở đâu (thì) quyền lực và tiền
bạc cũng giết đi được bao nhiêu thứ trên cõi đời (…) Trong một thoáng,
chàng thấy mình hẹp hòi, nhỏ bé ngay trong cõi đời vốn đã quá đỗi nhỏ
bé, hẹp hòi. Chiếc ống nghe rơi xuống đất, xoắn lại rồi bật ra như con
rắn giẫy chết dưới trăng. Chàng không dám nhìn vào mặt cô. Chàng nhìn
xuống chiếc bóng con gái nhỏ bé mảnh mai nhập nhằng bên cái bóng gầy
nhom lỏng khỏng của chàng, miệng chàng thều thào cái tên vừa mới nắn nót
ghi vào dòng đầu một trang trong trí nhớ, “Liên ơi, Liên ơi …”. Con
bệnh đáng thương!
Chuyện đảo tị-nạn có Nàng Tiên Cá, một chuyện tình thống thiết, giữa
người nam tị nạn và một thiếu nữ bệnh tâm thần suốt ngày ra bờ biển để
kiếm tìm ở tha nhân một giải thoát, một cứu-rỗi. Và nàng đã tìm ra ở
nhân-vật Tôi. “Nàng ngả người, gục đầu vào vai tôi như nương nhờ sự chở
che, cứu vớt, “Em ghét mấy người trong bệnh viện Sickbay. Họ cứ đòi mang em đi chạy điện.”
Tôi vòng tay qua vai nàng, vỗ về, “Em có bị gì đâu mà chạy điện.”
Nàng thì thầm, “Họ nói em điên.”
“Họ nói giỡn chơi.”
“Không có, họ rất nghiêm trang. Họ thành thật.”
“Đừng tin họ.”
“Em không tin họ. Nhưng họ vẫn bắt em uống thuốc. Em sợ những viên
thuốc; em ghét những viên thuốc. Những viên thuốc màu trắng đắng ngắt và
những viên thuốc màu hồng không chua, không ngọt, không đắng, người ta
bắt em uống mỗi ngày. Những viên thuốc làm tim em đập mạnh, làm tay em
run, làm miệng em khô đắng, làm đầu óc em mịt mờ u ám. ầ, Nguyên ơi tại
sao người ta lại làm ra những viên thuốc không chua không ngọt không
đắng nhỉ? Em thù những viên thuốc như thế …”
“Tôi ngơ ngác nhìn nàng đang say sưa trong giấc mộng trả thù. Nhìn
nghiêng, nàng giống pho tượng một nữ thần đang thôi miên kẻ tử thù trong
thần thoại.
“Nếu có Nguyên làm bác sĩ, em sẽ làm y tá. Em sẽ chích cho họ một
trăm mũi thuốc mỗi ngày. Nguyên biết không. Những buổi sáng, họ hay bắt
em phải chích thuốc. Em trốn, nhưng họ hứa tìm Nguyên cho em nên em mới
chịu uống và chích thuốc. Họ hứa hoài mà chẳng bao giờ tìm cho em. Thành
ra sáng nào em cũng ra tìm Nguyên ngoài biển. đâu biết là Nguyên ở rất
gần bên em từ bao lâu nay.”
Nhân viện bệnh-viện tìm con bệnh để cho uống thuốc, nhưng nàng không
muốn trở lại nhà thương ‘điên’ và cuối cùng đã tự vẫn. “Nàng ném cho tôi
cái nhìn thù oán, “đồ phản bội!”.
Tiếng hét của nàng vang trong tiếng sóng, lẫn với tiếng xôn xao hốt
hoảng của đám đông. Tôi mê muội nhìn nàng buông mình xuống vực sâu, mất
hút sau vách đá dựng trên bờ vực. Những tiếng “Ê! đừng! Ấy! Kìa kìa!
đừng đừng! Trời ơi!…” lẫn vào nhau thừa thãi, vô nghĩa.
Không một tiếng động nào vọng lên được từ cõi thẳm sâu mịt mùng của
biển. Đám người đứng lặng như những hình người hóa đá trong cổ tích,
trên mỗi khuôn mặt còn đặm nét kinh hoàng.
Ngoài kia, biển vẫn thản nhiên như con bệnh tâm thần không còn ý niệm
nào về thời gian và sự đau khổ của kiếp người. Cơn bệnh dửng dưng với
mọi đổi thay của cuộc đời”.
Ở xứ người
Những người tị-nạn may mắn cuối cùng đến được một quốc-gia thứ ba.
Đời sống mới với văn minh vật chất và với những đảo lộn, biến thái về
gia-đình, xã hội. Nơi đây còn là thế-giới mới của những cuộc tự do tình
dục, phá thai, như Hoàng Chính ghi lại trong các truyện Tai Họa, Vực Sâu
Khổ Lụy, Di Chúc,… Vực Sâu Khổ Lụy là chuyện người con gái có chửa vì
bị chính người quen cưỡng hiếp, sanh con xong t́m cách biến con đẻ thành
con nuôi ký giấy đem cho một gia đình người bản xứ với ước mong con sẽ
có tương lai. Di Chúc ghi lại chuyện của một y-sĩ người Việt tị-nạn
không được tiếp tục hành nghề và một “người đàn bà già nua, nghèo nàn,
bệnh tật, sống một mình ở thành phố lạ, và chết một mình cũng trong cái
thành phố chưa quen biết”. Với bà cụ thì người y-sĩ này “có tấm lòng
nhân ái, ông lại mát tay như ông bác sĩ Kính ở đầu ngõ nhà tôi bên Phú
Nhuận, vậy thì ông còn thiếu cái gì nữa mà không cho mở phòng mạch chứ. –
Mảnh giấy ngoại à, cháu thiếu mỗi một mảnh giấy thôi. Mảnh giấy có mấy
chữ bằng hành nghề ấy mà”. Mà rồi bà cụ đã làm thật, di chúc của bà là
chứng chỉ hành nghề viết tay: “Bằng hành nghề Bác sĩ Y khoa. Cấp cho Bác
sĩ Châu, đã tốt nghiệp Y khoa ở Việt Nam, đã đậu bằng tương đương ở
Canada. Bác sĩ Châu có tấm lòng, có khối óc, có bàn tay của người thầy
thuốc lý tưởng. Nếu không có bác sĩ Châu, tôi đã chết lâu rồi. Bằng hành
nghề này có giá trị trên toàn thế giới”.
Người y-sĩ hành nghề ở xứ người nhưng tâm tư và tham chiếu vẫn là ở
Việt Nam, một quê hương của ngày nào, một quê hương thật! Ông Thầy là
một vị y-sĩ ‘nhân bản’, không máy móc: “Ông Thầy chợt bối rối. Theo đúng
sách vở, chàng sẽ phải làm hồ sơ bệnh lý đầy đủ, khám cổ tử cung và thử
nước tiểu, tìm dấu hiệu mang thai, nhưng nhìn đôi mắt trẻ thơ trên
khuôn mặt trái soan, chàng đâm ra ngại ngần. Chàng viết nguệch ngoạc
những dòng đầu tiên trên hồ sơ bệnh lý của cô, rằng cô lập gia đình đã
được gần hai tháng, rằng hiện nay sức khỏe của cô bình thường. Ông Thầy
tìm kế hoãn binh. Vào y khoa lâu rồi, mà chàng vẫn chưa “khoa học hóa”
được chút nào. Chàng “nhân bản” không chịu được; nhìn đâu cũng
thấy những con người có cảm xúc, chàng khó thấy được những đối tượng
thuần túy của Y Học. (…) Làm xong cái hồ sơ bệnh lý chi-tiết của cô, Ông
Thầy lấy dụng cụ đo huyết áp. Cô vén cao tay áo, đưa cho chàng một cánh
tay no tròn, trắng nuột như màu của những cánh hoa sứ bên hồ nước trong
sân trường chàng học. Liên tưởng đến cây hoa sứ trong sân trường, tai
chàng nghe liền được tiếng chân bước trên đám sỏi màu ngà. Tiếng rào rạo
của bước chân trí tưởng trộn lẫn vào tiếng mạch máu cánh tay đập đều
đặn, xa vắng”. (Ông Thầy). Y-sĩ mà nhiều tình cảm và lãng mạn!
Những khốn khó của kiếp người, của sinh-lão-bệnh-tử, không nơi nào và
thời nào con người có thể tránh. Trốn khỏi những địa ngục trần gian và
những tập đoàn tàn độc có thể thành công, nhưng bệnh tật thì như lưỡi
hái định-mệnh cứ chực-chờ con người:
“Cô … cô..à, bác sĩ … nói sao? chồng tôi bị bệnh gì?”
“Leukemia. Ngoài bắc gọi là bệnh bạch cầu trong nam gọi là ung thư
máu; tất cả đều dịch ra từ chữ leukemia của Mỹ.” Giọng cô bác sĩ trẻ
chợt buồn thiu, “Yes, I’m sorry but he has leukemia. Nothing can be done
here. Tôi muốn cho chuyển lên Los Angeles nhưng ông ấy không chịu. I
don’t know why …”
Nàng thấy khuôn mặt tròn xinh xắn của cô gái xoay xoay trong không
gian, chiếc bàn làm việc ngả nghiêng như đang trong cơn địa chấn, (Ở cái
đất Cali này cứ lo hoài những cơn địa chấn bất ngờ). Trời đất u ám mịt
mờ. Đầu gối nàng qụy xuống. Tai nàng ù đi, nhưng trong những tiếng động
rì rào xa vắng của thế giới bên ngoài, nàng còn nghe được tiếng la thảng
thốt của chị bạn; lẫn trong tiếng nói chuyện ngọt ngào của người nữ bác
sĩ trẻ trung, tươi mát”. (Cây Gậy Lão Ăn Mày).
Bệnh-viện không hẳn là nơi vui sống, hấp dẫn, dù có thể cứu vớt con
người khỏi bệnh tật và những tai-biến hiểm nghèo. Một nhân-vật nữ của
truyện Hôn Lễ vốn “không thích bác sĩ. Nàng sợ bệnh viện. Nàng ghét cái
mùi hôi nồng của phòng cấp cứu. Mùi của bệnh tật và sự chết. Vì vậy mà
không muốn nói chuyện với bất cứ ai về cõi u mặc ấy. Với nàng, bệnh viện
là thế giới âm u của những người chờ chết, và những người thầy thuốc
khoác lên mình chiếc áo choàng trắng dài tới đầu gối là đám phù thuỷ đầy
quyền năng, đầy pháp thuật đáng ngờ”. Nàng không thích, vì ở đó còn có
những cái nhìn của tha nhân, những cái nhìn như soi mói, như muốn làm
yếu lòng người đối diện, những cái nhìn thấp hèn: “Những cái đầu tóc đen
đồng loạt ngước lên; những con mắt đen nâu hau háu tia nhìn. Nàng thấy
rõ những con mắt tạt át xít vào người nàng rát bỏng. Những con mắt gỡ
mái tóc nàng rối bù; những con mắt luồn lách dưới mảnh áo ngực nhỏ bé
của nàng; những con mắt mầy mò đôi bắp đùi thon gọn dưới lớp vải quần
jeans dày; những con mắt bò loanh quanh trên bụng nàng … Những con mắt
đồng hương; những con mắt Việt Nam quen thuộc. Phòng đợi đầy ắp bệnh
nhân. Phòng đợi nêm cứng những mắt nhìn xoi mói. Trong không đầy một
phút đứng ủ rũ đợi hắn đưa thẻ y tế cho người thư ký ghi vào sổ, nàng đã
bị những con mắt cào xước hết thịt da”.
Nhưng nàng vẫn phải đến đó, vì cần phẩu thuật ngón tay thứ sáu, phẩu
thuật luôn cảm giác thừa thãi: “Nàng nhắm nghiền mắt, như muốn lả đi bên
hắn. Nếu không vì cái đám cưới mà hắn hứa hẹn sẽ rình rang cho cha mẹ
nàng nở mày nở mặt bên nhà, nàng chắc không thể nào đủ can đảm bước vào
đây, chìa bàn tay ra cho người ta xăm xoi. Rồi sẽ còn phải nằm trên bàn
mổ cho người ta lấy đi cái ngón tay thừa thãi. Hắn nói sẽ yêu nàng dù
nàng có thế nào đi nữa … Nàng cố nghĩ đến những bộ áo cưới trắng như
mây trời mùa hạ; đến những chiếc găng tay có năm ngón thon dài. Ơi,
những chiếc găng tay sang trọng biết bao nhiêu! Bụng nàng nôn nao. Nàng
muốn ói. Đầu óc nàng quay cuồng. Sao lại khó chịu giống như có thai vậy
nè. Và nước mắt (ơi cái thứ không làm sao mà ngăn được ấy!) lũ lụt đổ
xuống má, môi nàng. Giọng hắn vẫn sôi nổi bên tai nàng, “Vị hôn thê của
tôi … Bác sĩ nhắm chừng kịp làm đám cưới không? Tôi thuyết phục cô ấy
hoài mà cô ấy không nghe … Như thế này làm sao mang găng tay, làm sao
làm đám cưới … rồi làm sao tôi biết đeo nhẫn cưới ngón nào cho đúng …”.
Một kết thúc truyện bất ngờ!
Mất quê hương, mất điểm tựa, dễ gây ra hội-chứng xa-lạ, trong khi tâm
trí vô định, mà sự cứu-rỗi lắm khi bi đát, bất ngờ và khó hiểu. Có thể
gọi là cứu-rỗi nhưng tàn nhẫn nhất có thể là trường hợp một ông già
người Việt làm sở rác nhìn đâu cũng thấy toàn rác rưởi, kể cả con ông và
đám bạn của nó. Mất ngủ, thất vọng về người con và lo sợ khi chết con
nó sẽ đưa về quê nhà, ông đã lựa chọn cái chết, với lò thiêu rác ngay
tại sở làm. Tony, người bản xứ làm chung đã vô tình làm nhân chứng lờ mờ
về quyết định tự cứu của ông già:
“Trước khi ra về, Tony trở ra chỗ lò thiêu thêm một lần, kiểm lại
những nút bấm cho chắc ăn là máy sẽ tự động tắt sau ba tiếng đồng hồ.
Hơi nóng hừng hực phả lên người anh. Anh mỉm cười nghĩ tới ông già. Hồi
nãy ông già nhắc mở lửa cho thật cao. Thiệt tình, ông già dễ thương mà
lẩm cẩm. Rác cỡ nào bỏ xuống lò thiêu này mà không thành tro, thành bụi.
Toan bước đi, anh bỗng nảy ra ý nghĩ chỉnh máy cho đốt thêm hai giờ
nữa, ngày mai ông già trở lại, sẽ thấy cái lò sạch sẽ, khô rang. Mùi
khét quyện lấy mũi anh. Ừ, sao rác hôm nay có cái mùi khét lạ kỳ …
Chắc chỉ ông già mới biết được đó là mùi của thứ gì bị đốt. Tony lẩm
bẩm. Ông già có chơi trò chiến tranh ở nước ông hồi đó. Ông già vẫn bảo
mùi thịt người cháy nó kỳ lạ lắm. Mai mình sẽ kể cho ông già nghe về cái
mùi kỳ lạ này. Tội nghiệp ông già. Poor old man!” (Rác)
Khổ nạn và cứu rỗi
Truyện Một Đoạn Trong Thánh Kinh có thể xảy ra ở Việt Nam nhưng hãy
cứ xem như chuyện của con người và có thể xảy ra bất cứ ở nơi đâu.
Chuyện của những con người bị bệnh nan y và đến giai đoạn chót ở Viện
Ung Thư; những ung thư ruột già, cuống họng, v.v.: “ung thư thì cầm bằng
như lãnh án tử hình rồi còn hy vọng mẹ gì nữa!” và “những xác người vặt
vẹo, những thân thể khô đét không còn chút vướng bận chuyện cõi sống
này”. Nhưng ở đó, tất cả đã lớn tuổi, chỉ có Tâm hãy còn trẻ, 28 tuổi
đời, nên hắn trở nên phẩn nộ từ đó, từ khi hắn là tử tội đã được kêu án –
còn sống được “… khoảng sáu tháng nữa. Có thể dài hơn một chút.” Ông
bác sĩ đã lên giọng, mắt nhìn hắn đăm đăm, ngừng một chút rồi hạ thấp
giọng nói, như cố tình không để hắn nghe thấy, “Cũng có thể ngắn hơn”.
Nhân vật Tâm thường được dì phước Têrêsa thăm hỏi, giúp đỡ và ủi an:
“Hắn ngồi bên cạnh giường, nhìn đăm đăm cuốn Kinh Thánh. Ma sơ à. Gì
con? Ma sơ đừng đọc Thánh Kinh nữa được không? Được chứ. Thôi thì dì để
cuốn Kinh Thánh đây, lúc nào buồn con mở thử một trang đọc xem sao nhé.
Một đoạn cũng được nữa. Nghe Tâm. Lúc buồn, lúc giận, hắn gọi “ma-sơ”
nghe cho xa một chút, như người ngoài; lúc lòng lắng xuống, hắn gọi
“dì”, như người trong dòng tộc. Chỉ có vậy. Dì phước không nói gì thêm.
Cái nhẫn nhịn của người tu hành đôi khi làm hắn bực mình. Phải như dì
hỏi hắn thêm một câu thôi, cõi lòng hắn sẽ mở bung ra như cái bọc chứa
đầy vấn nạn rắn rết của cuộc sống. Ừ thì cứ hỏi cái câu đơn giản này xem
dì có giải đáp nổi không rằng Chúa ngày xưa chữa người què, người mù,
người câm, người điếc … nhưng biết Chúa có chữa nổi chứng bệnh của con
không. Chúa; vâng Chúa của dì đó, có chữa nổi bệnh của tôi không; chứng
bệnh mà cách đây chưa đầy một tháng, ông bác sĩ chuyên khoa đã gật gù
kêu án rằng còn được may lắm là sáu tháng; có thể ngắn hơn. Cái câu có
thể ngắn hơn ông ấy nói thật nhẹ, thật mơ hồ, như thể sợ người ta nghe
thấy”.
“Dì phước dặn thì cũng cố ngoan ngoãn gật đầu cho bà vui chứ thời buổi này làm gì có ai làm phép lạ mà mơ tưởng”.
Tâm trách móc cả Chúa, cả định mệnh phủ phàng, hắn nghĩ quẩn là già
70 như ông già nằm cạnh và cả bà xơ mới đáng bị bệnh nan y Ung thư: “Sao
Chúa không bắt những người già như ma-sơ bị ung thư. Ma-sơ chán đời, bỏ
đi tu thì có ung thư cũng là hợp lý. Tôi còn trẻ; tôi chưa đầy ba mươi
tuổi; tôi còn ham sống.” Giọng hắn chợt nhão đi, “Dì ơi, con còn ham
sống …” Nước mắt dàn dụa trên má hắn. Dì phước lau vội nước mắt cho hắn
bằng những ngón tay xương”. Nan y với đủ thứ sợ hãi của bệnh, nào tác
dụng của thuốc gây tóc rụng, và cả chuyện xài thuốc lâu bị bất lực, làm
giảm sự thèm muốn đàn bà. Tâm hy vọng hắn chưa đến thời kỳ đó, do đó khi
có cơ hội, hắn thử, hắn nhìn chăm chú như muốn nuốt cô y tá đến đo máu:
“Bệnh vậy mà vẫn còn thèm. Giời ạ! Hay là không phải bệnh. Hắn thầm
nghĩ. Bác sĩ cũng nói sai được chứ. Mấy ông ung thư chung phòng vẫn ghẹo
hắn rằng cái bướu sẽ lớn dần mãi lên, sẽ ăn mòn hết sinh lực hắn. Hắn
sẽ liệt bại dần từng phần cơ thể. Cái bộ phận tí teo kia chắc cũng rũ
liệt thôi. Nhưng lúc này thì chưa. Cơn thèm muốn vẫn còn. Những người nữ
còn gợi tình. Khuôn ngực cong cong; khoảng hông uốn khúc và vũng tối
lập lờ còn gợi lên thấp thoáng trong lòng hắn ít nhiều xớn xác”.
Con bệnh trong hoàn cảnh đó dễ phẫn-nộ; ở đây phẫn-nộ đồng nghĩa với
những khốn-cùng của nhân sinh. “Dì phước hăng hái tháo cúc áo cổ hắn.
Hắn gạt tay dì ra. Dì đưa tay vuốt ve cái đầu tóc bù xù ướt sũng. Hắn
vùng dậy giận dữ giật tấm khăn choàng trên đầu dì xuống. Một cái đầu
trọc, lơ thơ những sợi tóc ngả mầu, khô như lá thông mục hiện ra trước
mặt hắn. Dì phước cuống cuồng giật vội cái khăn ra khỏi tay hắn, “Lạy
Chúa tôi, con đừng làm vậy chứ!” Và run rẩy giắt vội những nếp gấp chiếc
khăn choàng nữ tu lên đầu. Hắn sững sờ nhìn người đàn bà. Môi hắn mấp
máy không thành lời, nhưng trong đầu hắn, ngôn ngữ chạy vòng quanh, diễu
cợt. Ô, cái bà này đầu trọc, ta ơi! (…). Dì Têrêsa cười nói hồn nhiên,
“Người lớn tuổi thì vậy đó, ốm đau, bệnh tật, nhức mỏi lúc trái gió trở
trời. Đó là chuyện tự nhiên. Những con chiên của Chúa thì biết rõ việc
mình phải làm, đường mình phải đi. Chúa đã vạch sẵn con đường, mình chỉ
việc đi theo thôi.”
Hắn kéo dì về với nỗi bận tâm của hắn, “Mai dì có đến nữa không?”. “Đến chứ.”
Nhưng dì không đến và sẽ chẳng bao giờ nữa. Bà xơ cũng bị bệnh ung
thư! Mà còn nặng hơn Tâm nhưng hắn không hay biết, có thể vì vị-kỷ, vô
tâm. “Hôm sau dì Têrêsa không đến. Hắn đứng ngồi không yên. Hắn bực bội
vì phải tự bóp đầu, phải lê xuống nhà bếp xin đá lạnh chườm đầu, phải tự
lột vỏ trái chuối trước khi ăn … Hắn thầm nguyền rủa người nữ tu bê trễ
(. ..) Lúc này chỉ còn những cơn đau viền quanh đầu hắn như vòng gai
ngày xưa lính La Mã gài lên đầu Chúa. Ấy cũng nhờ dì phước kể cho hắn
nghe về vòng gai trên đầu Chúa. Những mảnh đau móc xuống da đầu, cày sâu
vào xương sọ. Vặn cong những mạch máu, làm ứa ra trong não bộ những cơn
đau đinh đóng. ừ, hắn nghĩ, cái đau của Chúa lúc đội vòng gai trên đầu
đã thấm thía gì với thứ đau gò siết của cái bướu đang lớn dần trong đầu
hắn.
Hắn cố tìm hiểu vì đâu vị nữ tu luôn đáp lại những cơn cuồng nộ của
hắn bằng sự dịu dàng. Có phải cũng nhờ sự bao dung, cao cả đó mà những
đứa con hoang đàng luôn luôn quay trở về với mẹ hiền sau những tháng
ngày lang thang, phiêu dạt. Những lúc bình tâm, hắn hỏi lòng như thế.
Hắn còn nhớ hoài đoạn Kinh Thánh nào đó dì đã đọc cho nghe hôm nào, về
đứa con trai hoang đàng.
Đêm, hắn nằm chiêm bao gặp dì phước. Dì bóp trán cho hắn và cơn đau dịu xuống. Như đứa trẻ hoàn hồn sau cơn ma hành, hắn thành con người khác.
Hắn cầm lấy bàn tay mỏng mảnh của dì phước, tẩn mẩn vuốt ve những vết
bầm như vết mực tím loang trên ngón tay học trò thời thơ ấu. Tay dì sao
vậy? Dì cười. Đôi môi khô bật máu nơi những vết lở như vết nứt trên mặt
ruộng khô hạn. Sao dì không uống thuốc? Đau ốm xoàng ấy mà.
Rồi hắn cầm lấy bàn tay của dì. Hắn nhìn đăm đăm vào những vệt gân
xanh ngoằn ngoèo trên làn da trắng bệch. Cố gắng đi con. Rồi Chúa sẽ sắp
xếp mọi chuyện. Giọng nói khàn khàn phù thuỷ, nhưng những lời nói ra là
mật ong. Hắn nhìn vào mắt dì phước. Hắn bắt gặp trong đó nỗi niềm gì đó
không tên gọi, như thể niềm hy vọng, nỗi ước mơ. Bao nhiêu thứ. Nhưng
người ta có thể mong đợi gì ở những con bệnh ung thư. Liệu Chúa có sắp
xếp được không hở dì. Môi hắn mấp máy. Nụ cười tin yêu nở ra trên đôi
môi khô, nứt nẻ của dì phước. Không một lời nào được nói ra, nhưng hắn
nghe thấy thật nhiều.
(…) Đoạn Kinh Thánh nói về phép lạ của Chúa. Lại phép lạ. Chúa chữa
bao nhiêu thứ; chữa người mù, người què, người điên. Không nghe Kinh
Thánh nói về bệnh ung thư. Chẳng biết Chúa có chữa được bệnh của hắn
không. Nếu có thì tìm Chúa ở đâu bây giờ. Hắn dự tính ngày hôm sau sẽ
hỏi dì phước những câu hỏi đó.
Ừ, không nghe nói Chúa chữa bệnh ung thư. Chắc thời đó không có bệnh
này. Hay là có mà Chúa không chữa được nên người ta không chép vào Kinh
Thánh”.
Nhưng tin dì Têrêsa đã chết đến như tiếng sét:
“Ông bác sĩ ngập ngừng nhìn hắn, “Bà ấy chết rồi cậu không biết sao?”
Những tiếng kêu bàng hoàng từ đám bệnh nhân đồng loạt réo lên từ đầu
đến cuối phòng. Hắn lao đao một giây như người bước hụt. Nhưng rồi cái
tính cộc cằn lại choàng ôm lấy hắn, như những ống hút của loài bạch
tuộc.
Không thèm để ý tới những điều hắn nói, ông bác sĩ bâng khuâng nhìn
bức tượng Chúa đóng đinh treo trên tường, giọng gẫy khúc, “Tội nghiệp dì
phước Thérèse, bà ấy bị ung thư máu …”
Hắn điếng người”.
Bỗng dưng những vệt máu loang lổ nhòa đi, trôi bập bềnh trong mắt
nhìn của hắn. Và câu dì phước nói hôm nào mang mang trong trí. Chúa bao
giờ cũng công bằng, Tâm ơi. Chúa bao giờ cũng công bằng …”.
Con người phải cộng tác với ơn cứu rỗi của một đấng Bề Trên (Trời,
Thượng đế, Thiên Chúa, v.v.) thì mới được cứu rỗi. Đức tin cũng đã có
thể cứu rỗi! Ơn cứu độ phải khởi từ bản thân. Cứu rỗi mình chưa xong,
nói gì đến cứu độ thế gian!
Lịch sử người Việt sau khổ nạn tháng Tư 1975, có những cái chết vì
đòn thù, của những người miền Nam bị lừa đi ‘cải tạo’. Hoàng Chính kể
chuyện Cuối Đường Khổ Nạn, nhưng không hẳn là cuối thật, cho biết người
mẹ và người con từ ngoài nước khó khăn tìm về đến đó mới biết người cha
sau gần 20 năm bị giam giữ không lý do, đã chết ở trại ‘cải tạo’ sáu
tháng trước đó!
Lịch sử cũng đã ghi nhận những cái chết tức tưởi, bi phẫn và cũng có
những vết tích lịch sử bị phá hủy một cách bạo ngược. Hoàng Chính ghi
lại cái chết của một thuyền nhân, một người mẹ trẻ trên một hòn đảo tị
nạn trong truyện Viết Lên Bia Mộ:
“Tôi nhớ đã dẫn em ra khỏi bệnh viện. Em chập chững trên con đường
sống trâu gập ghềnh đá núi của đảo hoang như em bé mới tập đi. Tôi dọa
không chịu tập, mai mốt quên luôn, không biết đi như thế nào nữa đó. Em
sợ ra ngoài gặp thiên hạ. Em sợ ngồi một chỗ mai mốt liệt luôn. Em sợ lỡ
chết, không ai nhớ, không ai thắp cho mình một cây nhang. Tôi chỉ cho
em coi tấm bia tưởng niệm sơ sài. Em nước mắt chạy quanh. Còn tôi lòng
xoắn lại như ai rút ruột mình ra mà buộc đầu những ngọn dừa cao vời vợi.
Mai kia mọi chuyện lắng xuống, người ta sẽ qua thăm nơi này, người ta
sẽ dựng lên những tượng đài. Để thế nhân có lòng ghé qua thắp cho một
nén nhang, sưởi ấm hồn oan những người không đến được bến bờ. Tôi nghĩ
nếu em không sống được, tôi sẽ là người khắc tên em lên tấm bia đài
tưởng niệm”. Tấm bia đã bị thế lực đồng tiền đục bỏ!
Trong Đoạn Chúc Thư Dang Dở, một trong những truyện ký viết gần đây,
Hoàng Chính nói đến những ám ảnh bị nan-y như bệnh ung-thư, đến cả với
người y-sĩ. Việc chuẩn bị và đương đầu với cái chết: “Rồi một buổi sáng,
dặn lòng rằng ừ thì trước sau gì cũng chết. Phải chết sao cho coi được.
Như tụi Mỹ vẫn bảo die in style … Có người hỏi anh có cầu nguyện với
Chúa không. Mỉm cười bảo không, bởi ai lại đi làm phiền Chúa vì cái
chuyện nhỏ nhoi”. Rồi: “Hôm qua, trong bệnh viện, thử máu xong, lăn quay
ra xỉu. Cái cảm giác lúc vừa tỉnh lại thấy lạ lẫm chi đâu. Chắc lúc gần
chết, cũng thấy lâng lâng như thế.” đối đầu với những người bạn hay
thân quen, mới biết cái nhìn, cái ái ngại của tha nhân là một khó vượt
qua: (…) Bao nhiêu là cái nhìn ái ngại của bạn bè ở chỗ làm. Bạn khỏe
không. Đã bảo hình ảnh cuối cùng để lại cho nhân gian phải là hình ảnh
đẹp, nên rộn ràng, vâng tôi khỏe. Thật không đó. Bạn có vẻ mệt mỏi. Đã
cố che dấu bằng nụ cười. Nhưng nét tiều tụy thì che làm sao được. Bạn
xanh quá. Lúc nào tôi cũng cầu nguyện cho bạn (…) Hay là thử đến với
đông y xem sao. Người bạn thơ chân tình. Mày phải để ý kỹ những triệu
chứng hô hấp. Thằng bạn học cùng lớp ngày xưa. Không sao đâu. Thời tiết
cả đấy. Chỉ cần ăn uống đầy đủ, uống thuốc bổ và tập thể dục đều. Những
người thân yêu. Dễ gì mà chết. Sách tướng số bảo anh sống tới chín mươi
hai tuổi. Chắc không đó. Sao không. Chín mươi hai tuổi vẫn còn nhớ thế
nào là thơ lục bát. Những giọt nước mắt. Ơi, yêu quá là yêu, cõi sống
này. Bỏ đi sao đành! Thế giới vây quanh. Bao nhiêu là thương mến. Ai mà
nỡ bỏ đi. Nhưng sao cứ nóng, lạnh, nhức đầu và mệt đuối người. Hay mình
có cái gì đó xa lạ, đang lớn lên dần trong bộ óc đã già …”.
Lại cái nhìn của người khác, những cái nhìn xuồng xả, chủ quan, của
những người ngoài cuộc. Cuối cùng lại là một chuyến trở về: “Chuyến này
về, hứa mỗi ngày sẽ đi nhà thờ với mẹ, sẽ ngồi uống cà phê với bố, sẽ
coi bóng đá với bố và đứa em trai, coi phim tập Hàn quốc với mấy cô em
gái. Và hứa tới những đoạn cải lương Hồ Quảng (hình như bên nhà, người
ta dùng chữ sến) mình sẽ cố dấu đi nụ cười chế nhạo.
Mai mốt trở về đây lại, tha hồ mà viết. Hình ảnh cuối cùng để lại cõi
sống này sẽ không là hình ảnh gã bệnh nhân èo uột trong trại ung thư
(phải ung thư không?) mà là hình ảnh kẻ làm thơ gục chết trên trang bản
thảo vừa viết xong chương cuối. Nếu viết bằng máy vi tính, sẽ nhớ lưu
cái truyện hoặc bài thơ, để lỡ có gục xuống trên bàn phím sẽ không vô
tình xóa hết đi những gì mới viết”.
Sống cho ra con người thật khó, vì hiểm nguy, gian khổ và
sinh-lão-bệnh-tử lúc nào cũng chực chờ. Cuộc sinh tồn như một nan-y, mà
cứu-rỗi khả-dĩ có khi lại là những trang chữ, những vần thơ. Với
nhân-vật chính trong bút ký vừa kể, cũng như với người y-sĩ và một ‘ông
già Tầu’ trong trại ‘cải tạo’ trong Gửi Riêng Chốn Nào ở một đoạn trên.
***
Có thể nói rằng hoàn cảnh và mục đích sáng tác là những yếu tố tham
gia gián tiếp vào nội dung sáng tác nhưng có khi những động cơ sáng tác
trở thành chính. Nhìn chung, những truyện của Hoàng Chính có thể được
xuất phát từ ý-tưởng ‘cứu-rỗi’, ‘chữa lành’ cho nhân-vật và những tình
cảnh xảy ra; tác giả chúng vốn xuất thân từ y-giới. Chính mục đích, động
cơ sáng tác này đã quy định nên nội dung tác phẩm, khiến chúng khác với
sáng tác của những nhà văn ‘ngoại đạo’ như Nguyễn Trung Hối, Tiểu Thu,
v.v. Hoàng Chính theo thiển ý đã vừa chú tâm thể hiện tâm-tư bản thân
hoặc theo chủ quan của tác-giả mà cũng vừa viết theo nhu cầu cấp thiết,
đã xảy ra, của hiện-thực cộng đồng bản xứ hoặc của ghetto người Việt. Nói như một nhân-vật trong Gửi Riêng Chốn Nào,“những
người đã đặt bút xuống viết bất cứ một điều gì chân thật, bao giờ cũng
là viết cho một người nào đó (…), nếu mình viết với cả tấm lòng thì hôm
nay, ngày mai, hay cả ngàn năm sau nữa, thế nào cũng có ít là một người ở
đâu đó, nói một ngôn ngữ nào đó, đón nhận với cả tấm lòng”. Ông
viết các truyện này dĩ nhiên trong thời gian sống lưu-xứ, xa quê, xa cả
môi-trường nghề-nghiệp gốc. Chúng tôi không tin các sáng-tác đó là do
phẫn chí, nhưng có thể đây là cách ông tìm đến văn chương vì hoàn cảnh
và thời thế không thuận lợi. Ông viết để đền bù và có thể để bày tỏ sự
phẫn nộ với hoàn cảnh cũng như những tàn độc của con người. Trong một số
truyện, Hoàng Chính đi tìm thông cảm với tha nhân qua những nỗi buồn
đau, bệnh tật và cùng tìm giải thoát với nhân-vật của ông.
Nếu đặt khung cảnh xã-hội văn hóa vào văn-bản thì việc đọc lại sẽ cho
thấy những ngẫu nhiên trùng hợp ở một tác giả, hoặc đặc điểm của một
nhà văn khác với các cây viết khác. Người ta còn có thể tìm thấy quan hệ
của chuyện kể trong tiến trình chữa trị, xác và cả hồn, vì có thể có
những liên hệ khả dĩ giữa y khoa và văn-chương qua bệnh tật, qua các
nhân-vật y-sĩ và bệnh nhân, qua sự sử-dụng và diễn-văn, suy-nghĩ về bệnh
tật trong cuộc sống cũng như sinh hoạt qua văn-chương.
Có chăng một thứ ý-thức cơ-thể khi đã có thể có sự thể-hóa của văn-bản và sáng-tác?
Nguyễn Vy Khanh
7-2008
7-2008
Các tác-phẩm trưng-dẫn trong bài được trích từ các tuyển-tập:
Mùa Thu Cuối Cùng (Làng Văn, 1994): Mùa Thu Cuối Cùng; Cây Gậy Lão Ăn Mày; Phiên Tòa; Nàng Tiên Cá
Lời Tỏ Tình Đã Cũ (Văn Mới, 2000): Rác; Cuối đường Khổ Nạn
Viết Cho Mẹ Ở Quê Nhà (Văn Mới, 2005): Khó Đi Mẹ Dẫn Con Đi; Vời Vợi Non Cao; Vực Sâu Khổ Lụy; Di Chúc
Một Đoạn Trong Thánh Kinh (Nhân Ảnh 2006): Ông Thầy; Một Đoạn Trong Thánh Kinh
Tình Ở Đài Bắc (Nhân Ảnh 2007): Hôn Lễ; Vầng Trăng Lưu Lạc
Khi Loài Chim Thôi Hót (2007): Gửi Riêng, Chốn Nào
Núi Không Còn Linh Thiêng (2008): Viết Lên Bia Mộ
Trang Internet Hoàng Chính http://hoangchinh.net/: Đoạn Chúc Thư Dang Dở.
Nguồn: Sáng tạo