VÕ CÔNG LIÊM
Phải chăng đây là tư duy của con người muốn khám phá sự thật tuyệt đối giữa cuộc đời hay đây là vấn đề đi tìm sự sống và chết ? Chân lý cuộc đời nó bao trùm trong một vũ trụ bí ẩn; đó là bí ẩn tuyệt đối giữa Thượng đế với con người, một đối diện hiện hữu, đối diện với hoài nghi và đi tới chối từ hay vì ám ảnh giữa ảo và thực. Đó là câu hỏi đưa ra hằng thế kỷ qua. Phản kháng nội tại của Kazantzakis là động lực thúc đẩy đi tìm đấng tuyệt đối. Nhưng; quên rằng Thượng đế đã chết không còn hiện diện để cứu rỗi con người ra khỏi bể khổ. Tại sao? Bởi; ’thiên điạ vô tư’ là cố định, không còn đứng ra để chứng nhân thiện và ác (good and evil) cho con người, một quay lưng hoàn toàn, một im lặng vô biên như từ nan; con người hiện diện với vũ trụ là cấu thành và kết tụ bởi bản chất thiên nhiên như sự đã qui định.
Trong lờì mở đầu tập 
’Cám Dỗ Lần Cuối/ The Last Temptation’ ông nói:’Trong 
tôi là cả bóng tối bao trùm qua cái lực ở cõi âm linh 
của Qủi Sứ, con người kể cả tiền nhân; trong tôi quá 
nhiều lực hào quang tỏa sáng, con người kể cả tiền 
nhân, Thượng đế toàn năng – và linh hồn tôi là đấu 
trường nơi đây có hai đội quân thường đụng độ và 
như đã gặp gở’. Within me are the dark immemorial forces of 
the Evil One, human and pre-human; within me too are the luminous forces 
human and pre-human, of God –and my soul is the arena where these 
two armies have clashed and met. Đó là khát vọng của con người 
đối diện với hư vô đưa tới đau khổ tuyệt vọng gây 
ra từ niềm tin, làm băng hoại không ngừng, đấu tranh với 
vô tính giữa tinh thần và thể xác. Vị trí con người 
lâm vào hoàn cảnh bi thương. Kazantzakis cho đây là bí mật 
của Thượng đế (Christ) là không đơn giản hóa sự bí 
ẩn đó như tín điều của lòng tin giữa thế gian nầy. 
Chính vì vậy đấu tranh triền miên giữa Thượng đế và 
con người làm tan vỡ niềm tin phấn chấn trong con người 
là cả một trường kỳ để hóa giải đâu là sự thật 
và đâu là hư vô. Giữa một vũ trụ biến hóa vô thường 
làm đảo lộn tư duy.
Toàn bộ tác phẩm của 
Nikos Kazantzakis là nói lên kinh nghiệm bản thân, 
một hành trình đi và sống để tìm thấy trọn vẹn cuộc 
đời như một đấu tranh triền miên giữa tinh thần và 
thể xác. Ngoài những đấu tranh dữ dội của Kazantzakis, 
ngoài khả năng hòa giải những đối kháng và liên kết 
tất cả những dữ kiện để đưa vào tư duy riêng mình; 
tất cả thành quả đó được mô tả một cách rõ ràng, 
chính xác và thông đạt đầy đủ hình ảnh rộng lớn 
qua kinh nghiệm sống của con người. Vì vậy Kazantzakis đối 
diện thường xuyên trước những tình huống qua bao dặm 
trường của kẻ đi tìm chân lý thực hư.
Đứng trên 
lãnh vực nghệ thuật của Kazantzakis được coi là một ghi nhận, 
dù có nhiều điểm đáng chú ý nhưng vẫn chưa  thoát 
khỏi những phạm trù văn chương, lý luận và những thay 
đổi khác trong cuộc đời đang sống. Ông là một con người 
thông minh, mẫn cán có một học vị cao –theo đuổi nhiều 
tác giả có những luận thuyết như Nietzsche, Bergson, tìm 
hiểu văn học Nga, theo chân Phật giáo, một nhà biên soạn, 
chuyển ngữ từ những danh nhân khác như Homer, Dante và Goethe 
–Cùng thời gian đó ông đã nhận biết đôi điều và 
hết lòng thương yêu những con người thiếu may mắn ít 
học và từ đó; qua những hoạt động khác ông bước vào 
một điạ vị cao trong xã hội…Dẫu có du hành khắp nơi 
trên điạ cầu nầy, một hành trình không ngừng nghỉ và 
tìm kiếm, đào đục tận gốc kiếp lầm than, lưu đày 
của con người ngay trên quê hương của ông. Kazantzakis không 
thoát khỏi những bức xúc nội tại, không tin ở chính 
mình kể cả Thượng đế mà dòng dõi ông vốn đã tôn 
thờ hằng cửu; nhưng trong thảm họa làm người là một 
đấu tranh không ngừng, ở thời tuổi nhỏ bản thân ông 
đã tiếp cận bầu khí quyển hoàn toàn đối kháng đến 
với những gì mà ông lớn dần theo thời gian. Ở đây là 
những phát hiện ở buổi thiếu thời của Kazantzakis là 
cả một sự chịu đựng kiên trì giữa những nhu cầu cần 
có để triệt thoái sự khổ hạnh, một tìm kiếm dai dẳng 
ở người cha của mình, đấng thật sự cứu chuộc thế 
gian – cho một ý nghĩa  hiện hữu của ông và của 
chúng ta.(to search untiringly for his true father, his true saviour 
–for the meaning of his and our, existence) Con đường lặn lội 
tìm kiếm bất luận nơi đâu, từ hang cùng, ngõ cụt, những  
tu viện hẻo lánh hay những đền đài xa xuôi; để về 
sau ông rơi vào một tâm thần chao động: Nietzsche dành cho 
Phật, Phật dành cho Lenin, Lenin dành cho Odysseus… để rồi 
quay về với Thánh giáo (Christ) như đã một lần tôn thờ 
hằng cửu. Một chạm trán, đương đầu với đời như 
Jesus Christ. Nhờ vào sự thu hút mãnh liệt đó Kazantzakis 
như bị cám dỗ để lao vào con đường phản kháng giữa 
nội tại và ngoại tại, để tìm thấy chân lý tự do. 
Bởi vậy cho nên ông chịu ảnh hưởng nặng của những 
cuộc cách mạng ở quần đảo Điạ Trung Hải Hy Lạp (Cretan). 
Đến năm 1917 là động lực đẩy Kas. vào hai con đường: 
Cách mạng Nga và hiệp hội hầm mỏ Peloponnesian; đặc biệt 
con người đầy nhiệt tình của phong trào George Zorbas; đó 
là kinh nghiệm sống và thấy để về sau dựng nên ‘Zorba 
Hy Lạp’ (Zorba the Greek.1946). Mở đầu cho những tiền đề 
trong tác phẩm là cả một đối kháng của con người ‘Zorba 
Kazantzakis’ giữa tinh thần và thể xác, giữa hành động 
và cám dỗ. Niềm tin đó như nở hoa, bừng lên trong ông 
ở tuổi hai mươi, một tuổi trẻ hào hùng, năng động 
cho tới những dặm đường cuối cùng ông vẫn tìm kiếm 
đích thực ý nghĩa của cứu rỗi. Kazantzakis phản bội 
ở chính mình, chối bỏ những triết thuyết trong ông đã 
một thời đam mê tìm kiếm chân lý; ông quét ra khỏi những 
tư duy của Nietzsche, Plato, Bergson –ông đánh mất tất cả 
những nguyên cớ để trở về với bản thể; chiến đấu 
không sợ hãi, không nuôi một hy vọng nào hơn và chẳng 
còn sinh khí: sức mạnh cuộc đời có thể là điều để 
chế ngự vấn đề mà thôi –the life force which can conquer 
matter. Nói cho đúng nghĩa tinh thần phản kháng trong con người 
của Kazantzakis chúng ta cần phải đào khoét tận cùng tâm 
linh của con người đối diện với Thượng đế, Kas. trở 
về là nhận thức, là khước từ tất cả đã xẩy ra, 
những mối liên hệ giao tình giữa văn nhân và người yêu, 
bởi; Ki-Tô-Giáo đã đưa vào Kas. ý niệm của khổ đau, 
trong đau khổ gieo rắc có Qủy Sứ dự phần ở cuộc đời. 
Nhưng ông vẫn tin duy nhất: nguyên lý cốt tủy của Thượng 
đế là tình yêu –Dieu en tant que principe d’amour. Nhưng 
liệu Thượng đế có khoan hòa để vừa  lòng nhân 
loại? đó là cái bất-khả-tư-duy trong con người của Kas. 
Vẫn hoài nghi, vẫn có một cái gì không tương nhượng 
mà Thượng đế dành cho con người, bởi; công lý bất công 
và tồn tại đôi phần –Pourquoi? Parce qu’ellle est injuste. 
Cho nên chi Kazantzakis  trở thành một thứ phản kháng 
siêu hình đó là cơn dấy động của con ngưới đứng trước 
với hư vô để nói lên thân phận đau khổ, một thân phận 
cần được cứu rỗi hơn là thượng đế cứu rỗi. Cái 
siêu hình là ở chỗ đó, mà; Kas. phải lần mò tìm kiếm, 
một đoạn trường tân thanh vì trót làm thân phận con người 
mà cả hai dạng thức đó phải nhận –pour l’un et l’autre. 
Từ đó tinh thần phản kháng trong Kazantzakis tự quyết đoán 
lấy mình, mọi hiện hữu siêu nhiên ít nhiều chứa chấp 
mâu thuẩn(?) Tuy nhiên; Kas. lấy cái sự bừng lên là một 
đòi hỏi tuyệt đối; nhưng Kas. không nhận ra được hư 
vô và huyền nhiệm vì thế chân lý rơi dần vào hố thẳm 
(không chừng hố thẳm của tội lỗi!) Để rồi cuối cùng 
Kas. quay đầu qui cố hương trong Odysseus. Cái sự cớ đó 
chính Kas. đã thốt lên trong mở đầu:’Cám Dỗ Lần Cuối’ 
cuộc dấy động đã dàn binh bố trận có quân đội chém 
giết đôi bên, tâm như của Kas. là lính chiến của mặt 
trận dự phóng giữa Thượng-đế và Con-ngưởi. Một cuộc 
cách mạng tinh thần và thể xác, cách mạng một nội tại 
bức xúc. Những Nietzsche, Heidegger, Marx-Engels, Lenin, những 
gì của văn nhân lừng danh Âu châu không đẩy lùi được 
tư duy phản kháng siêu hình. Nhưng rồi những dạng thức 
của phản kháng siêu hình hay phản kháng nội tại của 
Kas. vẫn ngấm ngầm, sôi sục không thể cứu chuộc mà 
nằm một cõi xa xôi, mơ hồ. Đó là những gì bí ẩn của 
Thượng đế, một cái gì im lặng vô biên, những gì vô 
hạn hữu dù con người muốn khám phá để đi vào hư vô. 
Không riêng Kazantzakis; Hy Lạp là đất phát tiết của phản 
kháng siêu hình, cả một kho tàng thần thoại vẫn chưa 
tìm ra chân lý tuyệt đối. Cho nên chi Hy Lạp đa đoan, Kazantzakis 
đa đoan là thế! Hy Lạp đã hụp lặn trong sỏi đá, của 
sương mù. Như đã có lần cho Kas  là kẻ nằm trong ‘Vườn 
Đá Tảng’ nhưng thật ra ông đang hành trình trên dặm 
mòn của đá tảng thì đúng hơn –stony trail. Chính cái 
ao ước nầy A. Camus cho là nỗi tuyệt vọng không rời –désespoir! 
Ý của Camus  nói rẳng chân lý tuyệt đối mà Kazantzakis 
đi tìm là vô vọng trong tư duy của Thánh linh, ngay cả Christ 
cũng phải im lặng; cái đó là tuyệt đối như-nhiên. Nietzsche 
cũng mượn lời của Zarathustra mà thốt lên rằng: Trước 
Thượng đế thì có, nhưng nay Thượng đế đã chết, chết 
hẳn hoi vì loài người không bình đẳng, không tương nhượng, 
một đổ vỡ trầm trọng đích thực. Vì những câu nói 
chân truyền của Nietzsche đã làm cho tư duy của Kas trở 
nên đốn mạt, Kazantzakis tự cho mình là kẻ vô luân và 
sửa sai bằng một thứ ngôn ngữ tế nhị hơn, ông đã 
giải thích từng ‘con chữ’ trong tác phẩm như một chạy 
chửa dành cho niềm tin ‘sau cùng của cám dỗ’. Ngôn ngữ 
và cách dụng văn của Kazantzakis đã biến thể để đi 
vào thế giới của biểu tượng hơn là hiện sinh, Kas. đối 
diện với thượng đế là khách thể và hư vô là biểu 
tượng, cho nên tri thức bấy giờ của ông là một hiện 
hữu trực tiếp hướng đến một đối tượng; lấy Zorbas 
ngoài đời để hư cấu trong truyện là dạng thức giữa 
ảo và thực trong con người thực của Kazantzakis. Vốn mơ 
hồ nhưng thực thể và phong phú của tha thể đi qua vai 
trò chủ thể; cái đó thuộc nhận biết của tri thức. 
Kazantzakis hạ bút xuống ‘Cám Dỗ Cuối Cùng’ không phải 
một lòng nhìn nhận Thượng đế chịu khổ nhục; giữa 
hữu thể và tha thể có một đồng tình bí ẩn ngấm ngầm, 
Kazantzakis đau đớn đường tình, thì ngay trong Christ cũng 
đau đớn đường tình (The Last Temptation). Nói theo triết 
học hiện tượng thì đó là thế giới duy nghiệm, bởi; 
bên cạnh cuộc đời của Christ vẫn thấp thoáng bóng phụ 
nữ ngay cả khi lâm chung trên thập tự giá, chính sự cớ 
đó là một khám phá của Kazantzakis. Tuy nhiên trên thực 
tế không có phép nhị nguyên tính mà nó hoàn toàn phân 
cách giữa chủ thể và tha thể. Sở dĩ như thế vì Kas. 
nuôi dưỡng một tâm thức phản kháng bởi nghi ngờ sinh 
ra dục tính và đi tìm đấng tuyệt đối giữa siêu hình 
và hư vô. Và; Kazantzakis rơi vào vũng tối của quên lãng 
mà thường khi bắt gặp nơi tính nghệ sĩ của ông; tiềm 
lực của ngôn ngữ qua nhiều biến thể một cách tùy nghi 
thích ứng.
Trong những 
lần biện hộ cho giới bình dân, Kazantzakis cảm thấy như 
bao che linh hồn cho những người đồng cảm để chống 
lại cái ý thức về hình ảnh (ảo hóa) của một thứ 
thông thái rởm, cho dù có quan trọng chăng nữa –In championing 
the demotic, Kazantzakis felt he was defending the soul of the common 
people against the unimaginativeness of  pedantic intellectual, and 
even more important. Kazantzakis đã tấn công mãnh liệt trên 
văn chương không những chỉ dành cho sự trau chuốt nhưng 
đây là một biện hộ của quần chúng nhưng quần chúng 
đòi hỏi ông phải bước ra khỏi những từ ngữ tối nghĩa. 
Cũng vì thế mà ảnh hưởng đôi phần trong tác phẩm của 
ông (Kazantzakis là ứng viên hụt giải văn chương Nobel vì 
thiếu một phiếu đề cử vào năm 1952) Trong trường hợp 
nầy Kas.không chịu thối lui trước lời đề nghị của 
quần chúng hay tại ngã mạn vì đứng sau một lá phiếu 
Nobel? vì; yếu tố tối thượng không lãnh hội sâu xa ý 
siêu thoát của Kazantzakis mà đành bỏ cuộc ởm ờ ? nhưng 
cũng lấy đó mà cứu cánh cho những tác phẩm về sau và 
cứ thế mà luân lưu giữa chối từ và thừa nhận, giữa 
hư vô và siêu hình thì sự hoài nghi vẫn còn lùng kiếm…để 
chống lại những lý thuyết giáo điều bao che. Sở dĩ như 
vậy; Kazantzakis mạnh dạn nói lên sự thật mà những gì 
giáo hội bao che. Ông đứng trên cương vị của khách thể 
để nhìn hữu thể là hiện hữu. Như-nhiên không thối 
lui, Kazantzakis cũng không chịu thối lui. Hư vô im lặng để 
vũ trụ vận hành, còn Kas. tiếp tục lùng kiếm, tiếp tục 
viết để nói lên tiếng nói thổn thức, dù bao lần công 
kích, đả phá kịch kiệt và xem như lăng nhục kể cả 
Thánh thể; qua những tác phẩm trước và sau của ông: ở 
tuổi 65  ông dốc toàn lực , trong vòng hai tháng hoàn 
thành tác phẩm ‘Christ Tái Đóng Đinh/Christ Recrucified’ 
viết trọn những phong tục, tập quán của con người Hy 
Lạp nhìn Christ. Với 9 năm , ông để lại 8 tập  khác 
nhau; gồm có ‘Freedom and Death/Tự Do và Chết’ ‘The Last 
Temptation/ Cám Dỗ Cuối Cùng’ “Report To Greco/ Tường Trình 
Đến Greco’ ‘The Fratricides/Kẻ Phạm Tội’ ‘The God’s 
Pauper/ Kẻ Nghèo của Thượng đế’ ‘Zobra The Greek/Zobra 
Hy Lạp’ và ‘England: A Travel Journal/Anh quốc: Thời sự 
Du lịch’. Đáng chú ý nhất là hai tác phẩm để đời 
của Nikos Kazantzakis: ‘Cám Dỗ Cuối Cùng’ và ‘ Zorba 
Hy Lạp’. Ông đã lãng mạn hóa cuộc đời của những 
người nông dân nhà quê, những người thiếu may mắn,với 
lòng ngợi ca tốt và xấu của những anh hùng dân tộc Hy 
Lạp. Ông thổi vào tác phẩm ‘Cám Dỗ Cuối Cùng’ một 
ngọn lửa truy tầm, soi sáng những gì trong đó, bởi; chính 
đây là thời của Kazantzakis  một bày tỏ của tìm 
kiếm mà trong ba mươi năm qua ông đã mài công tìm kiếm 
chân lý tuyệt đối, nhưng vẫn phủ nhận, đến khi thừa 
nhận là lúc ông hoàn toàn đánh mất cứu cánh. Và; những 
gì ông học hỏi từ học thuyết Nietzsche là một cố gắng 
không cùng cho tự do để tìm thấy tự do không sợ hãi, 
nhưng rồi cũng không mang lại một hy vọng nào khác hơn. 
Đến khi hoàn tất ‘Cám Dỗ Cuối Cùng’là lúc Kazantzakis 
nhìn thấy Jesus là một siêu nhân, một lực lôi cuốn ông 
và đưa tới thành quả vinh quang trên tất cả mọi thứ 
trong đời; bởi lòng trung tín của ông đem lại mãnh lực 
cuộc đời trở nên hợp lý trong ông và biến đổi một 
tinh thần tươi sáng. Nhưng ở đây khiá cạnh mang lại thành 
quả thật sự, một vinh quang như một con người tự do 
ra khỏi cảnh tù đày. Từ đó; đối với Kazantzakis chủ 
nghĩa tự do không đòi hỏi sự đền ơn cho  đấu tranh, 
nhưng đạt được một kết quả mỹ mãn lấy ra từ phấn 
đấu. Ấy là phép lạ tối thượng mà Jesus bền gan, kềm 
chế lý trí đứng trước cám dỗ của qủi sứ. Đó là 
tâm như thánh giáo vượt  qua những lôi cuốn kỳ diệu; 
dẫu có thua cuộc nhưng không sờn lòng. Và; duy nhất cách 
đó thì có thể đi tới quyết định tối hậu mới không 
chấp nhận sự cám dỗ cuối cùng.
Kazantzakis 
thấy Jesus giống như thấy Odysseus; một hứa hẹn trong 
cuộc chiến đầy căm go, một mô thức của con người theo 
đuổi tự do. Giờ đây Nikos Kazantzakis không còn là kẻ 
khám phá mà chính dặm trường của ông đã tìm thấy đâu 
là ‘good and evil’đó là con đường giải phóng cho những 
tâm hồn cô quạnh, cho những con người nghèo nàn thôn dã 
kém may mắn, giải phóng luôn thể xác và tinh thần để 
nâng lên giá trị tuyệt đối. Những tác phẩm của Kazantzakis 
hầu hết là đối kháng để đi tới chối bỏ nhưng là 
gì đi nữa Kas. vẫn là con người nhạy cảm đối diện 
vói một nội tại rối loạn như thời chúng ta đang sống. 
Ông muốn làm sống lại một Thượng đế có thật hơn 
là một thứ giáo điều bao che. Dẫu có lên án khai trừ 
ông dưới hình thức nào của giáo hội. Ngày nay Hy Lạp 
coi Nikos Kazantzakis là anh hùng dân tộc và vẫn ngợi ca là 
con chiên ngoan đạo. Thượng đế của ông là ý niệm của 
thiên hùng ca, một nguyên thủy cho tất cả - His Christ is 
an epic conception,wholly original ./.
