Wednesday, October 23, 2013

Thơ Nguyễn Bắc Sơn :




Trước 1975 thơ Nguyễn Bắc Sơn đã ngông nghênh. Sau 1975 thơ NBS vẫn ngông nghênh. Ngông bất chấp chiến tranh, hịa bình: rõ ràng ngông thật.
Ngay trong thế hệ mình, NBS cũng không phải là nhà thơ ngông duy nhất. Ngông ba bảy đường, "đường" ngông riêng của ông đại khái như một người
"Buổi sáng mang tiền đi hớt tóc
Vô tình ngang một quán cà-phê"

rồi "vô tình" vào quán ngồi với "giang hồ hảo hán" hơi lâu, rồi "lạng quạng ra bờ sông ngó nước" cũng lâu, rồi "ghé thăm ông bạn trồng cây thuốc" cũng lâu nữa, để khi hết trọn "ngày nhàn rỗi" thì
"... râu tóc (vẫn) còn nguyên vẹn"!
Đàn ông tóc dài có thể "đẹp trai thêm". Thơ ngông lối đàn ông tóc dài có thể "đẹp thơ thêm"!

Một ngày nhàn rỗi
Buổi sáng mang tiền đi hớt tóc
Vô tình ngang một quán cà-phê
Giang hồ hảo hán dăm thằng bạn
Mải mê tán dóc chẳng cho về.

Về đâu, đâu cũng là đâu đó
Đâu cũng đìu hiu đất Hán Hồ
Hớt tóc cạo râu là chuyện nhỏ
Ba nghìn thế giới cũng chưa to.

Tháng giêng ngồi quán quán thu phong
Gió Nhạn Môn quan thổi chạnh lòng
Chuyện cũ nghe đau hồn tứ xứ
Thương Kiều Phong, nhớ tiếc Kiều Phong.

Bày ra một ván cờ thiên cổ
Thua trận nhà ngươi cứ trả tiền
Mẹ nó, tiền ta đi hớt tóc
Gặp ngày xúi quẩy thua như điên.

Tóc ơi ngươi cứ tha hồ mọc
Xanh tốt như mùa xuân thảo nguyên
Từ Hải nhờ râu nên mới quạo
Thua cờ tớ bỗng đẹp trai thêm.

Lạng quạng ra bờ sông ngó nước
Trên trời dưới đất gặp ông câu
Ta câu con đú, ngươi câu đẻn
Chung một tâm hồn tất gặp nhau.

Khi gã Yêu Ly đâm Khánh Kỵ
Là đâm chảy máu trái tim mình
Sông Mường Mán không dung hào kiệt
Muôn đời bóng núi đứng chênh vênh.

Tháng giêng có kẻ đi tìm cúc
Nhưng cõi đời không có Cúc Hoa
Thấy đám phù bình trên mặt nước
Biết mình đi lộn nẻo bao la.

Những khuôn mặt những người xuân nữ
Phiêu bồng vĩnh cửu lẫn phù du
Yêu rất khó vô tình cũng khó
Khánh đa tình sợ nhất mùa thu.

Ghé thăm ông bạn trồng cây thuốc
Mời nhau một chén rượu trường sinh
Bát cơm tân khổ mười năm ấy
Câu chuyện năm năm khiến giật mình.

Nằm dưới gốc cây nhìn cánh bạc
Dường như mặt đất tiết mùi hương
Ngủ thẳng một lèo nay mới dậy
Dường như mình cũng mộng hoàng lương.

Dường như đứa trẻ nghìn năm trước
Bây giờ đây vẫn trẻ trong ta
Khi về râu tóc còn nguyên vẹn
Một ngày loáng thoáng một ngày qua.


 
Đi câu
Trên thì mây bay, dưới thì nước chảy, câu sông quả nhiên dễ "phiêu bồng" hơn câu ao, câu hồ. "Mây bông" không biết nó ưa thứ mồi gì, nhưng hễ dính thì phải mau mau gỡ, kẻo rách hết!
Ta thích ngồi câu bên bờ sông
Để cho tâm trí được phiêu bồng
Cá chẳng đớp mồi càng thích thú
Miễn là câu được đám mây bông

Bỏ xứ
"Người thanh niên khí phách"... Chắc là cái người "buổi sáng mang tiền đi hớt tóc" rồi chiều về "râu tóc (vẫn) cịn nguyên vẹn".(3)
Xưng mình khí phách, chẳng ngông mà dám xưng sao.
"Những ngông sĩ đứng bên bờ nhật nguyệt
Vỗ tay cười khinh lớp sóng lô nhô."
Cười khinh sóng lô nhô, xong "lạc đàn dăm bảy đứa" bèn rủ nhau "đi tìm cây cần trúc nhỏ" mà "ra hồ ngồi, câu đá câu mây"! Ôi Đà Lạt!
Mười năm nhỉ, mười năm khuất nhục
Ngồi khua ly trong quán cô hồn
Cô độc quá người thanh niên khí phách
Trời đất bao la mà không chỗ dung thân.

Kỳ lạ nhỉ, giờ đây ta bỏ xứ
Theo trái phong du níu gió lên trời
Xin bái biệt cổ thành với nhà ga hoang không thiết lộ
Khói của chòi rơm, bãi cát trăng soi.

Xin bái biệt những người tin rằng thi sĩ chết
Và hi hô tát cạn dòng sông
Khi giã từ, ta tặng cho các ngươi cái búa
Để đốn đời thánh hạnh của cây thông.

Ở Đà Lạt, ngoài khung cửa kính
Giàn su xanh thở ấm má em hồng
Và tôi, kẻ mười năm không áo lạnh
Biết đời mình đủ ấm hay không?

Ở Đà Lạt ta tha hồ cuốc đất
Và tha hồ ẩn hiện giữa ngàn cây
Sẽ đi tìm cây cần trúc nhỏ
Ra hồ ngồi, câu đá câu mây.

Ở Đà Lạt, lạc đàn dăm bảy đứa
Còng lưng ra mà cõng ba-lô
Những hào sĩ đứng bên bờ nhật nguyệt
Vỗ tay cười khinh lớp sóng lô nhô.

Mai sau dù có bao giờ
Ai chưa quen "ta" có thể thắc mắc: "tên" nào mà ngông nghênh vậy?
Ai biết rồi chắc chỉ cười xòa: quả nhiên "ta" với "bè bạn (ta) choàng vai ấm áp (...) rong chơi" thì "nước hồ đời" cứ tha hồ sạch, vì "những hào sĩ (chỉ) đứng bên bờ nhật nguyệt" "câu đá câu mây" chứ đâu có lội xuống "quấy bẩn"...(4)
"Mai sau dù có bao giờ,
Rót vò men ấy tơ mơ chén này"!(5)

Đêm Phù Cát ngoài trời mưa rất lạnh
Nhưng trong ngôi nhà của thiếu úy Hồ Bang
Có tình bạn nồng nàn
như rượu chôn mười năm dưới đất
Có câu chuyện tình thi vị mang mang

Đôi lúc nghĩ trời sinh một mình ta là đủ
Vì đám đông quấy bẩn nước hồ đời
Nhưng nghĩ lại trời sinh thêm bè bạn
Để choàng vai ấm áp cuộc rong chơi.

 
Tha lỗi cho ta
"Đời mình như rượu còn ly cặn
Hắt toẹt đời đi chẳng nhíu mày".
"Bây giờ ta đã thành ti tiểu", mà ta thơ cồ đại thế sao. Nghe cái hơi miệng (khẩu khí), thấy người vẫn "ngất ngưởng", "đu bay" y như "ngày trước", dù có đu "trong chiếc chuồng vuông chật"...
Tiếc mày không gặp ta ngày trước
Ta cho mày say quắc cần câu
Rượu bia bốn chục chai đồ bỏ
Uống từ chạng vạng suốt đêm thâu

Thành phố giới nghiêm ta ngất ngưởng
Một mình huýt sáo một mình nghe
Theo sau còn có vừng trăng lạnh
Cao hứng cười buông tiếng chửi thề

Thời đó là thời ta chấp hết
Lửng lơ hoài trên chiếc đu bay
Đời mình như rượu còn ly cặn
Hắt toẹt đời đi chẳng nhíu mày

Thời đó là thời ta bất sá
Sẵn sàng chia khổ với anh em
Hơi cay đạn khói dùi ma-trắc
Bước cũng không lui trước bạo quyền

Bây giờ ta đã thành ti tiểu
Uốn vào khuôn khổ cuộc đời kia
Loanh quanh trong chiếc chuồng vuông chật
Sống đủ trăm năm kiếp ngựa què.

 

Mật khu Lê Hồng Phong

tướng giỏi cầm quân trăm trận thắng

còn ngại hành quân động Thái An
cát lún bãi mìn rừng lưới nhện
mùa khô thiếu nước lính hoang mang

đêm nằm ngủ võng trên đồi cát
nghe súng rừng xa nổ cắc cù
chợt thấy trong lòng mình bát ngát
nỗi buồn sương khói của mùa thu

mai ta đụng trận, may còn sống
về ghé Sông Mao phá phách chơi
chia sớt nỗi sầu cùng gái điếm
đốt tiền mua vội một ngày vui

ngày vui đời lính vô cùng ngắn
mặt trời thoắt đã ở phương tây
nếu ta lỡ chết vì say rượu
linh hồn ta chắc thành mây bay

linh hồn ta sẽ thành đom đóm
vơ vẩn trong rừng động Thái An
miền bắc sương mù giăng bốn quận
che mưa dùm những nắm xương tàn



VÀI NHẬN XÉT

(trích)


      VÕ PHIẾN :



…Bên kia là: “những đứa điên say”; bên này là “ta” coi đánh giặc như trò chơi. Hoàn cảnh phải chăng đã xui có cái bất cần này để quân bình lại cái quá đáng kia. Oc hài hước bên này để hiểu chính óc mộng tưởng bên kia?] … Thái độ một quân nhân thời chiến như ông, nó khác thường không những vào thời điểm cuối 60 đầu 70, mà vào bất cứ thời nào. Có thể bảo chiến tranh là cái cũ rích, đã có tự ngàn xưa; chán ghét chiến tranh là thái độ cũng cũ cũng xưa không kém. Ở Nguyễn Bắc Sơn chỉ có cái ngông nghênh ngang tàng là mới. – Một chút ngang tàng thôi cũng có sức thu hút người đời dữ vậy sao? Nhưng… Không phải chỉ ngông nga ngông nghênh chật đường mà đủ làm thiên hạ mê say. Trong cái nghênh ngang phải có gì đẹp đẽ, sau vẻ nghênh ngang phải thấp thoáng một tâm hồn phong phú, những xúc cảm tinh tế, chân thành, những lời lẽ đầy duyên dáng v.v. Có thế may ra mới…



ĐẶNG TIẾN :



… Nhiều người nhớ đoạn thơ nói trên vì tâm tư một thời đại, nhưng nó tồn tại lâu dài trong tâm thức người đọc là nhờ giá trị nghệ thuật — bên cạnh giá trị lịch sử mà không ai chối cãi. Điển hình cho thi pháp Nguyễn Bắc Sơn là từ vựng: câu đầu trên 7 chữ, đã có 5 từ diễn tả niềm hoang mang trước cuộc sống mỏng manh, bao quanh một chủ từ «ta» phù du hiu hắt ; «mai» là cuộc sống đếm từng ngày ; động từ «đụng» vừa chủ động: có đi mới đụng, vừa thụ động vì có tính cách tình cờ, tai hại ngoài ý muốn: «anh đi nhè nhẹ, đụng giường má hay». Người lính đụng trận như người thường đụng xe, đụng mưa; bình thường, chính xác hơn, người khác sẽ nói: đụng giặc, đụng địch. Nhưng trong thơ Nguyễn Bắc Sơn không thấy có đối phương. Trong câu sau Sông Mao là một thị trấn nổi danh vì chiến tranh: từ 1955 Sư Đoàn 5, người Nùng đóng ở đó, với khu gia binh di cư vào, và đời sống mang sắc thái riêng, về sau là các căn cứ quân sự Hoa Kỳ. Do đó địa danh Sông Mao, tự nó đã có âm hưởng chiến tranh, và quả thật nơi đấy «có nhiều nhà điếm và nhiều trại lính» (tr. 11) như lời thơ Nguyễn Bắc Sơn.

…Thơ chinh chiến của cổ nhân là thơ quan quyền; ra quân phải có nhạc tỳ bà trên lưng ngựa; rượu thì phải Bồ Đào. Thơ Nguyễn Bắc Sơn là thơ lính, ra quân không đua đòi Mỹ Tửu nhưng phải có “đế Nùng” đặc sản do người Nùng địa phương Sông Mao sản xuất từ các trại gia binh.

…Trong trường phái khí phách giang hồ này Thâm Tâm có bài Tống Biệt Hành nhiều người biết, ông còn những bài Tráng Ca, Vọng Nhân Hành, và nhất là Can Trường Hành, báo hiệu Nguyễn Bắc Sơn

….Vào khoảng 1970, khi thơ Nguyễn Bắc Sơn xuất hiện và gây ngạc nhiên, nhiều người cho rằng có hơi hướm thơ Quang Dũng, có lẽ vì đề tài chiến tranh và lời thơ bi tráng. Nhưng xét kỹ thì không đúng: thơ Quang Dũng lãng mạn và lý tưởng, thơ Nguyễn Bắc Sơn ngược lại, phi lãng mạn và phi lý tưởng. So với các nhà thơ khác, mà chúng tôi vừa trích dẫn, thơ Nguyễn Bắc Sơn cũng có nét khu biệt, là chất bụi đời, mà nhà thơ tự cho là “du đãng”. Tống Biệt Hành là thơ để đời ; Nguyễn Bắc Sơn là thơ bụi đời. Độc Hành Ca là loại thơ “miếu đền”, Nguyễn Bắc Sơn là thơ lề đường, quán sá. Xã hội, hoàn cảnh Miền Nam thời đó đã tạo một nguồn cảm hứng như thế và chỗ đứng cho một thể loại bất cần đời như thế. Và dư luận thời đó, của những nhà văn tên tuổi có thế lực văn học, lập trường chính trị vững vàng, như Võ Phiến trên Bách Khoa, Chu Tử trên báo Sống, Doãn Quốc Sĩ trên báo Văn, đã đồng loạt hoanh nghênh.



ĐỖ QUANG VINH :



…Nguyễn Bắc Sơn là con người đa tài: rất giỏi tiếng Anh, nghiên cứu sâu triết học Đông – Tây, đặc biệt là Kinh dịch và triết học Phật giáo; lại có bàn tay châm cứu tuyệt vời cộng với tấm lòng nhân ái của một lương y thực thụ. Đó là thời điểm cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ trước, khi đất nước còn bộn bề khó khăn, thiếu thốn – anh đã từng tham gia chẩn trị và hướng dẫn châm cứu cho lớp đàn em ở các cơ sở Đông y Phan Thiết và Hàm Thuận Bắc … Nhưng Nguyễn Bắc Sơn sau trước vẫn là thi nhân – một thi nhân luôn lãng đãng, phiêu bồng trong cõi nhân sinh bởi vì anh đã ký thác đời mình từ “sinh cung của bà mẹ mênh mông”. Thơ anh mang khẩu khí tài hoa, phóng túng; phảng phất một chút hơi hướng của phong trào “thơ mới”, “thơ tiền chiến” và xa hơn là phong vị hàm súc của Đường thi – đó là cảm nhận chung của đồng nghiệp và đông đảo độc giả trước đây.