Có hai nhà văn nữ mà tôi đọc dồn dập 
trong một đoạn đời đọc và đời sống của mình. Người thứ nhất là Patricia 
Highsmith. Người thứ hai là Alice Munro.
Gần chục tác phẩm của Patricia Highsmith
 tôi đọc trong hai năm, từ sáu giờ rưỡi đến bảy giờ rưỡi sáng. Hàng ngày
 con trai tôi tập võ buổi sáng từ sáu giờ đến bảy giờ ở sân vận động gần
 nhà. Tôi đánh thức con, đưa đi, về chuẩn bị bữa sáng và trong khi chờ 
chàng võ sĩ hoàn thành nghi thức mở đầu một ngày rồi tắm rửa, ăn sáng và
 nhảy chân sáo đến trường, tôi có thời gian cho vài chục trang tiểu 
thuyết.
 Tôi thường kể lại những tình tiết vừa đọc và nêu thắc mắc. Chàng
 thường bình luận, mẹ đừng lo, sáng mai vào giờ này chúng ta sẽ khôn 
hơn. Cuối tuần và những ngày dưới 5 độ âm, thầy trò nhà Thiếu Lâm nghỉ, 
sách của Patricia Highsmith dừng theo. Rồi dừng hẳn, khi chàng trai vẫn 
quá bé bỏng của tôi nhất định thấy mình đủ lớn để không cần mẹ tháp 
tùng.![]()  | 
| Patricia Highsmith. | 
Khi bước ngoặt trong cuộc sống riêng của
 tôi bắt đầu hiện rõ, tôi khuân về tất cả Alice Munro tìm thấy trong thư
 viện, đặt lên chiếc gối ở phần giường bỏ trống bên trái cho nó đỡ 
phồng. Mỗi đêm một câu chuyện, toàn chuyện về đàn bà, rồi không có ai 
xoa lưng giấc ngủ cũng đến. Truyện cuối cùng của bà, tôi đọc gần sáu năm
 trước, tên trong nguyên bản là Runaway. Chiếc gối bên trái đã có chủ.
Cả hai là những người kể chuyện. Một 
người kể về những hành vi đàn ông khác thường, một người kể về những 
mảnh đời đàn bà bình thường nhất. Một người tường thuật sự thản nhiên 
của tội phạm, một người diễn tả sự ám ảnh của lỗi lầm. Một người nhìn 
sâu vào những đường nứt trong nhân cách, một người chú mục vào những ngả
 rẽ chập chờn của số phận. Một người thăng hoa thể loại truyện hình sự, 
một người đội lại cho truyện ngắn chiếc vương miện đã nhiều lần rơi.
Nếu có thể đơn giản chia các nhà văn 
thành hai trường phái, một bên dùng ngôn ngữ để miêu tả thế giới, một 
bên dùng ngôn ngữ để dựng nên thế giới, thì Alice Munro, chủ nhân giải 
Nobel năm nay, thuộc trường phái thứ nhất. Tôi nghiêng về trường phái 
thứ hai. Bà không biết phải làm gì với William Faulkner, một trong những
 tác giả tôi ngưỡng mộ. Tôi không biết phải làm gì với Carson McCullers,
 một trong những tác giả bà cảm phục. Tôi sẽ không chọn Alice Munro nếu 
bị lưu đày ra một hòn đảo vắng mà chỉ được đem theo một cuốn sách. Nhưng
 tôi mừng và biết ơn là đã đọc bà. Thế giới văn chương mênh mông, gặp 
được một người như bà là may mắn.
Bà là bậc thầy của một phong cách: phong
 cách phi phong cách, phong cách tác giả giấu mặt. Không có gì tiết lộ 
người kể chuyện, người vừa biết hết vừa không can dự và tự phi tang. Mô 
hình đối lập hoàn hảo với bà là William Gass, cũng một nhà văn Bắc Mỹ, 
năm nay 89, hơn bà 7 tuổi, người chủ trương sự hiện diện triệt để của 
tác giả như yếu tố thiêng liêng nhất của văn bản văn học. Ông coi sự 
giải thể tác giả như tín hiệu suy tàn của một uy quyền, một thế lực thần
 học, chẳng khác gì Thần Zeus bỗng bị lột sạch vũ khí sấm chớp, tuy còn 
ngự trên đỉnh Olympus nhưng ngủ trong xe thùng và đun nấu bằng bếp ga.
Tôi phải thú nhận, tác phẩm để đời, viết ròng rã 30 năm của William Gass, tiểu thuyết ngàn trang Đường hầm
 (The Tunnel), hai năm nay tôi đọc dở và hứng thú đọc tiếp ngày càng ít 
đi, mặc dù có một số điều ở đó – nói ra thì thật không công bằng – có 
thể khiến tôi đánh đổi rất nhiều trang Alice Munro cộng lại. Bà không có
 một magnum opus nào hết. Mọi truyện của bà đều không quá 40-50 trang, viết khi con ngủ, nghĩ khi gọt khoai tây. Bà viết nhỏ.
![]()  | 
| Alice Munro. | 
Văn chương, theo Paul Valéry, là nghệ 
thuật đùa với tâm hồn người khác. Có người đùa bằng sức mạnh của ngôn 
ngữ. Có người đùa bằng trí tuệ siêu phàm. Bằng kiến văn bao la. Bằng trí
 tưởng tượng rực rỡ. Bằng năng lực đi trước hoặc năng khiếu đi cùng thời
 đại. Bằng cảm xúc và cảm hứng. Bằng thủ pháp hay thủ đoạn. Bằng thử 
nghiệm hay những mớ thần kinh cách điệu… Tất cả những thứ ấy không có 
chỗ trên những trang viết nhỏ của Alice Munro. Chúng lùi hẳn ra xa, rất 
xa, để toàn bộ tâm trí chúng ta, người đọc, được tập trung vào phần cốt 
lõi không trang sức, được cuốn vào những câu chuyện mà bà kể bằng một 
giọng văn truyền thống và một ngôn ngữ hết sức giản dị. Nhiều lần đọc 
xong một truyện của bà, tôi thầm ghen tị. Phải bền bỉ, tinh tế quan sát 
cuộc đời và tôn trọng mọi khả năng hiện hữu của nó tới mức nào, phải 
từng trải và biết kiểm soát mình tới mức nào, phải tôi luyện tay nghề 
tới mức nào mới có thể kể được một câu chuyện như thế.
Hầu hết là chuyện của những người đàn bà
 trong những khoảnh khắc quyết định bước đi này hay bước đi kia của số 
phận. Hạnh phúc thì ngắn ngủi và vô định. Bất hạnh dài gấp đôi. Song với
 tất cả sự không khoan nhượng, người kể chuyện lão luyện Alice Munro 
không bỏ mặc người đọc cho bi quan. Tôi vốn rất dè chừng với cái gọi là 
chức năng nâng đỡ tâm hồn của văn chương. Nhưng thuở ấy, sau mỗi đêm đọc
 Alice Munro, sáng dậy hình như tôi đã nhìn cuộc đời đang khá vô định 
của mình điềm tĩnh hơn một chút.
 nguồn 2013 pro&contra


