Saturday, July 27, 2013

Ngô Hương Giang

  Thơ hiện hữu chống lại thơ

24.7.2013
Nhà phê bình Huỳnh Phan Anh
Nhà phê bình Huỳnh Phan Anh quan niệm: “Thơ không là kinh nghiệm. Thơ là sự chờ đợi của kinh nghiệm. Làm thơ, nói về thơ… là tìm tới kinh nghiệm thơ. Như vậy trong chính danh của lời nói, trong chính danh của thơ, người ta phải nhìn nhận một điều: Không được phép nói về thơ. Niềm im lặng của thơ biến mọi lời nói, mọi lời thuyết giảng hay chú giải về thơ thành thừa thãi, ngụy biện ngây ngô”.

   Kể từ khi được ấn hành trong tập tiểu luận “Văn chương và kinh nghiệm hư vô” (xuất bản năm 1968) đến nay, Thơ hiện hữu chống lại thơ của ông Huỳnh Phan Anh vẫn còn là nỗi ám ảnh, day dứt đối với những ai đã làm thơ, đang làm thơ, hay nuôi ý định sẽ làm thơ, và cho những ai muốn định nghĩa, cắt nghĩa về thơ. Ông Huỳnh Phan Anh cùng tiểu luận của ông đã rất đúng khi cho rằng, bất cứ ai trong chúng ta đang ra sức khẳng định thơ là thế này hay thơ là thế khác, hoặc suy tư về thơ hay, thơ dở thì cũng đều là mang thơ ra để phủ nhận chính thơ, là thơ chống thơ theo nghĩa bản chất. Ứng với suy tư ấy của ông Huỳnh Phan Anh trong thực tiễn phê bình thơ ngày hôm nay, ta thấy, mọi sự phân định thơ dở thơ hay, thơ ngoại biên hay thơ trung tâm, thơ “rác” hay thơ “linh thiêng” đều là những cách thức suy diễn chống lại bản chất của thơ. Bởi vì “thơ” là miền im lặng, và cũng là vì, thi sĩ khi làm thơ thường không định nghĩa thơ phải thế này hay thơ phải thế kia.
  
  Thơ cũng như người làm ra nó là một cõi im lặng và hồn nhiên với chính nó. Nó hướng về hiện hữu để hỏi và chiêm nghiệm về hiện hữu, chứ không phải là hướng về hiện hữu rồi quay trở lại nghi vấn về sự tồn tại của mình. Người thơ cất bút làm thơ như một thoáng nghiệm sinh, phiêu lưu cùng hiện hữu, để hiện hữu ấy qua thơ có thể tự lý giải về sự có mặt của mình trong cõi đời. Do đó cách tốt nhất để chúng ta hỏi về thơ là hãy im lặng trước thơ, để nó tự trôi chảy theo ý nghĩ và tuôn trào theo con tim đến với cuộc đời nhiều đau khổ; hướng con người tới sự xoa dịu êm ái của ngôn từ như ông Huỳnh Phan Anh từng thông điệp tới các thi sĩ và thế giới thơ của họ, rằng, “đừng tìm những cuộc hóa thân đâu xa xôi. Hãy nhìn trở lại con người, và bắt đầu bằng cái nhìn nó gửi lên sự vật, những cảm xúc của nó, những mơ mộng của nó, những niềm tin của nó, để thấy sự thay đổi cả một thời đại. Có thể chúng ta bi thảm vì, nói một cách đơn giản, chúng ta đã đánh mất thơ ngây. Và bi thảm hơn, chúng ta không thấy điều đó” (Huỳnh Phan Anh - Thơ hiện hữu chống lại thơ).

  Nếu như trong phần 1 của tiểu luận Thơ hiện hữu chống lại thơ, ông Huỳnh Phan Anh đã chỉ ra đặc trưng mơ mộng từ căn tính thơ, rằng, thơ là một hiện hữu không thể cắt nghĩa, không thể khái niệm và không thể ban bố thang bậc xác định thế nào là thơ, thì tới phần 2 của tiểu luận, tác giả của nó đặt thơ vào một vị trí chơi chữ nửa như bông đùa nửa như mời gọi những nhà phê bình thơ nóng tính hạ bút phê phán mình.

  Thơ có chân lý không? Một câu hỏi đau đầu cho những nhà bình luận. Câu hỏi ấy đặt ra có nguy cơ lật nhào những quy ước “thang bậc lý luận” cho các ý niệm thơ hay, thơ dở. Và bởi vì thơ là một hiện hữu im lặng, cho nên ngôn ngữ dẫu có trác tuyệt, diệu vợi như thế nào thì nó cũng không thể giải phóng tuyệt đối bản chất mơ mộng, phiêu bồng của tâm hồn người làm ra nó. Cũng bởi lẽ, ngôn ngữ là phúng dụ của nghĩa, nó mang bản chất siêu hình học như cuộc vượt biên, trốn chạy đầy mơ hồ trước thực tiễn sống của thi nhân, cho nên mọi chân lý đặt ra với thơ cũng đều là hành động chống lại chân lý thơ. Ông Huỳnh Phan Anh với kinh nghiệm phản tư triết học đã đặt thơ vào tình thế chống lại những nhà phê bình thơ, chống lại thói quen thẩm định thơ cảm tính, chống lại một hệ thống giáo điều thơ theo kiểu luân lý, thơ hay phải thế này, thơ hay phải thế kia.

  Thơ cũng giống như người làm thơ chẳng thể nào chỉ gói gọn tâm hồn mình trong sự nghèo nàn của ngôn ngữ cộng đồng, nó vượt thoát những giới hạn luật lệ khiến thi nhân phải ngột thở, để oằn mình vươn tới cái khác, cái bên ngoài, cái phóng khoáng của tưởng tượng. Người thơ với tâm hồn thơ phiêu bồng, khi thì cưỡi trăng, lúc thì hạ thủy, đêm xuống bầu bạn cùng mây gió, chẳng thể đậu yên một chỗ như con thuyền trước bóng thì làm gì có chân lý chuẩn mực của thơ. Chân lý của thơ là sự im lặng. Cõi lòng thi nhân là cõi lòng không thể dàn trải trong giới hạn của ngôn ngữ. Ngôn ngữ thơ chỉ là cái cớ để những tâm hồn đồng điệu sát lại gần nhau trong sự im lặng bất tận của tâm hồn. Sự im lặng ấy sẽ đốt cháy tâm thức của họ thành cuộc phản kháng chống lại hiện hữu theo nghĩa mời gọi, rủ rê những ngọn lửa khác bên ngoài đang đi tìm “bóng lửa” của mình. Cuộc đoàn viên, tụ họp của những bóng lửa ấy sẽ mở ra viễn tượng bùng cháy bất tận của ngọn lửa thơ, sẵn sàng thiêu đốt mọi giới hạn, mọi quy tắc áp đặt lên bản chất phóng khoáng, tự do của thơ và người thơ: “lời nói thơ, ngôn ngữ thơ, là bí ẩn là bóng tối, nó chỉ hứa hẹn, mời gọi mà không bao giờ là sự thật nền tảng, chân lý sau cùng, vật thể đích thực. Cho nên thơ không khẳng định cái ở đó. Thơ khẳng định cái ở ngoài, ngoài lời nói, ngoài ngôn ngữ. Cho nên sự khẳng định thơ không quá rõ ràng, sáng sủa cố định như một mệnh đề luân lý hay một phương trình toán học” (Huỳnh Phan Anh - Thơ hiện hữu chống lại thơ).

  Qua phần 1 và phần 2 của Thơ hiện hữu chống lại thơ, chúng ta thấy, cốt tủy trong lý luận của ông Huỳnh Phan Anh nằm ở “cái im lặng” của thơ, từ sự khai minh ý nghĩa của việc nên định nghĩa về thơ (Câu hỏi về thơ - phần 1) như thế nào?, cho đến Khẳng định của thơ (phần 2) là một sự vận động tĩnh lặng trong cái cõi thơ siêu việt. Giờ đây, trong phần 3 này, ông Huỳnh Phan Anh không chỉ dừng lại ở việc chiêm ngưỡng, nghi vấn, khẳng định cái cõi im lặng ấy, mà còn là cảm giác vượt thoát khỏi chính ý niệm về sự im lặng. Một sự im lặng dường như tuyệt đối trước thể tính của thơ. Và cũng có lẽ vì, khởi thủy của thơ vốn là một miền im lặng thuộc về cõi riêng của thi sĩ, cho nên mọi sự bàn luận về thơ từ ngàn năm nay của loài người đều là những cách thức chống lại cái nguyên khởi mơ mộng ấy của thơ, là chống lại vận mệnh thơ, chống lại sự hiện hữu của thơ và người thơ.

   Và có lẽ chính vì thơ là một cõi siêu việt không thể giải quyết được bằng lời, cho nên, chân lý của thơ là chân lý của suy niệm và cảm nghiệm hơn là giải thích và chứng minh. Và vì bản thân thi nhân khi Hắn khai mở ý niệm về thơ thì cũng là lúc Hắn tự đẩy mình vào những giới hạn của thơ, bởi lẽ, mọi ý niệm đều là những cách thức mô tả dựa trên các biểu tượng có giới hạn chứ không phải là một cuộc chuyển động toàn diện về tâm thức.
Thơ trong quan niệm của ông Huỳnh Phan Anh, theo đó không phải là kết quả của kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn sống trải, mà là một dự phóng đón đầu và chỉ đạo kinh nghiệm sống trải của thi nhân - điều mà ông gọi là “sự chờ đợi của kinh nghiệm”. Vì vậy mà, đa phần thi nhân đều là những người sống không theo quy luật thường nghiệm. Họ có chút lập dị của kẻ coi thế giới hữu hình chỉ là cõi tạm, mơ mộng, phiêu bồng, lấy trăng mây gió núi làm bạn đường. Tư tưởng của họ là tư tưởng của một kẻ không tuân theo bất cứ tư tưởng nào, lối sống của họ là lối sống của kẻ không theo thước đo chuẩn mực. Cách nghĩ, cách làm của họ không phục vụ hay làm vui lòng bất cứ ai hoặc bất cứ giai tầng xã hội nào. Có lẽ vì họ là những người tự sáng tạo ra lối sống của mình, tự mình làm nên kinh nghiệm sống và tự mình gánh vác các chuẩn mực do mình đề ra, thế nên, thơ là cõi lặng của chỉ riêng thi sĩ làm ra nó. Nó không lẫn, không hòa, không trộn vào làm một với bất cứ thi phẩm nào và của bất cứ thi nhân nào bên ngoài nó. Nó là miền im lặng của chính nó và của người làm ra nó, đúng như ông Huỳnh Phan Anh quan niệm: “Thơ không là kinh nghiệm. Thơ là sự chờ đợi của kinh nghiệm. Làm thơ, nói về thơ… là tìm tới kinh nghiệm thơ. Như vậy trong chính danh của lời nói, trong chính danh của thơ, người ta phải nhìn nhận một điều: Không được phép nói về thơ. Niềm im lặng của thơ biến mọi lời nói, mọi lời thuyết giảng hay chú giải về thơ thành thừa thãi, ngụy biện ngây ngô” (Huỳnh Phan Anh - Thơ hiện hữu chống lại thơ).
____________
Trích dẫn từ nguồn: Huỳnh Phan Anh, Văn chương và kinh nghiệm hư vô, Hoàng Đông Phương xuất bản, Sài Gòn, 1968, tr.93-115.

No comments: