Hồi chúng tôi cùng học Đại học Sư
phạm, sinh viên gần như là bắt buộc trăm phần trăm phải ở nội trú, nhưng không hiểu sao Văn vẫn xin được đặc cách ở ngoài cùng gia đình, hàng ngày dong xe vào trường. Ở Hà
Nội những năm ấy, một chiếc xe đạp còn là rất quý, cả cuộc đời cán bộ nhà nước
nhiều khi rút lại chỉ thấy treo trước mắt cái ước mơ là được mua cung cấp với
giá rẻ một chiếc xe Thống Nhất. Vậy mà Văn đã sớm xoay đâu được một chiếc xe đạp rất thô. Nhìn Văn ngồi xe thật buồn cười:
Không chút mặc cảm rằng mình đang ngự trên một chiếc xe cà tèng thảm hại, mặt
anh thường vẫn cứ ánh lên một thứ vênh vênh không hề đáng ghét mà là đáng yêu
lạ. Và Văn cười, nét cười còn hơi trẻ con, dường như muốn nói với cả bọn:
“Chúng mày trông tao có oách không?”.
Về sau, gặp lại nhau trong nghề làm
văn làm báo, có khi mỗi tuần ngồi với nhau vài buổi ở căn nhà 330 Khâm Thiên
của Văn hoặc kéo về căn gác trên phố Phan Bội Châu của Lâm Quang Ngọc, cùng với
những Trần Hoàng Bách, Trần Cương, Nguyễn Vĩnh, Nguyễn Lâm tức Lâm “râu” đôi
khi có cả Đỗ Chu, Lưu Quang Vũ…, cái cảm tưởng nhìn Văn đi xe đạp hôm trước
càng đậm lên trong tôi. Nghĩa là
Văn cũng có chút vênh vênh đáng yêu như vậy: “Ồ, các con trời cứ chờ đấy, tao
sẽ ra tay!”. Cái câu tuyên bố xanh rờn ấy của Văn không nhằm răn đe ai, cũng
chẳng phải một thứ kiêu ngạo gì, chẳng qua là một kiểu tự động viên mình. Viết
lách là chuyện khó. Nhưng đừng có hù doạ tôi! Trong nghề này, mỗi người có cái
duyên riêng của mình, không ai thay thế được ai. Vậy thì, cứ chờ đấy, các anh
sẽ được xem tôi lật con bài của tôi, hay dở tôi chịu.
Rút lại, cái điều Văn muốn nói ghê
gớm như thế, mà cũng chỉ là như thế. Hãy chủ động
làm lấy số phận văn chương của mình. Ngoài ra mọi sự khiêm tốn vờ vịt chẳng
giúp được ai có tài hơn,
Hình như ông NGuyên Khải đã viết đại ý một người đến với nghề văn như thế nào thì về
sau sẽ ở lại với nghề theo kiểu như vậy.
Nhớ chuyện ngày xưa ông Nguyễn Tuân từng đã kể mình từ biệt tỉnh Thanh ra đi với tâm sự “Rồi
đời sẽ xem. Đời sẽ xem chúng tớ húc đầu vào ánh sáng. Chúng tớ là những cục
vàng mười. Chỉ có cái hòn than tây ở ngoài ấy mới thử được cục vàng mười này
thôi”
Con đường của Nghiêm Đa Văn và một
số những người bạn cùng tuổi chúng tôi những năm trước chiến tranh thì có khác.
Trước tiên phải ra khỏi Hà Nội đã rồi mới trở về thủ đô sau. Chúng tôi chấp
nhận đi đường vòng.
Lâm Quang Ngọc kể: Học xong lớp 10
(tương tự như lớp 12 về sau), Văn rủ Ngọc đi lao động ở Thái Nguyên. Bọn bất
tài mới phải vào đại học, còn tao với mày chúng ta là những ông Gooc-ki rồi chỉ
có viết thôi, Văn không úp mở gì, nói thẳng như vậy.
. Nôm na mà nói, giá anh không sinh trưởng ở thành
phố mà lớn lên từ những vùng quê xa xôi, không tỏ ra thành thạo sách vở mà thạo
cuộc sống của những người lao động thì dễ được chấp nhận nhất. Đó là trường hợp của những Lê Lựu, Đỗ Chu , Phạm Tiến Duật ...
Nhưng rồi cunghx như Bùi Minh Quốc Văn với Ngọc của tôi thì về học Đại học Sư phạm và chờ ngày nhảy ra
viết lách.
“Chỉ thi chơi thôi không ôn ngày
nào, vậy mà cũng đỗ”, sau này Văn vẫn thường biện hộ cho cách sống ào ào
của mình bằng cách nhắc lại kinh nghiệm như vậy. Và người ta có thể tin được
điều này nếu biết rằng thời ấy trường Đại học Sư phạm điểm không lấy gì làm cao
bởi lúc đầu chỉ học có hai năm để đi dạy cấp ba, sau hình như thấy chất lượng
yếu quá nên mới cho học thêm một năm nữa.Cái niên học 1963-1964 đối với chúng
tôi là một thời điểm rất lạ! Chắc chắn không ai dự đoán nổi rằng ngày 5-8 Mỹ sẽ
ném bom miền Bắc và một giai đoạn lịch sử mới bắt đầu. Nhưng lòng người thì tự
nhiên đã có một chút gì nhộn nhạo. Không ai nói ra miệng nhưng giờ đây
nghĩ lại thấy không chừng đấy cũng là một lý do khiến chúng tôi hào hứng đến
với chiến tranh từ những ngày đầu.
Lệnh động viên đến với cái lớp văn III thật đúng lúc. Một tốp gồm những Phạm Tiến
Duật, Tô Hoàng, Nguyễn Đình Ánh, Vương Trí Nhàn v.v… đội mũ đeo sao lên
trấn thủ Tây Bắc
Nghiêm Đa Văn được phân công vào
dạy học ở Đức Thọ, Hà Tĩnh. Cũng đất lửa chứ có phải vừa đâu. Cái cơn cớ để lao đầu
vào viết lách ở Văn càng mạnh. Báo Văn Nghệ bắt đầu có đăng
thơ của người thày giáo trẻ. Tuyển tập thơ mang tên Sức mới ra
đời năm 1965, rồi sau đó tuyển Thơ ba năm chống Mỹ đều
lấy bài Đàn trâu Nghệ của Văn. Rồi Văn viết Ngã ba đất đỏ. Cho đến khi được gọi về làm
báo Người giáo viên nhân dân thì cái mộng văn chương của Văn càng cháy bỏng hơn bao giờ hết. Nghiêm Đa Văn là hiện thân của thứ nhất quỷ nhì ma bạt mạng: tưởng lông
bông mà không việc gì không thử làm; nhố nhăng mà lại rất tình nghĩa; chẳng
chuyên sâu vào cái gì cả nhưng hình như cái gì cũng biết và thường xuyên nhởn
nhơ cười cợt ngay trong sự tháo vát của mình.
Mới mon men vào đời và vừa võ vẽ đọc
dăm quyển sách mà dám đến với nghề văn, tức đã là loại điếc không sợ súng, tay
không lao thẳng vào văn đàn rồi – nói chung nhiều người chúng tôi có ai kém ai
về những mơ mộng hão? Song Nghiêm Đa Văn mới thật là tay tổ trong sự liều lĩnh.
Thứ nhất, tuốt tuột mọi nghề từ âm nhạc, sân khấu, tới điện ảnh, xiếc… không
việc gì đối với Văn bị coi là khu vực cấm. Văn cộng tác với nhạc sĩ Mộng Lân
làm nhạc cảnh và nhạc cảnh . Văn viết cả kịch bản phim hoạt hình và có vài ba kịch bản phim
truyện đã được in ra… Thứ hai, ngay trong khu vực chữ nghĩa, Văn cũng lăn từ
thể loại này sang thể loại khác. Làm thơ thì là chuyện tự nhiên rồi, nhưng Văn
còn viết truyện ngắn (tập Ngã ba đất đỏ) và hàng loạt tiểu thuyết
như Tầm cao năm tháng, Gió mặn…
Lâm Quang Ngọc hay ngỏ ý khâm phục: “Tao không hiểu thằng Văn nó viết vào lúc nào nữa!”. Văn đắc ý, càng cười hì hì, những ngày hè cởi trần thân hình ngồn ngộn như một phản thịt.
Ngỡ một người như thế sẽ không biết
lao tâm khổ tứ là gì, có hay đâu, với một chiếc máy chữ cọc cạch, Văn có thể lọ
mọ cả đêm viết đủ thứ, và thứ gì cũng in dấu tài hoa.
Nhưng có lẽ không ở đâu, cái võ công
“không biết mặc cảm” ở Văn lại có khả năng giải phóng một sức sáng tạo kỳ lạ
như trong lĩnh vực tiểu thuyết lịch sử. Dù không chuyên tâm khảo sát kỹ lưỡng
nhưng ai người quen bắt đầu mọi sự hiểu biết bằng sách vở hẳn cũng hiểu rằng
muốn viết được loại truyện này phải đọc thiên kinh vạn quyển. Đến nhà Văn nhìn quanh căn phòng phải nói là rộng rãi
chỉ thấy mấy cuốn sách lịch sử loại đã quá cũ vứt lổng chổng chân giường, góc
bàn và hình như tuy cũng giở ra luôn nhưng chủ nhà chưa đọc cuốn nào đến trang
chót. Đã thế, tôi còn được ngớ người ra khi nghe Văn tuyên bố một câu xanh rờn:
Viết tiểu thuyết lịch sử là dễ nhất vì tha hồ bịa. Văn đưa ra dẫn chứng: trong
khi đi hỏi thêm vài chi tiết có liên quan đến nhân vật lịch sử nọ (một người
cũng mới qua đời khoảng 1930), Văn được hai địa phương khác nhau cung cấp những
dữ kiện hoàn toàn ngược nhau. Trở về Văn mừng lắm, trong bụng chắc mẩm
rằng bịa đến mấy cũng không sợ bị ai hạch.
Theo dõi bước đi của bạn, chúng tôi
chỉ thầm bảo nhau: cũng là một cách tồn tại trong văn học.
Nên nhớ là hồi chiến tranh và những
năm sau 1975 việc in sách là nằm trong kế hoạch nhà nước, việc sử dụng giấy là
theo quy định chứ không phải ai cũng có quyền bỏ tiền in sách miễn làm đúng
luật định như sau này. Văn của chúng tôi đã bắt trúng một yêu cầu của đời sống
lúc ấy nên sách của Văn mới được in như vậy.
Một lý do nữa khiến bọn tôi dù thích
hay không cũng phải chấp nhận sáng tác của Nghiêm Đa Văn: anh đã viết đúng như
anh đã sống.
Hà Nội những năm sau 1975 đại khái vẫn như những năm
chiến tranh: Có thời gian tuần nào
chúng tôi cũng vài ba lần tụ tập với nhau ở nhà Văn hay nhà Ngọc. Để bàn về sự
viết lách. Để thông báo với nhau về vài cuốn sách mới đọc. Câu chuyện thì sang trọng hơn xưa song cái chất để dẫn chuyện thì vẫn
tầm thường lắm, chỉ có ít rượu ngang đắng ngắt với vài chục ngàn tiền lòng cho
đâu bảy tám mống cả đàn ông lẫn đàn bà. Ấy vậy mà theo tôi nhớ là chuyện
rất vui mà người thấy hể hả nhất phải kể là Nghiêm Đa Văn. Một sự dễ dãi thường
trực nơi Văn, hình như anh ăn thế nào cũng được mà ở thế nào cũng được. Hơn thế
nữa anh có cả một triết lý chỉ đạo cho sự bằng lòng cuộc sống của mình. Anh vừa
cười vừa bảo với tôi:
- Chỉ có những người anh hùng với
những thằng điên mới tính chuyện thay đổi cuộc đời. Chúng mình không phải loại
thứ nhất cũng không phải loại thứ hai, chúng mình hãy cứ sống như mình đang có!
Còn đây là chuyện lê la trên đường
của Nghiêm Đa Văn do một bạn trẻ hơn là anh Trần Đình Nam (từng có thời gian là
học trò Văn ở trường cấp III Đức Thọ) ghi lại:
“Cái quán bia phố Cổ Tân chiều hôm
ấy đông như một buổi chợ phiên. Nếu không phải dân nhậu thật khó mà hiểu được
tại làm sao hàng trăm con người lại ngồi cắm cọc trên một đoạn vỉa hè xi-măng
nóng hầm hập, mồ hôi mẹ mồ hôi con cứ ô-tô-ma-tích bò ra ướt
sũng cả quần lót áo lót, rồi ướt ra quần dài, áo sơ mi chỉ để uống vài cốc bia,
nhá vài lát ngẩu pín, nói vài câu chuyện tầm phào. Trên cái bãi
người ướt sũng bị cái nắng mùa hạ hầm cho chín nẫu ra ấy là một đám khói thuốc
lá vần vụ như một đám mây. Thầy Văn mặt đỏ mọng, cười nói oang oang như một anh
xích lô chuyên nghiệp. Thầy là con người của đám đông. Thầy mê mẩn những bãi
bia quán rượu tạm bợ, chật cứng người, những câu chuyện không đầu không cuối.
Hoà vào đám đông, thày như cá gặp nước. Sau này, ngày nào tôi cũng thấy thầy
đạp xe lêu têu ngoài phố như một gã vô công rồi nghề” (Ba lần uống rượu
với thầy Văn, bài đăng trên báo Văn nghệ Bà Rịa-Vũng Tàu).
Dân dã, tầm thường, ngầu đục bụi
bậm, bám sát vào mặt đất – cái cách ăn uống và nói chung là cách sống
của chúng tôi đã thế thì văn chương của chúng tôi như thế, có gì trái quy luật
đâu mà ngạc nhiên! So với chúng tôi, Nghiêm Đa Văn chỉ trắng trợn hơn tí chút,
bất cần hơn tí chút chứ anh cũng là sản phẩm của hoàn cảnh như tất cả chúng tôi
vậy.
Rồi sự thay đổi đã tới. Một không khí bình lặng tưởng
như đã bắt rễ vào đời sống và mãi mãi như thế hoá ra cũng có lúc bị đẩy vào quá
khứ. Đời sống là gì? Là
đường phố lúc nào cũng rồ lên tiếng xe máy. Là những mặt người sát khí đằng
đằng lao đi kiếm sống. Là những quán ăn đẹp đẽ sang trọng như nơi vui chơi của
các ông hoàng và những cửa hàng sách đủ loại best-seller dịch
vội dịch vàng bản in rất nhiều lỗi chính tả… Cái áp lực đó của đời sống cố
nhiên cũng làm cho giới viết văn của tôi xao động hẳn lên và một người nhạy cảm
như Nghiêm Đa Văn làm sao có thể ngồi yên. Từ những năm thời chiến theo dõi
sáng tác của Văn, tôi sớm nhận ra một điều: anh làm thơ ít dần, và về sau ai lường trước được.
Trước sự tấn công của kinh tế thị
trường, bao nhiêu giá trị thay đổi huống chi là giới cầm bút? Từ lúc nào không
rõ, trong đám bạn bè chúng tôi, sự khảng tảng bắt đầu xuất hiện, và tới giữa
những năm tám mươi, thì tán loạn mỗi người một phương; thậm chí có khi vẫn là
người ấy, và anh ta vẫn quanh quẩn giữa đám làm nghề, nhưng đã hoá ra “không
phải mình nữa”, tự mình mất hút ngay trong cái làng văn tưởng rất bé nhỏ này.
Người đi viết sử cho các nhà máy xí nghiệp để lấy mỗi cuốn vài chục triệu.
Người đi làm phim viết kịch với nghĩa làm hàng chiều lòng các ông chủ tỉnh nhỏ.
Người chuyên đi bình thơ nói chuyện theo giá thoả thuận… Lại có cách mất hút
với nghĩa rõ ràng hơn mất hút vào chuyện làm ăn buôn bán.
Về phần mình, Nghiêm Đa Văn cũng bắt đầu một hành trình dài dặc và rắc rối tương tự. Có hồi nghe bảo anh đang làm tham mưu, cố vấn gì đó, xách xe chạy suốt ngày để giúp việc cho một ông trùm bên điện ảnh. Lại có hồi nghe anh chuyển đi làm kinh tế, các-vi-dít đề rõ là chuyên viên thương mại, trông nom quyền lợi cho một công ty nào đó tận trong Nam. Tôi được nghe kể là trong giới âm nhạc có một nhạc sĩ sáng tác cũng giỏi mà buôn bán bất động sản cũng tài, ông đã tổng kết một cách chí lý rằng sáng tác thì thanh cao mà việc kiếm tiền thì đầy sức quyến rũ. Song trong thiên hạ may ra được một vài người văn võ song toàn như người nhạc sĩ kỳ tài ấy. Còn với số đông các nghệ sĩ, bao gồm cả giới cầm bút, tôi chỉ thường xuyên chứng kiến một sự nông nổi tưởng mình làm gì cũng được, và lúc nào cũng tự nhủ giá mà thế nọ, giá mà thế kia, chứ vào cuộc là ngã ngựa! Nghiêm Đa Văn của chúng tôi cũng không thoát khỏi ảo tưởng đó. Vốn người thông minh, nên anh nhìn đâu cũng thấy việc để làm. Khốn nỗi, chỉ giỏi bày mưu cho người khác, chứ toàn tính nhầm cho mình, tính nết lại nghệ sĩ, hay chạnh lòng, hay tự ái, hơi cảm thấy bị xúc phạm là vỗ đít đứng lên, nên việc gì rồi cũng dang dở, tay trắng vẫn hoàn tay trắng, mà loanh quanh mất dăm bảy năm như chơi. Hết bôn ba ở các tỉnh miền Nam, mấy năm cuối đời, Văn quay lại các tỉnh miền Bắc, nhưng lang bạt lên tận Lạng Sơn, Cao Bằng. Thỉnh thoảng gặp lại nhau trên đường Hà Nội, anh hiện ra trước mắt chúng tôi không còn cái vẻ non tơ hồn nhiên như hồi nào. “Trước mắt tôi không còn ông hộ pháp nói cười hỉ hả, luôn luôn tràn trề hy vọng nữa, mà là một thầy Văn khác, khí sắc thất thần, mặt sưng chảy, bàn tay đặt trên bàn bợt ra như tay người chết với những cái móng dài tím tái. Con người đăng ký hộ khẩu ngoài đường phố, con người phải lòng các bãi bia quán rượu tạm bợ ồn ào và những câu chuyện tầm phào không đầu không cuối, con người ấy đang ngồi đó bơ vơ đơn độc”. Gương mặt mà đầu những năm chín mươi Trần Đình Nam bắt gặp ở một quán rượu Hà Nội ấy cũng là gương mặt hiện ra trước mắt bọn tôi, những Ngọc, Vĩnh, Nghiệp, Hồng… của Văn hồi nào. Có thể dự đoán là chắc đang có một sự đổ vỡ trong anh thì phải. Thôi thì thời buổi kinh tế thị trường này, ai muốn làm gì thì làm, miễn dám gánh chịu lấy kết quả công việc, mà cái ý thức tự trọng ấy ở Văn có thừa, nên nhìn theo Văn, những người quen cũ chỉ còn biết kính trọng pha chút ái ngại.
Về phần mình, Nghiêm Đa Văn cũng bắt đầu một hành trình dài dặc và rắc rối tương tự. Có hồi nghe bảo anh đang làm tham mưu, cố vấn gì đó, xách xe chạy suốt ngày để giúp việc cho một ông trùm bên điện ảnh. Lại có hồi nghe anh chuyển đi làm kinh tế, các-vi-dít đề rõ là chuyên viên thương mại, trông nom quyền lợi cho một công ty nào đó tận trong Nam. Tôi được nghe kể là trong giới âm nhạc có một nhạc sĩ sáng tác cũng giỏi mà buôn bán bất động sản cũng tài, ông đã tổng kết một cách chí lý rằng sáng tác thì thanh cao mà việc kiếm tiền thì đầy sức quyến rũ. Song trong thiên hạ may ra được một vài người văn võ song toàn như người nhạc sĩ kỳ tài ấy. Còn với số đông các nghệ sĩ, bao gồm cả giới cầm bút, tôi chỉ thường xuyên chứng kiến một sự nông nổi tưởng mình làm gì cũng được, và lúc nào cũng tự nhủ giá mà thế nọ, giá mà thế kia, chứ vào cuộc là ngã ngựa! Nghiêm Đa Văn của chúng tôi cũng không thoát khỏi ảo tưởng đó. Vốn người thông minh, nên anh nhìn đâu cũng thấy việc để làm. Khốn nỗi, chỉ giỏi bày mưu cho người khác, chứ toàn tính nhầm cho mình, tính nết lại nghệ sĩ, hay chạnh lòng, hay tự ái, hơi cảm thấy bị xúc phạm là vỗ đít đứng lên, nên việc gì rồi cũng dang dở, tay trắng vẫn hoàn tay trắng, mà loanh quanh mất dăm bảy năm như chơi. Hết bôn ba ở các tỉnh miền Nam, mấy năm cuối đời, Văn quay lại các tỉnh miền Bắc, nhưng lang bạt lên tận Lạng Sơn, Cao Bằng. Thỉnh thoảng gặp lại nhau trên đường Hà Nội, anh hiện ra trước mắt chúng tôi không còn cái vẻ non tơ hồn nhiên như hồi nào. “Trước mắt tôi không còn ông hộ pháp nói cười hỉ hả, luôn luôn tràn trề hy vọng nữa, mà là một thầy Văn khác, khí sắc thất thần, mặt sưng chảy, bàn tay đặt trên bàn bợt ra như tay người chết với những cái móng dài tím tái. Con người đăng ký hộ khẩu ngoài đường phố, con người phải lòng các bãi bia quán rượu tạm bợ ồn ào và những câu chuyện tầm phào không đầu không cuối, con người ấy đang ngồi đó bơ vơ đơn độc”. Gương mặt mà đầu những năm chín mươi Trần Đình Nam bắt gặp ở một quán rượu Hà Nội ấy cũng là gương mặt hiện ra trước mắt bọn tôi, những Ngọc, Vĩnh, Nghiệp, Hồng… của Văn hồi nào. Có thể dự đoán là chắc đang có một sự đổ vỡ trong anh thì phải. Thôi thì thời buổi kinh tế thị trường này, ai muốn làm gì thì làm, miễn dám gánh chịu lấy kết quả công việc, mà cái ý thức tự trọng ấy ở Văn có thừa, nên nhìn theo Văn, những người quen cũ chỉ còn biết kính trọng pha chút ái ngại.
Cuối tháng mười 1996, Văn ngã bệnh.
Thận không làm việc bình thường. Từ một nơi xa, một người mới quen chở anh thẳng về Bạch Mai, đến lúc tạm đỡ bạn bè mới
biết mà đến thăm. Sau đó, ra viện phải thuê một căn phòng ngay gần đấy để hàng
ngày vào chữa ngoại trú, vẫn cái bệnh thận chết tiệt. Song tất cả những ngày
sau đó, Văn sống trong sự đơn độc, không muốn ai biết là mình đang sống thế
nào. Cho đến rạng sáng 7-6-1997, cái chết ập đến, con người có thời béo tốt bảy
tám chục cân gì đó, giờ héo hon chỉ còn một nửa, ai nhìn cũng xót.
Không chút màu mè như nhiều đám ma đương thời, buổi chia tay Văn đơn sơ nhưng
cảm động. Giữa một ngày hè nóng nực chỉ có những người thân và một ít anh em cố kết với Văn từ xưa có mặt để vĩnh biệt người bạn xấu số.
Lần này thì mới thật là Nghiêm Đa
Văn mất hút hẳn!
Trong những ngày cuối cùng sống trên
dương gian, đã có lúc Văn có được một cái nhìn hư vô về cuộc đời mình. Người
thầy giáo ấy tâm sự với học trò cũ nay đã thành một đồng nghiệp: “Thoắt cái đã
ba mươi năm có lẻ. Hồi 64 vào khu Bốn dạy học, gia tài tao chỉ mỗi cái ba lô
đựng vài bộ áo quần, dăm cuốn sách; giờ tao cũng chỉ có dăm cuốn sách vài bộ áo
quần và cái ba lô. Ngày trước chúng mày gọi tao là thầy. Bây giờ chính tao cũng
không biết gọi tao là gì nữa. Nhà văn, nhà biên kịch, người chào hàng, nhà doanh nghiệp cố vấn… Loanh quanh một vòng giờ lại quay về
nơi xuất phát”.
Tôi không
trực tiếp được nghe những lời bộc bạch ấy của Văn nhưng tôi tin anh đã nghĩ như
thế. Cuộc đời anh có nhàu nát xẹo xọ thật, nhưng suy cho cùng so với cuộc đời
nhiều người chúng tôi chỉ một bên phô ra tanh bành, một bên đắp điếm che giấu
chứ thực ra đâu có khác gì nhiều. Dẫu sao thì đây cũng là một con người dám
nhìn thẳng vào kiếp sống của mình ngay cả khi biết chắc rằng nó không ra sao.
Hơn thế nữa anh còn tính chuyện thay đổi, anh không muốn nó truồi đi giống mọi
người, cái ý hướng chống chọi lại số phận ấy đáng quý lắm chứ.
Gia đình phát hiện rằng người quá cố
để lại cả mấy bao tải những bản thảo chưa hoàn thành: Đúng là sự nghiệp văn
chương của Văn rất nhiều dang dở. Nhưng ở một người lúc nào cũng đầy ắp những ý
đồ làm việc thì cái chết nào chẳng là sự dang dở?!
Mấy hôm sau khi Nghiêm Đa Văn qua
đời, đôi lúc tôi cứ nghĩ vớ vẩn: giá kể… Vâng, giá kể Văn
cứ yên tâm viết lách nhì nhằng như bọn tôi thì có kém ai! Khai thác cho hết cái
oai của nghề làm báo, chạy rông ở hành lang các cuộc họp, cùng nữa đến xí
nghiệp nọ công ty kia vỗ vai mấy ông giám đốc nửa ngửa tay xin nửa bắt buộc
người ta phải cho…, những việc ấy có gì là khó với Văn và đâu phải là chuyện
Văn chưa từng làm. Sau mấy chục năm lập nghiệp vất vả giờ đến kỳ thu hoạch,
cứ trì một chút là được! Rồi biết đâu chả có lúc thiên hạ lại
đồn ầm lên là cái anh chàng Văn bát nháo ấy cũng đang xây nhà rồi, ồ, có thể
thế lắm chứ, với Văn điều gì chả có thể xảy ra!
Song hình như tất cả những giá
kể ấy là ngược với tính cách của người đã khuất. Trong sự thường xuyên
thích ứng với đời, trong Văn vẫn đau đáu một niềm tin: tất cả có thể làm
khác, và văn chương nếu rất thích hợp với tuổi trẻ thì cuối cùng vẫn không phải
là cái lối thoát duy nhất của một người có tâm huyết.
Lại nhớ có lần Văn đã kể với tôi một
cách nghiêm chỉnh:
- Chính ra các cụ đặt tên cho tao là
Nghiêm Văn Đa. Nhưng tao không thích, đến lúc đi học phải làm khai sinh, mới
đảo ngược lại là Nghiêm Đa Văn. Chả phải mê văn chương gì đâu, mà chỉ đảo ngược
cho vui. Mày xem, có chết ai đâu?
Thế thì còn giá kể cái
quái gì nữa, Văn nhỉ!
Vương Trí Nhàn
Vương Trí Nhàn
No comments:
Post a Comment