Linh Dị Ký là tập truyện cổ, cổ nhất
của Nhật Bản, được biên soạn bằng tiếng Hán. Cuốn sách ra đời vào khoảng đầu
thế kỷ thứ IX.
Nihonryoiki - Nhật bản Linh Dị Ký là
tập truyện kể Phật Giáo cổ nhất của Nhật Bản, nó gắn liền với các sự kiện có
thật. Nhật Bản Linh Dị Ký tương
truyền của sư Keikai chùa Yakushi tỉnh Nara. Tên đầy đủ là Nhật Bản quốc hiện báo thiện ác linh dị ký (Ghi chép những chuyện linh nghiệm,
kỳ lạ báo ứng việc thiện ác của Nhật
Bản ), tên thường gọi là Nhật Bản
Linh Dị Ký, gồm 3 quyển: Thượng, Trung, Hạ. Quyển Thượng có 35 truyện,
quyển Trung có 42 truyện, quyển Hạ có 39 truyện, cả thảy có 116 truyện, ghi
lại các truyện từ thời Thiên Hoàng Yuryaku nửa thế kỷ V tới đầu thời Thiên
Hoàng Saga đầu thế kỷ IX.
Nhà sư Keikai sinh ra trong một xã
hội bất ổn định. Cuộc đời trước mắt rối ren, nhiều xấu xa ô trọc khiến cho
những người tử tế dường như tuyệt vọng, bất lực “Nay xem người làm việc thiện
hiếm như hoa nở trên núi, kẻ làm việc ác nhiều như cỏ mọc gò đồi” (Tựa, quyển
Hạ). “Vì vậy, nếu việc thiện ác không chỉ ra rõ thì lấy gì làm bằng để sửa
chữa lệch lạc và phân biệt đúng sai. Nếu không cho thấy sự quả báo, làm sao
cải tạo được ác tâm, tu hành theo đạo thiện” (Tựa, quyển Thượng). Ghi chép
những chuỵện báo ứng, cho mọi người thấy rõ thuyết nhân quả báo ứng” ác giả ác
báo, nhân giả nhân báo” là ý đồ đầu tiên của tác giả khi khi biên soạn Linh
Dị Ký.[2][2]
Linh Dị Ký
là tác phẩm nổi tiếng trong kho tàng văn học cổ điển Nhật Bản, phản ánh nhiều
mặt của nền văn hoá Nhật Bản thời trung đại. Sách được biên soạn năm thứ 6 (787),
hoàn thành năm Konin thứ 13 (822).
Linh Dị Ký là
tác phẩm đầu tiên rung cảm lòng người bởi nét hiện thực sinh động. Nó còn hấp
dẫn bởi nội dung chất phác nhưng không kém phần kỳ vĩ, kỳ ảo của các sự
tích.. Các truyện được viết ra với mục đích giáo hoá chúng dân bằng các việc
kỳ lạ từ trước đến nay, chủ yếu nói về thuyết nhân quả báo ứng và sự thiện
báo do tín ngưỡng đức Phật Quan Âm và công đức của việc tụng kinh Pháp Hoa.
Linh Dị Ký
là tác phẩm chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo, nó là sản phẩm của thời kỳ
Phật giáo và văn hoá Trung Quốc được du nhập và phát triển rực rỡ ở Nhật bản.
Các truyện kể Phật giáo Trung Quốc như Minh
báo ký, Kim cương bát nhã tập truyện ký, tác phẩm chí quái Trung Quốc đời Tấn như Sưu thần ký, các tác phẩm truyền kỳ
đời Đường nổi tiếng như Nhâm Thị Truyện...được lưu hành rộng
rãi ở Nhật bản thời bấy giờ đã có ảnh hưởng lớn đến Linh Dị Ký.
Linh Dị Ký là tác phẩm đầu tiên rung cảm lòng người bởi nét hiện thực
sinh động. Nó còn hấp dẫn bởi nội dung chất phác nhưng không kém phần kỳ vĩ,
kỳ ảo của các sự tích. Tác giả Linh Dị
Ký còn sử dụng nhiều mô típ có tính khuôn mẫu đã được định hình trong
truyện kể dân gian không chỉ riêng của Nhật Bản mà chung của thế giới như: Mô
típ về sự sinh nở kỳ lạ; sự hoá thân từ người sang vật; những nhân vật có khả
năng kỳ diệu, hôn nhân giữa người và động vật; những nhân vật xấu xí mà tài
ba...[3][3]
2. So sánh những típ và mô típ chính
trong Linh Dị Ký và truyện cổ Việt
Nam:
Khảo
sát tác phẩm Linh Dị Ký có thể dễ
dàng nhận ra nét chung với truyện cổ của Việt Nam qua những típ truyện: típ
truyện về Sự hiện báo (Tấm Cám; Hai anh em ); típ truyện về Người đội
lốt (truyện Sọ Dừa; truyện Nàng Tiên Trứng; truyện Chàng Rùa...), và mô típ: mô típ Cái
thiện được ban thưởng (Cô gái nghèo- Sự
tích con khỉ); mô típ Cái ác bị trừng phạt (Người anh- Hai anh em ); mô típ sinh nở kỳ lạ
(Lạc Long quân, Thánh gióng- Lĩnh Nam
chích quái liệt truyện); mô típ
nhân vật xấu xí mà tài ba (Người kỳ dị- Sơn
cư tạp thuật); mô típ sống lại sau khi xuống âm phủ (Thủ Huồn- Sự tích ông Thủ Huồn).; mô típ sự giúp
đỡ của các thế lực siêu nhiên (Quạ thần - Cây
khế, Hai cây khế ); Mô típ cái thiện được ban thưởng (Cô gái nghèo - Sự tích con khỉ); Mô típ cái ác bị
trừng phạt (Người anh- Hai anh em
của dân tộc Khơ mú)...
Trong
bản báo cáo này, chúng tôi muốn so sánh những típ và mô típ tiêu biểu trong Linh Dị Ký với truyện cổ Việt Nam.
Trong
Linh Dị Ký, có hai típ truyện nổi
bật, típ truyện về Sự hiện báo và
típ truyện về Người đội lốt.
Trong típ truyện về Sự hiện báo có
những mô típ: Cái thiện được ban thưởng; Cái ác bị trừng phạt; Sự giúp đỡ của các thế lực siêu nhiên...
Trong típ truyện về Người đội lốt
có những mô típ: Sinh nở thần kỳ; người đội lốt; vật phù trợ...
2.1. Típ truyện về Sự hiện báo:
cái gọi là Hiện báo (báo ứng ngay)
trong Linh Dị Ký là sự quả báo lành
hoặc dữ, không phải chờ đến kiếp sau mà ở ngay kiếp này do hành vi thiện hoặc
ác mà con người gieo ở đời. Ác giả ác báo, thiện giả thiện báo là nội dung cơ
bản trong các truyện kể của Linh Dị Ký.
Trong đầu đề truyện có tới 50% các tít có chữ “hiện báo” hoặc “được báo ơn”,
“được khỏi bệnh”, “bị quả báo ở thời hậu thế” hoặc “bị quả báo tội
chết”...Ngay trong các truyện đầu đề không có chữ hiện báo thì nội dung vẫn
ít nhiều thể hiện sự hiện báo. Thậm chí trong tên đầy đủ của tác phẩm Nhật Bản quốc hiện báo thiện ác Linh Dị
Ký. (Ghi chép những chuyện kỳ lạ,
linh nghiệm báo ứng việc thiện ác của
Nhật Bản) cũng đã nói về việc hiện báo.
Nhân
quả báo ứng là hạt nhân trong các truyện của Linh Dị Ký.
“Viên
quan huyện huyện Mitani trong đoàn quân được phái đi cứu Bách Tế cầu nghuyện
đức Phật, được đức Phật phù hộ bình yên trở về. Sau khi về nước, ông mời
Thiền sư Gusai cùng về xây dựng chùa Mitani. Thiền sư Gusai còn bán gia sản
của mình lên kinh đô mua sơn son thếp vàng để tạo tượng Phật. Trên đường trở
về, đến bờ biển Naniwa ông thấy người ta bán bốn con rùa lớn bèn khuyên người
ta mua rồi thả chúng ra. Khi thuyền dừng lại ở đảo Kabane, ông bị những người
chèo thuyền vứt xuống biển, cướp mất đồ đạc. Khi rơi xuống biển ông được rùa
cứu thoát. Lại nói về bọn thuyền nhân cướp được những thứ do ông mua về bèn
mang đến bán cho chùa Mitani, gặp lại ông, chúng xấu hổ, sau được ông tha
không bắt phạt”.
Về
chuyện báo ứng ở Việt Nam, có chuyện Lê Kính nhờ làm việc thiện nên được
Thiên đình cho đỗ Tiến sĩ. “ân huệ bỏ ra không lớn mà sự báo đáp lại chóng như vậy, thật đúng như người xưa
nói: chớ bảo việc thiện nhỏ mà không làm (Nam
thiên trân dị tập, Lê kinh ký), hay Nguyễn Thị Thái lừa đứa cháu côi cút
bé dại để chiếm đoạt gia tài, kết quả bị Thiên Lôi thiêu cháy cả quần áo,
được ít lâu thì chết (Sơn cư tạp thuật,
Tham báo)[4][4]...
Truyện
25, quyển Trung, có truyện “Chuyện quỷ sứ cung Diêm Ma Vương báo đền ơn được mời cơm”, kể
chuyện cô gái ở huyện Yamada tỉnh Sanuki tên là Kinume bỗng bị bệnh nặng.đẻ
khỏi bệnh cô đã làm cơm cúng thết thần dịch bệnh và được lính quỷ sứ ở cung
Diêm Ma Vương tha không bắt.để thay cô, quỷ sứ đã bắt cô gái cùng họ tên ở
huyện Utari nhưng Diêm ma Vương không nghe. Lính quỷ sư đành bắt cô Kinume
huyện huyện amada đưa xuống âm phủ. Cô Kinume
huyện Utari được sống trở về nhưng sau ba ngày ở nhà đã thiêu xác cô.
Không còn nơi trú ngụ cô bèn nhập vào xác của Kunume huyện Yamada theo lệnh
chỉ của Diêm Ma Vương và trở thành cô Kinume huyện Yamada. Khi tỉnh lại, cô
không nhận lại cha mẹ và một mực cho rằng nhà cô ở huyện Utari. Khi về nhà ở
Utari cha mẹ cô không nhận cô và nói rằng con gái của họ đã mất.Sau khi nghe
cô thuật lại lệnh chỉ của Diêm Ma Vương, cả hai bên cha mẹ đều bằng lòng nhận
cô và chia tài sản cho cô.
Câu
truyện này giống truyện Công dư tiệp ký
của Vũ Phương Đề, có truyện Truyện Đế
Thích phụ chép truyện Trương Ba của
Việt Nam.
Chúng
ta có thể thấy cả hai truyện đều cùng một típ truyện báo ứng.
Do cùng chịu ảnh hưởng của văn hoá
Hán, Linh Dị Ký đã có mối liên quan
về đề tài cốt truyện với Công dư tiệp ký. Công dư tiệp ký ra đời vào
thế kỷ 18, sau Linh Dị Ký gần 10 thế kỷ, vào thời kỳ văn học chữ Hán phát
triển rực rỡ, với ngòi bút tài năng của Vũ Phương Đề đã trở thành một trong
những tác phẩm nổi tiếng trong kho tàng văn học Việt Nam đương thời.
2.2. Típ truyện Người
đội lốt xấu xí trong Linh Dị Ký
Trong
kho tàng truyện cổ thế giới nói chung, truyện Linh Dị Ký của Nhật Bản và
truyện cổ Việt Nam nói riêng, những truyện kể về Người đội lốt dưới hình dạng các con vật hoặc người xấu
xí, dị dạng đặc biệt phổ biến. Trong típ truyện này có thể thấy một số các mô
típ giống nhau giữa Linh Dị Ký và truyện cổ Việt Nam.
2.2.1. Mô típ sinh nở thần kỳ:
Đây
là mô típ khá phổ biến trong truyện kể dân gian các nước và mang đặc trưng thể loại.
Truyện
19, quyển Hạ bắt đầu bằng sự sinh nở kỳ lạ: “Vợ của Toyobuku no Hirogimi,
ngày rằm tháng Một, mùa Đông năm Tân Hợi, niên hiệu Hoki thứ 2 (771) sinh ra
một cục thịt. Cục thịt giống như quả trứng chim. Ông bà cho là điềm chẳng
lành bèn cho vào rọ tre, giấu vào hòn đá ở trong núi. Bảy ngày sau trở lại,
xem thì vỏ ngoài bọc thịt đã vỡ, sinh ra cô con gái. Ông bà bèn bế đứa trẻ về
nhà cho bú sữa và chăm sóc hết mực. Mới qua tám tháng cô bé lớn phổng lên.
đầu sát với thân, không có cổ. Sinh ra đã là người thông minh, chưa được bảy
tuổi đã đọc được kinh Pháp Hoa và
kinh Bát thập hoa nghiêm...”
(Truyện Người con gái sinh ra từ cục
thịt, tu hành phật Pháp giáo hoá chúng dân).[5][5]
Truyện
31, quyển Hạ cũng nói về sự sinh nở kỳ lạ: “ở thôn Kusumi, làng Mizuno, huyện
Katakata, tỉnh Mino có một người con gái họ Agata đã hơn hai mươi tuổi vẫn
chưa lấy chồng, cũng chẳng đi lại với người đàn ông nào vậy mà có thai. Được
ba năm, vào hạ tuần tháng Hai, năm Quý Hợi niên hiệu Enryaku(Diên lịch) đầu
(782), thời Thiên Hoàng Kanmu, sinh ra hai hòn đá. Mỗi hòn to chừng năm tấc
vuông. Hòn lốm đốm trắng xanh, hòn màu xanh tuyền. Hai hòn đá mỗi năm một
lớn. Lại nói, huyện kề bên là huyện Atsumi, ở trong huyện đó có vị thần gọi
tên là Inaba, nhờ người lên đồng xem bói nói rằng: “Hai hòn đá là con của
ta”. Nhân đấy lập bàn thờ cúng tế ở nhà cô gái. “[6][6]
Tác
giả dân gian đã sử dụng mô típ sự sinh nở thần kỳ với ý tưởng đem đến cho
nhân vật một nguồn gốc thần linh, nhằm làm thay đổi thân phận “thấp hèn “của
nhân vật, mở ra một tương lai tốt đẹp bởi những khả năng tiềm ẩn, chứa trong
con người có nguồn gốc thần kỳ đó.
Mô
típ Sự sinh nở thần kỳ trong Linh Dị Ký và trong truyện cổ Việt Nam
có chung ý nghĩa: đó là sự ra đời của nhân vật với nguồn gốc thần linh mang ý
nghĩa tự khẳng định một khả năng khác thường, dự cảm rằng ở trong đó có một
nguồn sức mạnh kỳ lạ để xoá đi sự nghèo đói và sự bị khinh rẻ.
Ngay
sau mô típ Sự sinh nở thần kỳ, nhân
vật ra đời không phải là những đứa trẻ bình thường mà mang một vẻ ngoài xấu
xí, hoặc dưới hình thức các con vật.
2.2.2. Mô típ Người
đội lốt xấu xí trong Linh Dị Ký
thể hiện ở các hình thức: người mang lốt quả trứng, cục thịt, hòn đá...
Mô
típ nhân vật xấu xí mà tài ba có thể thấy trong Thiền uyển tập anh .. Thiền sư Ngộ Ấn thông tuệ tài ba nhưng lại
xấu xí tới mức bà mẹ” lấy làm ghét đem bỏ vào rừng” cũng giống với Ni cô Saruhijiri trong truyện 19, quyển Hạ của
Linh Dị Ký.
Trong
truyện cổ Việt Nam, mô típ Sự sinh nở thần kỳ và mô típ Người mang lốt được
thể hiện ở các hình thức: Cục thịt, bọc thịt “Một cục thịt tròn lông lốc như
hình cái sọ, có mắt mũi, mồm nhưng không có chân tay” (truyện Sọ Dừa ); quả trứng (truyện
Nàng tiên Trứng); các con vật: con cóc (truyện Chàng Cóc), con Rắn (truyện
Chàng Rắn), con rùa (truyện Chàng
Rùa)...
Qua
các hình thức thể hiện khác nhau của “Người
đội lốt”, chúng ta thấy rằng mỗi tộc người, mỗi dân tộc đã nảy sinh, đã
lựa chọn cái “lốt” khác nhau theo một môi trường liên tưởng nhất định gắn với
điều kiện môi sinh.
Cái ý tưởng của tác giả dân gian
khi cho nhân vật có nguồn gốc thần linh là thể hiện cái lốt xấu xí tưởng như
không tốt đẹp nhưng khi nhân vật đã bộc lộ đầy đủ tài năng và phẩm chất của
con người trong cái lốt xấu xí đó thì thực là cao đẹp, thực sự có sức mạnh
chinh phục của một thủ pháp nghệ thuật dân gian, đã đưa đến cách đánh giá
đúng đắn, chính xác về nhân vật “thấp
hèn” và “chính là nòng cốt, cái hạt
nhân tạo nên kiểu truyện Người đội lốt vật phổ biến trên thế giới[7][7]
3. Sự tương đồng và dị biệt của
Linh dị ký và truyện cổ Việt Nam:
Xét
về nguồn gốc nội tại, có thể thấy rằng: Nhật Bản và Việt Nam đều chịu ảnh hưởng của hai nền văn minh
Trung quốc và Ấn Độ. Khi chữ Hán chính
thức được coi là công cụ ghi chép, ở Việt Nam đã hình thành dòng văn học viết
bằng chữ Hán. Sự ra đời của nó là kết quả của sự hối thúc từ bên trong do sự
vận động nội tại của bản thân nền học thuật chữ Hán Việt Nam sinh ra, cùng
với sự giao lưu văn hoá văn học mang lại.
Cùng
với sự ra đời và phát triển của văn hoá dân tộc, truyện cổ dân gian của Việt
Nam cũng xuất hiện theo.
Xét
về mặt giao lưu văn học, truyện thần kỳ, truyền kỳ của Việt Nam đã tiếp thu
và chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết chí quái, truyền kỳ của Trung quốc.
Do
bắt nguồn từ truyện cổ dân gian, lại chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết truyền kỳ
và truyện kể Phật giáo Trung Quốc, Linh Dị ký mặc dù không có sự giao lưu
trực tiếp với các tác phẩm văn học của Việt Nam nhưng sự lưu thông giữa các
mô típ và sự hoán cải các mô típ và cốt truyện trong Linh Dị Ký có những nét
tương tự như ở Việt Nam.
3.1. Sự tương đồng:
3.1.1. Tương đồng về cốt
truyện:
Trong
truyện kể truyền miệng dân gian, cốt truyện có vai trò rất quan trọng, có
chức năng phản ánh hiện thực đời sống xã hội bằng hình tượng nghệ thuật nhưng
theo đặc trưng riêng của folklore.Truyện cổ của Nhật Bản và Việt Nam cũng
tuân theo nguyên tắc đó. Các cốt truyện thường được kể theo một trục thời
gian, trong một không gian khép kín có giới hạn, theo một mạch tình tiết,
hành động, sự kiện cụ thể. Do đó chúng ta thấy các cốt truyện của hai dân tộc
có sự lặp lại của các kiểu mở đầu, kết thúc, với hàng loạt các mô típ cấu
thành, với những chi tiết tình huống truyện giống nhau. Điều đó tạo nên sự
tương đồng về cốt truyện.
Qua
so sánh Linh Dị Ký của Nhật bản với
truyện cổ Việt Nam, chúng ta thấy rõ những cốt truyện đặc trưng tương đồng.
Thí dụ như cốt truyện về Sự hiện báo, cốt truyện về Người đội lốt xấu
xí...Các cốt truyện thường giống nhau ở cái kết thúc, ở cách giải quyết vấn
đề mà truyện đặt ra. Kết thúc truyện thường có hậu, luôn thể hiện rõ quan niệm thẩm mỹ của nhân dân về cái đẹp và cái xấu, cái thiện và cái ác.
Cái thiện thường chiến thắng, được ban thưởng, còn cái ác thường phải chịu
kết cục thảm hại, bị trừng phạt.
Chúng ta còn gặp một yếu tố tương đồng nữa
trong Linh Dị Ký và truyện cổ Việt
Nam, đó là cách giải thích các hiện tượng tự nhiên. Trong truyện Chuyện kẻ tham lam bị biến thành rắn(truyện
38, quyển Trung) và truyện Sự tích con
khỉ của Việt Nam có chi tiết tên địa chủ bị biến thành con khỉ (Việt
Nam), và nhà sư biến thành con rắn (Nhật Bản), kết quả của tính tham lam độc
ác bị trừng phạt.
3.1.2. Tương đồng về nhân vật:
Qua
phân tích một số típ và mô típ trong Linh Dị Ký và truyện cổ Việt Nam, chúng
ta thấy có sự tương đồng của nhân vật.
Nhân
vật tốt bụng trong các truyện của Nhật Bản và Việt Nam đều được xây dựng
trong những típ truyện về Sự hiện báo và típ truyện về Người đội lốt xấu xí
với các mô típ xây dựng nên nhân vật giống nhau: mô típ tốt bụng- lòng tốt-
sự giúp đỡ của các thế lực siêu nhiên- cái thiện được ban thưởng. Còn nhân
vật xấu bụng với các mô típ xây dựng nên nhân vật giống nhau: mô típ sự xấu
bụng (độc ác, tham lam, xảo trá, xấu tính) - cái ác bị trừng phạt. Nhân vật
trong típ truyện Người đội lốt xấu xí của Việt Nam - Nhật bản đều mang những
nét mạnh mẽ, tài giỏi, phi thường.
Một
yếu tố tương đồng được xử dụng như một yếu tố nghệ thuật để xây dựng nên nhân
vật truyện cổ Việt Nam - Nhật bản là yếu tố kỳ diệu, siêu nhiên với sự tưởng
tượng, hư cấu hoá. các yếu tố thần kỳ được tác giả khoác thêm nhằm làm cho
truyện thêm ly kỳ hấp dẫn, nhân vật được được đề cao. Yếu tố kỳ ảo chính là sự mở đường để nhân vật bước vào
thế giới huyền diệu vốn là không gian quen thuộc của truyện cổ tích thần kỳ.
Đó là các yếu tố, cũng là các mô típ:
Sự sinh nở thần kỳ, tài năng thần kỳ, phép thuật kỳ diệu...Sự ra đời thần kỳ
làm nên sự nổi bật của nhân vật, báo trước tài năng phi thường.
Qua
một vài típ truyện kể trên, có thể thấy nhân vật trong Linh Dị Ký và truyện cổ Việt Nam được xây dựng trên cơ sở những chủ đề mang ý nghĩa đấu
tranh xã hội. Hiện thực về cuộc sống của những nhân vật đó là sự phản ánh
chân thực hiện thực cuộc sống ở những nước cùng trải qua một hình thái lịch
sử xã hội.
3.1.3. Những nét tương đồng
khác:
Do
cùng chịu ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo, Linh Dị Ký của Nhật Bản có nhiều nét tương đồng với truyện cổ
Việt Nam. Ví dụ về quan niệm cây thiêng: cây cổ thụ có đám mây lành che bóng
(Thiền uyển tập anh) với trên cây có hình đức Quan âm bồ tát (Linh Dị Ký, truyện 8, quyển Hạ).Tục
thờ cây thiêng: lấy gỗ tạc tượng Phật(Thiền
uyển tập anh) với Linh Dị Ký,
truyện 5, quyển Thượng. Tục cầu đảo: xin thần phù hộ đánh giặc (Thiền uyển tập anh) với Xin thần phù
hộ cho bình yên trở về (Linh Dị Ký,truyện
17, quyển Thượng). Mô típ thai sinh, thác sinh cũng là minh chứng cho quan
niệm luân hồi của đạo Phật, sự thác thai của Từ Đạo Hạnh làm con Sùng Hầu và
trở thành vua Lý Thần Tông (Thiền uyển
tập anh), “một ông sư, một ông lão ăn mày tái sinh vào bậc đế vương,
khiến người ta không thể hiểu nổi” (Tang
thương ngẫu lục, Thần Tông hoàng đế)
cũng tương đồng với sự thác thai chuyển hoá từ Thiền sư Zenju làm con trai
nhà vua và sau trở thành Thiên hoàng Saga (Linh Dị Ký).[8][8]
3.2. Sự dị biệt:
3.2.1.Sự dị biệt về cốt truyện
-
Một số tình tiết thay đổi, một số mô
típ khác loại tham gia vào cốt truyện, làm thay đổi nội dung, bản chất của
cốt truyện. Ví dụ trong cốt truyện về Sự hiện báo có mô típ phạt: truyện của
Việt Nam có mô típ trừng phạt tên trưởng giả xấu tính bị biến thành con khỉ;
truyện của Nhật Bản có mô típ độc ác với loài vật bị trừng phạt vơi các tình
tiết người đàn ông bị nổi mụn, lở khắp toàn thân, không có cách nào chữa
được, kêu gào cho đến lúc chết.
Do
đó, cốt truyện Sự tích con khỉ của
Việt Nam phản ánh mối quan hệ giữa con người với con người và bài học ứng xử
của con người. Còn cốt truyện Chuyện
người đàn ông không có lòng từ bi, lột da thỏ sống bị quả báo (truyện 16,
quyển Thượng) của Linh Dị Ký phản
ánh mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và bài học về cách đối xử với
loài vật.
Sự
khác nhau của một số mô típ, một số tình tiết cấu thành cốt truyện nói lên sự
khác nhau của các yếu tố văn hoá mang màu sắc của từng dân tộc, từng đất
nước.
Nhật bản là một quốc gia thống
nhất, dân tộc thống nhất. Vì thế truyện cổ Nhật Bản là sự tích hợp lý tưởng
của một dân tộc Nhật Bản thuần nhất, dựa trên các câu truyện ở các quận khác
nhau.
Còn Việt Nam là một quốc gia đa
tộc người, gồm 54 dân tộc do đó có sự giao lưu, ảnh hưởng, tiếp thu kho tàng
văn hoá của các dân tộc anh em cùng sống trên nước Việt Nam, tạo nên sự đa
dạng phong phú và những sắc thái khác nhau ở cốt truyện và nhân vật.
|
Wednesday, July 24, 2013
Vũ Tuyết Loan
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment