Wednesday, July 24, 2013

Vũ Tuyết Loan




.                         Tác phẩm Linh Dị Ký


            Linh Dị Ký là tập truyện cổ, cổ nhất của Nhật Bản, được biên soạn bằng tiếng Hán. Cuốn sách ra đời vào khoảng đầu thế kỷ thứ IX.

            Nihonryoiki - Nhật bản Linh Dị Ký là tập truyện kể Phật Giáo cổ nhất của Nhật Bản, nó gắn liền với các sự kiện có thật. Nhật Bản Linh Dị Ký tương truyền của sư Keikai chùa Yakushi tỉnh Nara. Tên đầy đủ là Nhật Bản quốc hiện báo thiện ác linh dị ký (Ghi chép những chuyện linh nghiệm, kỳ  lạ báo ứng việc thiện ác của Nhật Bản ), tên thường gọi là Nhật Bản Linh Dị Ký, gồm 3 quyển: Thượng, Trung, Hạ. Quyển Thượng có 35 truyện, quyển Trung có 42 truyện, quyển Hạ có 39 truyện, cả thảy có 116 truyện, ghi lại các truyện từ thời Thiên Hoàng Yuryaku nửa thế kỷ V tới đầu thời Thiên Hoàng Saga đầu thế kỷ IX.

Nhà sư Keikai sinh ra trong một xã hội bất ổn định. Cuộc đời trước mắt rối ren, nhiều xấu xa ô trọc khiến cho những người tử tế dường như tuyệt vọng, bất lực “Nay xem người làm việc thiện hiếm như hoa nở trên núi, kẻ làm việc ác nhiều như cỏ mọc gò đồi” (Tựa, quyển Hạ). “Vì vậy, nếu việc thiện ác không chỉ ra rõ thì lấy gì làm bằng để sửa chữa lệch lạc và phân biệt đúng sai. Nếu không cho thấy sự quả báo, làm sao cải tạo được ác tâm, tu hành theo đạo thiện” (Tựa, quyển Thượng). Ghi chép những chuỵện báo ứng, cho mọi người thấy rõ thuyết nhân quả báo ứng” ác giả ác báo, nhân giả nhân báo” là ý đồ đầu tiên của tác giả khi khi biên soạn Linh Dị Ký.[2][2]

Linh Dị Ký là tác phẩm nổi tiếng trong kho tàng văn học cổ điển Nhật Bản, phản ánh nhiều mặt của nền văn hoá Nhật Bản thời trung đại. Sách được biên soạn năm thứ 6 (787), hoàn thành năm Konin thứ 13 (822).

Linh Dị Ký là tác phẩm đầu tiên rung cảm lòng người bởi nét hiện thực sinh động. Nó còn hấp dẫn bởi nội dung chất phác nhưng không kém phần kỳ vĩ, kỳ ảo của các sự tích.. Các truyện được viết ra với mục đích giáo hoá chúng dân bằng các việc kỳ lạ từ trước đến nay, chủ yếu nói về thuyết nhân quả báo ứng và sự thiện báo do tín ngưỡng đức Phật Quan Âm và công đức của việc tụng kinh Pháp Hoa.

Linh Dị Ký là tác phẩm chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo, nó là sản phẩm của thời kỳ Phật giáo và văn hoá Trung Quốc được du nhập và phát triển rực rỡ ở Nhật bản. Các truyện kể Phật giáo Trung Quốc như Minh báo ký, Kim cương bát nhã tập truyện ký, tác phẩm chí quái Trung Quốc đời Tấn như Sưu thần ký, các tác phẩm truyền kỳ đời Đường nổi tiếng như Nhâm Thị Truyện...được lưu hành rộng rãi ở Nhật bản thời bấy giờ đã có ảnh hưởng lớn đến Linh Dị Ký.

            Linh Dị Ký là tác phẩm đầu tiên rung cảm lòng người bởi nét hiện thực sinh động. Nó còn hấp dẫn bởi nội dung chất phác nhưng không kém phần kỳ vĩ, kỳ ảo của các sự tích. Tác giả Linh Dị Ký còn sử dụng nhiều mô típ có tính khuôn mẫu đã được định hình trong truyện kể dân gian không chỉ riêng của Nhật Bản mà chung của thế giới như: Mô típ về sự sinh nở kỳ lạ; sự hoá thân từ người sang vật; những nhân vật có khả năng kỳ diệu, hôn nhân giữa người và động vật; những nhân vật xấu xí mà tài ba...[3][3]



2.  So sánh những típ và mô típ chính trong  Linh Dị Ký và truyện cổ Việt Nam:

            Khảo sát tác phẩm Linh Dị Ký có thể dễ dàng nhận ra nét chung với truyện cổ của Việt Nam qua những típ truyện: típ truyện về Sự hiện báo (Tấm Cám; Hai anh em ); típ truyện về Người đội lốt (truyện Sọ Dừa; truyện Nàng Tiên Trứng; truyện Chàng Rùa...), và mô típ: mô típ Cái thiện được ban thưởng (Cô gái nghèo- Sự tích con khỉ); mô típ Cái ác bị trừng phạt (Người anh- Hai anh em ); mô típ sinh nở kỳ lạ (Lạc Long quân, Thánh gióng- Lĩnh Nam chích quái liệt truyện);  mô típ nhân vật xấu xí mà tài ba (Người kỳ dị- Sơn cư tạp thuật); mô típ sống lại sau khi xuống âm phủ (Thủ Huồn- Sự tích ông Thủ Huồn).; mô típ sự giúp đỡ của các thế lực siêu nhiên (Quạ thần - Cây khế, Hai cây khế ); Mô típ cái thiện được ban thưởng (Cô gái nghèo - Sự tích con khỉ); Mô típ cái ác bị trừng phạt (Người anh- Hai anh em của dân tộc Khơ mú)...

            Trong bản báo cáo này, chúng tôi muốn so sánh những típ và mô típ tiêu biểu trong Linh Dị Ký với truyện cổ Việt Nam.

            Trong Linh Dị Ký, có hai típ truyện nổi bật, típ truyện về Sự hiện báo và típ truyện về Người đội lốt.

Trong típ truyện về Sự hiện báo có những mô típ: Cái thiện được ban thưởng; Cái ác bị trừng phạt;  Sự giúp đỡ của các thế lực siêu nhiên...

Trong típ truyện về Người đội lốt có những mô típ: Sinh nở thần kỳ; người đội lốt; vật phù trợ...       

2.1. Típ truyện về Sự hiện báo: cái gọi là Hiện báo (báo ứng ngay) trong Linh Dị Ký là sự quả báo lành hoặc dữ, không phải chờ đến kiếp sau mà ở ngay kiếp này do hành vi thiện hoặc ác mà con người gieo ở đời. Ác giả ác báo, thiện giả thiện báo là nội dung cơ bản trong các truyện kể của Linh Dị Ký. Trong đầu đề truyện có tới 50% các tít có chữ “hiện báo” hoặc “được báo ơn”, “được khỏi bệnh”, “bị quả báo ở thời hậu thế” hoặc “bị quả báo tội chết”...Ngay trong các truyện đầu đề không có chữ hiện báo thì nội dung vẫn ít nhiều thể hiện sự hiện báo. Thậm chí trong tên đầy đủ của tác phẩm Nhật Bản quốc hiện báo thiện ác Linh Dị Ký.  (Ghi chép những chuyện kỳ lạ, linh nghiệm báo ứng  việc thiện ác của Nhật Bản) cũng đã nói về việc hiện báo.

            Nhân quả báo ứng là hạt nhân trong các truyện của Linh Dị Ký.

            “Viên quan huyện huyện Mitani trong đoàn quân được phái đi cứu Bách Tế cầu nghuyện đức Phật, được đức Phật phù hộ bình yên trở về. Sau khi về nước, ông mời Thiền sư Gusai cùng về xây dựng chùa Mitani. Thiền sư Gusai còn bán gia sản của mình lên kinh đô mua sơn son thếp vàng để tạo tượng Phật. Trên đường trở về, đến bờ biển Naniwa ông thấy người ta bán bốn con rùa lớn bèn khuyên người ta mua rồi thả chúng ra. Khi thuyền dừng lại ở đảo Kabane, ông bị những người chèo thuyền vứt xuống biển, cướp mất đồ đạc. Khi rơi xuống biển ông được rùa cứu thoát. Lại nói về bọn thuyền nhân cướp được những thứ do ông mua về bèn mang đến bán cho chùa Mitani, gặp lại ông, chúng xấu hổ, sau được ông tha không bắt phạt”.

            Về chuyện báo ứng ở Việt Nam, có chuyện Lê Kính nhờ làm việc thiện nên được Thiên đình cho đỗ Tiến sĩ. “ân huệ bỏ ra không lớn mà sự báo đáp  lại chóng như vậy, thật đúng như người xưa nói: chớ bảo việc thiện nhỏ mà không làm (Nam thiên trân dị tập, Lê kinh ký), hay Nguyễn Thị Thái lừa đứa cháu côi cút bé dại để chiếm đoạt gia tài, kết quả bị Thiên Lôi thiêu cháy cả quần áo, được ít lâu thì chết (Sơn cư tạp thuật, Tham báo)[4][4]...

            Truyện 25, quyển Trung,  có truyện “Chuyện quỷ sứ cung Diêm Ma Vương báo đền ơn được mời cơm”, kể chuyện cô gái ở huyện Yamada tỉnh Sanuki tên là Kinume bỗng bị bệnh nặng.đẻ khỏi bệnh cô đã làm cơm cúng thết thần dịch bệnh và được lính quỷ sứ ở cung Diêm Ma Vương tha không bắt.để thay cô, quỷ sứ đã bắt cô gái cùng họ tên ở huyện Utari nhưng Diêm ma Vương không nghe. Lính quỷ sư đành bắt cô Kinume huyện huyện amada đưa xuống âm phủ. Cô Kinume  huyện Utari được sống trở về nhưng sau ba ngày ở nhà đã thiêu xác cô. Không còn nơi trú ngụ cô bèn nhập vào xác của Kunume huyện Yamada theo lệnh chỉ của Diêm Ma Vương và trở thành cô Kinume huyện Yamada. Khi tỉnh lại, cô không nhận lại cha mẹ và một mực cho rằng nhà cô ở huyện Utari. Khi về nhà ở Utari cha mẹ cô không nhận cô và nói rằng con gái của họ đã mất.Sau khi nghe cô thuật lại lệnh chỉ của Diêm Ma Vương, cả hai bên cha mẹ đều bằng lòng nhận cô và chia tài sản cho cô.

            Câu truyện này giống truyện Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề, có truyện Truyện Đế Thích phụ chép truyện Trương Ba  của Việt Nam.

            Chúng ta có thể thấy cả hai truyện đều cùng một típ truyện báo ứng.

Do cùng chịu ảnh hưởng của văn hoá Hán, Linh Dị Ký đã có mối liên quan về đề tài cốt truyện với Công dư tiệp ký. Công dư tiệp ký ra đời vào thế kỷ 18, sau Linh Dị Ký gần 10 thế kỷ, vào thời kỳ văn học chữ Hán phát triển rực rỡ, với ngòi bút tài năng của Vũ Phương Đề đã trở thành một trong những tác phẩm nổi tiếng trong kho tàng văn học Việt Nam đương thời.

2.2. Típ truyện  Người đội lốt xấu xí trong Linh Dị Ký

            Trong kho tàng truyện cổ thế giới nói chung, truyện Linh Dị Ký của Nhật Bản và truyện cổ Việt Nam nói riêng, những truyện kể về Người đội lốt  dưới hình dạng các con vật hoặc người xấu xí, dị dạng đặc biệt phổ biến. Trong típ truyện này có thể thấy một số các mô típ giống nhau giữa Linh Dị Ký và truyện cổ Việt Nam.

2.2.1.  Mô típ sinh nở thần kỳ:

            Đây là mô típ khá phổ biến trong truyện kể dân gian các nước  và mang đặc trưng thể loại.

            Truyện 19, quyển Hạ bắt đầu bằng sự sinh nở kỳ lạ: “Vợ của Toyobuku no Hirogimi, ngày rằm tháng Một, mùa Đông năm Tân Hợi, niên hiệu Hoki thứ 2 (771) sinh ra một cục thịt. Cục thịt giống như quả trứng chim. Ông bà cho là điềm chẳng lành bèn cho vào rọ tre, giấu vào hòn đá ở trong núi. Bảy ngày sau trở lại, xem thì vỏ ngoài bọc thịt đã vỡ, sinh ra cô con gái. Ông bà bèn bế đứa trẻ về nhà cho bú sữa và chăm sóc hết mực. Mới qua tám tháng cô bé lớn phổng lên. đầu sát với thân, không có cổ. Sinh ra đã là người thông minh, chưa được bảy tuổi đã đọc được kinh Pháp Hoa và kinh Bát thập hoa nghiêm...” (Truyện Người con gái sinh ra từ cục thịt, tu hành phật Pháp giáo hoá chúng dân).[5][5]

            Truyện 31, quyển Hạ cũng nói về sự sinh nở kỳ lạ: “ở thôn Kusumi, làng Mizuno, huyện Katakata, tỉnh Mino có một người con gái họ Agata đã hơn hai mươi tuổi vẫn chưa lấy chồng, cũng chẳng đi lại với người đàn ông nào vậy mà có thai. Được ba năm, vào hạ tuần tháng Hai, năm Quý Hợi niên hiệu Enryaku(Diên lịch) đầu (782), thời Thiên Hoàng Kanmu, sinh ra hai hòn đá. Mỗi hòn to chừng năm tấc vuông. Hòn lốm đốm trắng xanh, hòn màu xanh tuyền. Hai hòn đá mỗi năm một lớn. Lại nói, huyện kề bên là huyện Atsumi, ở trong huyện đó có vị thần gọi tên là Inaba, nhờ người lên đồng xem bói nói rằng: “Hai hòn đá là con của ta”. Nhân đấy lập bàn thờ cúng tế ở nhà cô gái. “[6][6]

            Tác giả dân gian đã sử dụng mô típ sự sinh nở thần kỳ với ý tưởng đem đến cho nhân vật một nguồn gốc thần linh, nhằm làm thay đổi thân phận “thấp hèn “của nhân vật, mở ra một tương lai tốt đẹp bởi những khả năng tiềm ẩn, chứa trong con người có nguồn gốc thần kỳ đó.

            Mô típ Sự sinh nở thần kỳ trong Linh Dị Ký và trong truyện cổ Việt Nam có chung ý nghĩa: đó là sự ra đời của nhân vật với nguồn gốc thần linh mang ý nghĩa tự khẳng định một khả năng khác thường, dự cảm rằng ở trong đó có một nguồn sức mạnh kỳ lạ để xoá đi sự nghèo đói và sự bị khinh rẻ.

            Ngay sau mô típ Sự sinh nở thần kỳ, nhân vật ra đời không phải là những đứa trẻ bình thường mà mang một vẻ ngoài xấu xí, hoặc dưới hình thức các con vật.

2.2.2. Mô típ  Người đội lốt xấu xí trong Linh Dị Ký thể hiện ở các hình thức: người mang lốt quả trứng, cục thịt, hòn đá...

            Mô típ nhân vật xấu xí mà tài ba có thể thấy trong Thiền uyển tập anh .. Thiền sư Ngộ Ấn thông tuệ tài ba nhưng lại xấu xí tới mức bà mẹ” lấy làm ghét đem bỏ vào rừng” cũng giống với Ni cô  Saruhijiri trong truyện 19, quyển Hạ của Linh Dị Ký.

            Trong truyện cổ Việt Nam, mô típ Sự sinh nở thần kỳ và mô típ Người mang lốt được thể hiện ở các hình thức: Cục thịt, bọc thịt “Một cục thịt tròn lông lốc như hình cái sọ, có mắt mũi, mồm nhưng không có chân tay” (truyện Sọ Dừa ); quả trứng (truyện Nàng tiên Trứng); các con vật: con cóc (truyện Chàng Cóc), con Rắn (truyện Chàng Rắn), con rùa (truyện Chàng Rùa)...

            Qua các hình thức thể hiện khác nhau của “Người đội lốt”, chúng ta thấy rằng mỗi tộc người, mỗi dân tộc đã nảy sinh, đã lựa chọn cái “lốt” khác nhau theo một môi trường liên tưởng nhất định gắn với điều kiện môi sinh.

Cái ý tưởng của tác giả dân gian khi cho nhân vật có nguồn gốc thần linh là thể hiện cái lốt xấu xí tưởng như không tốt đẹp nhưng khi nhân vật đã bộc lộ đầy đủ tài năng và phẩm chất của con người trong cái lốt xấu xí đó thì thực là cao đẹp, thực sự có sức mạnh chinh phục của một thủ pháp nghệ thuật dân gian, đã đưa đến cách đánh giá đúng đắn, chính xác về nhân vật “thấp hèn” và “chính là nòng cốt, cái hạt nhân tạo nên kiểu truyện Người đội lốt vật phổ biến trên thế giới[7][7]



3. Sự tương đồng và dị biệt của Linh dị ký và truyện cổ Việt Nam:

            Xét về nguồn gốc nội tại, có thể thấy rằng: Nhật Bản và Việt Nam  đều chịu ảnh hưởng của hai nền văn minh Trung quốc và Ấn Độ.  Khi chữ Hán chính thức được coi là công cụ ghi chép, ở Việt Nam đã hình thành dòng văn học viết bằng chữ Hán. Sự ra đời của nó là kết quả của sự hối thúc từ bên trong do sự vận động nội tại của bản thân nền học thuật chữ Hán Việt Nam sinh ra, cùng với sự giao lưu văn hoá văn học mang lại.

            Cùng với sự ra đời và phát triển của văn hoá dân tộc, truyện cổ dân gian của Việt Nam cũng xuất hiện theo.

            Xét về mặt giao lưu văn học, truyện thần kỳ, truyền kỳ của Việt Nam đã tiếp thu và chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết chí quái, truyền kỳ của Trung quốc.

            Do bắt nguồn từ truyện cổ dân gian, lại chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết truyền kỳ và truyện kể Phật giáo Trung Quốc,  Linh Dị ký mặc dù không có sự giao lưu trực tiếp với các tác phẩm văn học của Việt Nam nhưng sự lưu thông giữa các mô típ và sự hoán cải các mô típ và cốt truyện trong Linh Dị có những nét tương tự như ở Việt Nam.

3.1. Sự tương đồng:

3.1.1. Tương đồng về cốt truyện:

            Trong truyện kể truyền miệng dân gian, cốt truyện có vai trò rất quan trọng, có chức năng phản ánh hiện thực đời sống xã hội bằng hình tượng nghệ thuật nhưng theo đặc trưng riêng của folklore.Truyện cổ của Nhật Bản và Việt Nam cũng tuân theo nguyên tắc đó. Các cốt truyện thường được kể theo một trục thời gian, trong một không gian khép kín có giới hạn, theo một mạch tình tiết, hành động, sự kiện cụ thể. Do đó chúng ta thấy các cốt truyện của hai dân tộc có sự lặp lại của các kiểu mở đầu, kết thúc, với hàng loạt các mô típ cấu thành, với những chi tiết tình huống truyện giống nhau. Điều đó tạo nên sự tương đồng về cốt truyện.

            Qua so sánh Linh Dị Ký của Nhật bản với truyện cổ Việt Nam, chúng ta thấy rõ những cốt truyện đặc trưng tương đồng. Thí dụ như cốt truyện về Sự hiện báo, cốt truyện về Người đội lốt xấu xí...Các cốt truyện thường giống nhau ở cái kết thúc, ở cách giải quyết vấn đề mà truyện đặt ra. Kết thúc truyện thường có hậu, luôn thể hiện rõ  quan niệm thẩm mỹ của nhân dân về  cái đẹp và cái xấu, cái thiện và cái ác. Cái thiện thường chiến thắng, được ban thưởng, còn cái ác thường phải chịu kết cục thảm hại, bị trừng phạt.

             Chúng ta còn gặp một yếu tố tương đồng nữa trong Linh Dị Ký và truyện cổ Việt Nam, đó là cách giải thích các hiện tượng tự nhiên. Trong truyện Chuyện kẻ tham lam bị biến thành rắn(truyện 38, quyển Trung) và truyện Sự tích con khỉ của Việt Nam có chi tiết tên địa chủ bị biến thành con khỉ (Việt Nam), và nhà sư biến thành con rắn (Nhật Bản), kết quả của tính tham lam độc ác bị trừng phạt.

3.1.2. Tương đồng về nhân vật:

            Qua phân tích một số típ và mô típ trong Linh Dị Ký và truyện cổ Việt Nam, chúng ta thấy có sự tương đồng của nhân vật.

            Nhân vật tốt bụng trong các truyện của Nhật Bản và Việt Nam đều được xây dựng trong những típ truyện về Sự hiện báo và típ truyện về Người đội lốt xấu xí với các mô típ xây dựng nên nhân vật giống nhau: mô típ tốt bụng- lòng tốt- sự giúp đỡ của các thế lực siêu nhiên- cái thiện được ban thưởng. Còn nhân vật xấu bụng với các mô típ xây dựng nên nhân vật giống nhau: mô típ sự xấu bụng (độc ác, tham lam, xảo trá, xấu tính) - cái ác bị trừng phạt. Nhân vật trong típ truyện Người đội lốt xấu xí của Việt Nam - Nhật bản đều mang những nét mạnh mẽ, tài giỏi, phi thường.

            Một yếu tố tương đồng được xử dụng như một yếu tố nghệ thuật để xây dựng nên nhân vật truyện cổ Việt Nam - Nhật bản là yếu tố kỳ diệu, siêu nhiên với sự tưởng tượng, hư cấu hoá. các yếu tố thần kỳ được tác giả khoác thêm nhằm làm cho truyện thêm ly kỳ hấp dẫn, nhân vật được được đề cao. Yếu tố kỳ ảo  chính là sự mở đường để nhân vật bước vào thế giới huyền diệu vốn là không gian quen thuộc của truyện cổ tích thần kỳ.

Đó là các yếu tố, cũng là các mô típ: Sự sinh nở thần kỳ, tài năng thần kỳ, phép thuật kỳ diệu...Sự ra đời thần kỳ làm nên sự nổi bật của nhân vật, báo trước tài năng phi thường.

            Qua một vài típ truyện kể trên, có thể thấy nhân vật trong Linh Dị Ký và truyện cổ Việt Nam được xây dựng  trên cơ sở những chủ đề mang ý nghĩa đấu tranh xã hội. Hiện thực về cuộc sống của những nhân vật đó là sự phản ánh chân thực hiện thực cuộc sống ở những nước cùng trải qua một hình thái lịch sử xã hội.

3.1.3. Những nét tương đồng khác:

            Do cùng chịu ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo, Linh Dị Ký của Nhật Bản có nhiều nét tương đồng với truyện cổ Việt Nam. Ví dụ về quan niệm cây thiêng: cây cổ thụ có đám mây lành che bóng (Thiền uyển tập anh) với trên cây có hình đức Quan âm bồ tát (Linh Dị Ký, truyện 8, quyển Hạ).Tục thờ cây thiêng: lấy gỗ tạc tượng Phật(Thiền uyển tập anh) với Linh Dị Ký, truyện 5, quyển Thượng. Tục cầu đảo: xin thần phù hộ đánh giặc (Thiền uyển tập anh) với Xin thần phù hộ cho bình yên trở về (Linh Dị Ký,truyện 17, quyển Thượng). Mô típ thai sinh, thác sinh cũng là minh chứng cho quan niệm luân hồi của đạo Phật, sự thác thai của Từ Đạo Hạnh làm con Sùng Hầu và trở thành vua Lý Thần Tông (Thiền uyển tập anh), “một ông sư, một ông lão ăn mày tái sinh vào bậc đế vương, khiến người ta không thể hiểu nổi” (Tang thương ngẫu lục, Thần Tông hoàng đế) cũng tương đồng với sự thác thai chuyển hoá từ Thiền sư Zenju làm con trai nhà vua và sau trở thành Thiên hoàng Saga (Linh Dị Ký).[8][8]



 3.2. Sự dị biệt:

3.2.1.Sự dị biệt về cốt truyện

            - Một số tình tiết  thay đổi, một số mô típ khác loại tham gia vào cốt truyện, làm thay đổi nội dung, bản chất của cốt truyện. Ví dụ trong cốt truyện về Sự hiện báo có mô típ phạt: truyện của Việt Nam có mô típ trừng phạt tên trưởng giả xấu tính bị biến thành con khỉ; truyện của Nhật Bản có mô típ độc ác với loài vật bị trừng phạt vơi các tình tiết người đàn ông bị nổi mụn, lở khắp toàn thân, không có cách nào chữa được, kêu gào cho đến lúc chết.

            Do đó, cốt truyện Sự tích con khỉ của Việt Nam phản ánh mối quan hệ giữa con người với con người và bài học ứng xử của con người. Còn cốt truyện Chuyện người đàn ông không có lòng từ bi, lột da thỏ sống bị quả báo (truyện 16, quyển Thượng) của Linh Dị Ký phản ánh mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và bài học về cách đối xử với loài vật.

            Sự khác nhau của một số mô típ, một số tình tiết cấu thành cốt truyện nói lên sự khác nhau của các yếu tố văn hoá mang màu sắc của từng dân tộc, từng đất nước.



Nhật bản là một quốc gia thống nhất, dân tộc thống nhất. Vì thế truyện cổ Nhật Bản là sự tích hợp lý tưởng của một dân tộc Nhật Bản thuần nhất, dựa trên các câu truyện ở các quận khác nhau.

Còn Việt Nam là một quốc gia đa tộc người, gồm 54 dân tộc do đó có sự giao lưu, ảnh hưởng, tiếp thu kho tàng văn hoá của các dân tộc anh em cùng sống trên nước Việt Nam, tạo nên sự đa dạng phong phú và những sắc thái khác nhau ở cốt truyện và nhân vật.



No comments: