| 
 
            Linh Dị Ký là tập truyện cổ, cổ nhất
  của Nhật Bản, được biên soạn bằng tiếng Hán. Cuốn sách ra đời vào khoảng đầu
  thế kỷ thứ IX. 
            Nihonryoiki - Nhật bản Linh Dị Ký là
  tập truyện kể Phật Giáo cổ nhất của Nhật Bản, nó gắn liền với các sự kiện có
  thật. Nhật Bản Linh Dị Ký tương
  truyền của sư Keikai chùa Yakushi tỉnh Nara. Tên đầy đủ là Nhật Bản quốc hiện báo thiện ác linh dị ký (Ghi chép những chuyện linh nghiệm,
  kỳ  lạ báo ứng việc thiện ác của Nhật
  Bản ), tên thường gọi là Nhật Bản
  Linh Dị Ký, gồm 3 quyển: Thượng, Trung, Hạ. Quyển Thượng có 35 truyện,
  quyển Trung có 42 truyện, quyển Hạ có 39 truyện, cả thảy có 116 truyện, ghi
  lại các truyện từ thời Thiên Hoàng Yuryaku nửa thế kỷ V tới đầu thời Thiên
  Hoàng Saga đầu thế kỷ IX.  
Nhà sư Keikai sinh ra trong một xã
  hội bất ổn định. Cuộc đời trước mắt rối ren, nhiều xấu xa ô trọc khiến cho
  những người tử tế dường như tuyệt vọng, bất lực “Nay xem người làm việc thiện
  hiếm như hoa nở trên núi, kẻ làm việc ác nhiều như cỏ mọc gò đồi” (Tựa, quyển
  Hạ). “Vì vậy, nếu việc thiện ác không chỉ ra rõ thì lấy gì làm bằng để sửa
  chữa lệch lạc và phân biệt đúng sai. Nếu không cho thấy sự quả báo, làm sao
  cải tạo được ác tâm, tu hành theo đạo thiện” (Tựa, quyển Thượng). Ghi chép
  những chuỵện báo ứng, cho mọi người thấy rõ thuyết nhân quả báo ứng” ác giả ác
  báo, nhân giả nhân báo” là ý đồ đầu tiên của tác giả khi khi biên soạn Linh
  Dị Ký.[2][2] 
Linh Dị Ký
  là tác phẩm nổi tiếng trong kho tàng văn học cổ điển Nhật Bản, phản ánh nhiều
  mặt của nền văn hoá Nhật Bản thời trung đại. Sách được biên soạn năm thứ 6 (787),
  hoàn thành năm Konin thứ 13 (822).  
Linh Dị Ký là
  tác phẩm đầu tiên rung cảm lòng người bởi nét hiện thực sinh động. Nó còn hấp
  dẫn bởi nội dung chất phác nhưng không kém phần kỳ vĩ, kỳ ảo của các sự
  tích.. Các truyện được viết ra với mục đích giáo hoá chúng dân bằng các việc
  kỳ lạ từ trước đến nay, chủ yếu nói về thuyết nhân quả báo ứng và sự thiện
  báo do tín ngưỡng đức Phật Quan Âm và công đức của việc tụng kinh Pháp Hoa.  
Linh Dị Ký
  là tác phẩm chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo, nó là sản phẩm của thời kỳ
  Phật giáo và văn hoá Trung Quốc được du nhập và phát triển rực rỡ ở Nhật bản.
  Các truyện kể Phật giáo Trung Quốc như Minh
  báo ký, Kim cương bát nhã tập truyện ký, tác phẩm chí quái Trung Quốc đời Tấn như Sưu thần ký, các tác phẩm truyền kỳ
  đời Đường nổi tiếng như Nhâm Thị Truyện...được lưu hành rộng
  rãi ở Nhật bản thời bấy giờ đã có ảnh hưởng lớn đến Linh Dị Ký. 
            Linh Dị Ký là tác phẩm đầu tiên rung cảm lòng người bởi nét hiện thực
  sinh động. Nó còn hấp dẫn bởi nội dung chất phác nhưng không kém phần kỳ vĩ,
  kỳ ảo của các sự tích. Tác giả Linh Dị
  Ký còn sử dụng nhiều mô típ có tính khuôn mẫu đã được định hình trong
  truyện kể dân gian không chỉ riêng của Nhật Bản mà chung của thế giới như: Mô
  típ về sự sinh nở kỳ lạ; sự hoá thân từ người sang vật; những nhân vật có khả
  năng kỳ diệu, hôn nhân giữa người và động vật; những nhân vật xấu xí mà tài
  ba...[3][3] 
2.  So sánh những típ và mô típ chính
  trong  Linh Dị Ký và truyện cổ Việt
  Nam: 
            Khảo
  sát tác phẩm Linh Dị Ký có thể dễ
  dàng nhận ra nét chung với truyện cổ của Việt Nam qua những típ truyện: típ
  truyện về Sự hiện báo (Tấm Cám; Hai anh em ); típ truyện về Người đội
  lốt (truyện Sọ Dừa; truyện Nàng Tiên Trứng; truyện Chàng Rùa...), và mô típ: mô típ Cái
  thiện được ban thưởng (Cô gái nghèo- Sự
  tích con khỉ); mô típ Cái ác bị trừng phạt (Người anh- Hai anh em ); mô típ sinh nở kỳ lạ
  (Lạc Long quân, Thánh gióng- Lĩnh Nam
  chích quái liệt truyện);  mô típ
  nhân vật xấu xí mà tài ba (Người kỳ dị- Sơn
  cư tạp thuật); mô típ sống lại sau khi xuống âm phủ (Thủ Huồn- Sự tích ông Thủ Huồn).; mô típ sự giúp
  đỡ của các thế lực siêu nhiên (Quạ thần - Cây
  khế, Hai cây khế ); Mô típ cái thiện được ban thưởng (Cô gái nghèo - Sự tích con khỉ); Mô típ cái ác bị
  trừng phạt (Người anh- Hai anh em
  của dân tộc Khơ mú)... 
            Trong
  bản báo cáo này, chúng tôi muốn so sánh những típ và mô típ tiêu biểu trong Linh Dị Ký với truyện cổ Việt Nam. 
            Trong
  Linh Dị Ký, có hai típ truyện nổi
  bật, típ truyện về Sự hiện báo và
  típ truyện về Người đội lốt.  
Trong típ truyện về Sự hiện báo có
  những mô típ: Cái thiện được ban thưởng; Cái ác bị trừng phạt;  Sự giúp đỡ của các thế lực siêu nhiên... 
Trong típ truyện về Người đội lốt
  có những mô típ: Sinh nở thần kỳ; người đội lốt; vật phù trợ...         
2.1. Típ truyện về Sự hiện báo:
  cái gọi là Hiện báo (báo ứng ngay)
  trong Linh Dị Ký là sự quả báo lành
  hoặc dữ, không phải chờ đến kiếp sau mà ở ngay kiếp này do hành vi thiện hoặc
  ác mà con người gieo ở đời. Ác giả ác báo, thiện giả thiện báo là nội dung cơ
  bản trong các truyện kể của Linh Dị Ký.
  Trong đầu đề truyện có tới 50% các tít có chữ “hiện báo” hoặc “được báo ơn”,
  “được khỏi bệnh”, “bị quả báo ở thời hậu thế” hoặc “bị quả báo tội
  chết”...Ngay trong các truyện đầu đề không có chữ hiện báo thì nội dung vẫn
  ít nhiều thể hiện sự hiện báo. Thậm chí trong tên đầy đủ của tác phẩm Nhật Bản quốc hiện báo thiện ác Linh Dị
  Ký.  (Ghi chép những chuyện kỳ lạ,
  linh nghiệm báo ứng  việc thiện ác của
  Nhật Bản) cũng đã nói về việc hiện báo. 
            Nhân
  quả báo ứng là hạt nhân trong các truyện của Linh Dị Ký. 
            “Viên
  quan huyện huyện Mitani trong đoàn quân được phái đi cứu Bách Tế cầu nghuyện
  đức Phật, được đức Phật phù hộ bình yên trở về. Sau khi về nước, ông mời
  Thiền sư Gusai cùng về xây dựng chùa Mitani. Thiền sư Gusai còn bán gia sản
  của mình lên kinh đô mua sơn son thếp vàng để tạo tượng Phật. Trên đường trở
  về, đến bờ biển Naniwa ông thấy người ta bán bốn con rùa lớn bèn khuyên người
  ta mua rồi thả chúng ra. Khi thuyền dừng lại ở đảo Kabane, ông bị những người
  chèo thuyền vứt xuống biển, cướp mất đồ đạc. Khi rơi xuống biển ông được rùa
  cứu thoát. Lại nói về bọn thuyền nhân cướp được những thứ do ông mua về bèn
  mang đến bán cho chùa Mitani, gặp lại ông, chúng xấu hổ, sau được ông tha
  không bắt phạt”. 
            Về
  chuyện báo ứng ở Việt Nam, có chuyện Lê Kính nhờ làm việc thiện nên được
  Thiên đình cho đỗ Tiến sĩ. “ân huệ bỏ ra không lớn mà sự báo đáp  lại chóng như vậy, thật đúng như người xưa
  nói: chớ bảo việc thiện nhỏ mà không làm (Nam
  thiên trân dị tập, Lê kinh ký), hay Nguyễn Thị Thái lừa đứa cháu côi cút
  bé dại để chiếm đoạt gia tài, kết quả bị Thiên Lôi thiêu cháy cả quần áo,
  được ít lâu thì chết (Sơn cư tạp thuật,
  Tham báo)[4][4]... 
            Truyện
  25, quyển Trung,  có truyện “Chuyện quỷ sứ cung Diêm Ma Vương báo đền ơn được mời cơm”, kể
  chuyện cô gái ở huyện Yamada tỉnh Sanuki tên là Kinume bỗng bị bệnh nặng.đẻ
  khỏi bệnh cô đã làm cơm cúng thết thần dịch bệnh và được lính quỷ sứ ở cung
  Diêm Ma Vương tha không bắt.để thay cô, quỷ sứ đã bắt cô gái cùng họ tên ở
  huyện Utari nhưng Diêm ma Vương không nghe. Lính quỷ sư đành bắt cô Kinume
  huyện huyện amada đưa xuống âm phủ. Cô Kinume 
  huyện Utari được sống trở về nhưng sau ba ngày ở nhà đã thiêu xác cô.
  Không còn nơi trú ngụ cô bèn nhập vào xác của Kunume huyện Yamada theo lệnh
  chỉ của Diêm Ma Vương và trở thành cô Kinume huyện Yamada. Khi tỉnh lại, cô
  không nhận lại cha mẹ và một mực cho rằng nhà cô ở huyện Utari. Khi về nhà ở
  Utari cha mẹ cô không nhận cô và nói rằng con gái của họ đã mất.Sau khi nghe
  cô thuật lại lệnh chỉ của Diêm Ma Vương, cả hai bên cha mẹ đều bằng lòng nhận
  cô và chia tài sản cho cô. 
            Câu
  truyện này giống truyện Công dư tiệp ký
  của Vũ Phương Đề, có truyện Truyện Đế
  Thích phụ chép truyện Trương Ba  của
  Việt Nam. 
            Chúng
  ta có thể thấy cả hai truyện đều cùng một típ truyện báo ứng. 
Do cùng chịu ảnh hưởng của văn hoá
  Hán, Linh Dị Ký đã có mối liên quan
  về đề tài cốt truyện với Công dư tiệp ký. Công dư tiệp ký ra đời vào
  thế kỷ 18, sau Linh Dị Ký gần 10 thế kỷ, vào thời kỳ văn học chữ Hán phát
  triển rực rỡ, với ngòi bút tài năng của Vũ Phương Đề đã trở thành một trong
  những tác phẩm nổi tiếng trong kho tàng văn học Việt Nam đương thời. 
2.2. Típ truyện  Người
  đội lốt xấu xí trong Linh Dị Ký  
            Trong
  kho tàng truyện cổ thế giới nói chung, truyện Linh Dị Ký của Nhật Bản và
  truyện cổ Việt Nam nói riêng, những truyện kể về Người đội lốt  dưới hình dạng các con vật hoặc người xấu
  xí, dị dạng đặc biệt phổ biến. Trong típ truyện này có thể thấy một số các mô
  típ giống nhau giữa Linh Dị Ký và truyện cổ Việt Nam. 
2.2.1.  Mô típ sinh nở thần kỳ: 
            Đây
  là mô típ khá phổ biến trong truyện kể dân gian các nước  và mang đặc trưng thể loại. 
            Truyện
  19, quyển Hạ bắt đầu bằng sự sinh nở kỳ lạ: “Vợ của Toyobuku no Hirogimi,
  ngày rằm tháng Một, mùa Đông năm Tân Hợi, niên hiệu Hoki thứ 2 (771) sinh ra
  một cục thịt. Cục thịt giống như quả trứng chim. Ông bà cho là điềm chẳng
  lành bèn cho vào rọ tre, giấu vào hòn đá ở trong núi. Bảy ngày sau trở lại,
  xem thì vỏ ngoài bọc thịt đã vỡ, sinh ra cô con gái. Ông bà bèn bế đứa trẻ về
  nhà cho bú sữa và chăm sóc hết mực. Mới qua tám tháng cô bé lớn phổng lên.
  đầu sát với thân, không có cổ. Sinh ra đã là người thông minh, chưa được bảy
  tuổi đã đọc được kinh Pháp Hoa và
  kinh Bát thập hoa nghiêm...”
  (Truyện Người con gái sinh ra từ cục
  thịt, tu hành phật Pháp giáo hoá chúng dân).[5][5] 
            Truyện
  31, quyển Hạ cũng nói về sự sinh nở kỳ lạ: “ở thôn Kusumi, làng Mizuno, huyện
  Katakata, tỉnh Mino có một người con gái họ Agata đã hơn hai mươi tuổi vẫn
  chưa lấy chồng, cũng chẳng đi lại với người đàn ông nào vậy mà có thai. Được
  ba năm, vào hạ tuần tháng Hai, năm Quý Hợi niên hiệu Enryaku(Diên lịch) đầu
  (782), thời Thiên Hoàng Kanmu, sinh ra hai hòn đá. Mỗi hòn to chừng năm tấc
  vuông. Hòn lốm đốm trắng xanh, hòn màu xanh tuyền. Hai hòn đá mỗi năm một
  lớn. Lại nói, huyện kề bên là huyện Atsumi, ở trong huyện đó có vị thần gọi
  tên là Inaba, nhờ người lên đồng xem bói nói rằng: “Hai hòn đá là con của
  ta”. Nhân đấy lập bàn thờ cúng tế ở nhà cô gái. “[6][6] 
            Tác
  giả dân gian đã sử dụng mô típ sự sinh nở thần kỳ với ý tưởng đem đến cho
  nhân vật một nguồn gốc thần linh, nhằm làm thay đổi thân phận “thấp hèn “của
  nhân vật, mở ra một tương lai tốt đẹp bởi những khả năng tiềm ẩn, chứa trong
  con người có nguồn gốc thần kỳ đó. 
            Mô
  típ Sự sinh nở thần kỳ trong Linh Dị Ký và trong truyện cổ Việt Nam
  có chung ý nghĩa: đó là sự ra đời của nhân vật với nguồn gốc thần linh mang ý
  nghĩa tự khẳng định một khả năng khác thường, dự cảm rằng ở trong đó có một
  nguồn sức mạnh kỳ lạ để xoá đi sự nghèo đói và sự bị khinh rẻ. 
            Ngay
  sau mô típ Sự sinh nở thần kỳ, nhân
  vật ra đời không phải là những đứa trẻ bình thường mà mang một vẻ ngoài xấu
  xí, hoặc dưới hình thức các con vật.  
2.2.2. Mô típ  Người
  đội lốt xấu xí trong Linh Dị Ký
  thể hiện ở các hình thức: người mang lốt quả trứng, cục thịt, hòn đá... 
            Mô
  típ nhân vật xấu xí mà tài ba có thể thấy trong Thiền uyển tập anh .. Thiền sư Ngộ Ấn thông tuệ tài ba nhưng lại
  xấu xí tới mức bà mẹ” lấy làm ghét đem bỏ vào rừng” cũng giống với Ni cô  Saruhijiri trong truyện 19, quyển Hạ của
  Linh Dị Ký.  
            Trong
  truyện cổ Việt Nam, mô típ Sự sinh nở thần kỳ và mô típ Người mang lốt được
  thể hiện ở các hình thức: Cục thịt, bọc thịt “Một cục thịt tròn lông lốc như
  hình cái sọ, có mắt mũi, mồm nhưng không có chân tay” (truyện Sọ Dừa ); quả trứng (truyện
  Nàng tiên Trứng); các con vật: con cóc (truyện Chàng Cóc), con Rắn (truyện
  Chàng Rắn), con rùa (truyện Chàng
  Rùa)... 
            Qua
  các hình thức thể hiện khác nhau của “Người
  đội lốt”, chúng ta thấy rằng mỗi tộc người, mỗi dân tộc đã nảy sinh, đã
  lựa chọn cái “lốt” khác nhau theo một môi trường liên tưởng nhất định gắn với
  điều kiện môi sinh. 
Cái ý tưởng của tác giả dân gian
  khi cho nhân vật có nguồn gốc thần linh là thể hiện cái lốt xấu xí tưởng như
  không tốt đẹp nhưng khi nhân vật đã bộc lộ đầy đủ tài năng và phẩm chất của
  con người trong cái lốt xấu xí đó thì thực là cao đẹp, thực sự có sức mạnh
  chinh phục của một thủ pháp nghệ thuật dân gian, đã đưa đến cách đánh giá
  đúng đắn, chính xác về nhân vật “thấp
  hèn” và “chính là nòng cốt, cái hạt
  nhân tạo nên kiểu truyện Người đội lốt vật phổ biến trên thế giới[7][7] 
3. Sự tương đồng và dị biệt của
  Linh dị ký và truyện cổ Việt Nam: 
            Xét
  về nguồn gốc nội tại, có thể thấy rằng: Nhật Bản và Việt Nam  đều chịu ảnh hưởng của hai nền văn minh
  Trung quốc và Ấn Độ.  Khi chữ Hán chính
  thức được coi là công cụ ghi chép, ở Việt Nam đã hình thành dòng văn học viết
  bằng chữ Hán. Sự ra đời của nó là kết quả của sự hối thúc từ bên trong do sự
  vận động nội tại của bản thân nền học thuật chữ Hán Việt Nam sinh ra, cùng
  với sự giao lưu văn hoá văn học mang lại. 
            Cùng
  với sự ra đời và phát triển của văn hoá dân tộc, truyện cổ dân gian của Việt
  Nam cũng xuất hiện theo. 
            Xét
  về mặt giao lưu văn học, truyện thần kỳ, truyền kỳ của Việt Nam đã tiếp thu
  và chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết chí quái, truyền kỳ của Trung quốc. 
            Do
  bắt nguồn từ truyện cổ dân gian, lại chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết truyền kỳ
  và truyện kể Phật giáo Trung Quốc,  Linh Dị ký mặc dù không có sự giao lưu
  trực tiếp với các tác phẩm văn học của Việt Nam nhưng sự lưu thông giữa các
  mô típ và sự hoán cải các mô típ và cốt truyện trong Linh Dị Ký có những nét
  tương tự như ở Việt Nam. 
3.1. Sự tương đồng: 
3.1.1. Tương đồng về cốt
  truyện: 
            Trong
  truyện kể truyền miệng dân gian, cốt truyện có vai trò rất quan trọng, có
  chức năng phản ánh hiện thực đời sống xã hội bằng hình tượng nghệ thuật nhưng
  theo đặc trưng riêng của folklore.Truyện cổ của Nhật Bản và Việt Nam cũng
  tuân theo nguyên tắc đó. Các cốt truyện thường được kể theo một trục thời
  gian, trong một không gian khép kín có giới hạn, theo một mạch tình tiết,
  hành động, sự kiện cụ thể. Do đó chúng ta thấy các cốt truyện của hai dân tộc
  có sự lặp lại của các kiểu mở đầu, kết thúc, với hàng loạt các mô típ cấu
  thành, với những chi tiết tình huống truyện giống nhau. Điều đó tạo nên sự
  tương đồng về cốt truyện. 
            Qua
  so sánh Linh Dị Ký của Nhật bản với
  truyện cổ Việt Nam, chúng ta thấy rõ những cốt truyện đặc trưng tương đồng.
  Thí dụ như cốt truyện về Sự hiện báo, cốt truyện về Người đội lốt xấu
  xí...Các cốt truyện thường giống nhau ở cái kết thúc, ở cách giải quyết vấn
  đề mà truyện đặt ra. Kết thúc truyện thường có hậu, luôn thể hiện rõ  quan niệm thẩm mỹ của nhân dân về  cái đẹp và cái xấu, cái thiện và cái ác.
  Cái thiện thường chiến thắng, được ban thưởng, còn cái ác thường phải chịu
  kết cục thảm hại, bị trừng phạt. 
             Chúng ta còn gặp một yếu tố tương đồng nữa
  trong Linh Dị Ký và truyện cổ Việt
  Nam, đó là cách giải thích các hiện tượng tự nhiên. Trong truyện Chuyện kẻ tham lam bị biến thành rắn(truyện
  38, quyển Trung) và truyện Sự tích con
  khỉ của Việt Nam có chi tiết tên địa chủ bị biến thành con khỉ (Việt
  Nam), và nhà sư biến thành con rắn (Nhật Bản), kết quả của tính tham lam độc
  ác bị trừng phạt. 
3.1.2. Tương đồng về nhân vật: 
            Qua
  phân tích một số típ và mô típ trong Linh Dị Ký và truyện cổ Việt Nam, chúng
  ta thấy có sự tương đồng của nhân vật. 
            Nhân
  vật tốt bụng trong các truyện của Nhật Bản và Việt Nam đều được xây dựng
  trong những típ truyện về Sự hiện báo và típ truyện về Người đội lốt xấu xí
  với các mô típ xây dựng nên nhân vật giống nhau: mô típ tốt bụng- lòng tốt-
  sự giúp đỡ của các thế lực siêu nhiên- cái thiện được ban thưởng. Còn nhân
  vật xấu bụng với các mô típ xây dựng nên nhân vật giống nhau: mô típ sự xấu
  bụng (độc ác, tham lam, xảo trá, xấu tính) - cái ác bị trừng phạt. Nhân vật
  trong típ truyện Người đội lốt xấu xí của Việt Nam - Nhật bản đều mang những
  nét mạnh mẽ, tài giỏi, phi thường. 
            Một
  yếu tố tương đồng được xử dụng như một yếu tố nghệ thuật để xây dựng nên nhân
  vật truyện cổ Việt Nam - Nhật bản là yếu tố kỳ diệu, siêu nhiên với sự tưởng
  tượng, hư cấu hoá. các yếu tố thần kỳ được tác giả khoác thêm nhằm làm cho
  truyện thêm ly kỳ hấp dẫn, nhân vật được được đề cao. Yếu tố kỳ ảo  chính là sự mở đường để nhân vật bước vào
  thế giới huyền diệu vốn là không gian quen thuộc của truyện cổ tích thần kỳ. 
Đó là các yếu tố, cũng là các mô típ:
  Sự sinh nở thần kỳ, tài năng thần kỳ, phép thuật kỳ diệu...Sự ra đời thần kỳ
  làm nên sự nổi bật của nhân vật, báo trước tài năng phi thường. 
            Qua
  một vài típ truyện kể trên, có thể thấy nhân vật trong Linh Dị Ký và truyện cổ Việt Nam được xây dựng  trên cơ sở những chủ đề mang ý nghĩa đấu
  tranh xã hội. Hiện thực về cuộc sống của những nhân vật đó là sự phản ánh
  chân thực hiện thực cuộc sống ở những nước cùng trải qua một hình thái lịch
  sử xã hội. 
3.1.3. Những nét tương đồng
  khác:  
            Do
  cùng chịu ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo, Linh Dị Ký của Nhật Bản có nhiều nét tương đồng với truyện cổ
  Việt Nam. Ví dụ về quan niệm cây thiêng: cây cổ thụ có đám mây lành che bóng
  (Thiền uyển tập anh) với trên cây có hình đức Quan âm bồ tát (Linh Dị Ký, truyện 8, quyển Hạ).Tục
  thờ cây thiêng: lấy gỗ tạc tượng Phật(Thiền
  uyển tập anh) với Linh Dị Ký,
  truyện 5, quyển Thượng. Tục cầu đảo: xin thần phù hộ đánh giặc (Thiền uyển tập anh) với Xin thần phù
  hộ cho bình yên trở về (Linh Dị Ký,truyện
  17, quyển Thượng). Mô típ thai sinh, thác sinh cũng là minh chứng cho quan
  niệm luân hồi của đạo Phật, sự thác thai của Từ Đạo Hạnh làm con Sùng Hầu và
  trở thành vua Lý Thần Tông (Thiền uyển
  tập anh), “một ông sư, một ông lão ăn mày tái sinh vào bậc đế vương,
  khiến người ta không thể hiểu nổi” (Tang
  thương ngẫu lục, Thần Tông hoàng đế)
  cũng tương đồng với sự thác thai chuyển hoá từ Thiền sư Zenju làm con trai
  nhà vua và sau trở thành Thiên hoàng Saga (Linh Dị Ký).[8][8] 
 3.2. Sự dị biệt: 
3.2.1.Sự dị biệt về cốt truyện 
            -
  Một số tình tiết  thay đổi, một số mô
  típ khác loại tham gia vào cốt truyện, làm thay đổi nội dung, bản chất của
  cốt truyện. Ví dụ trong cốt truyện về Sự hiện báo có mô típ phạt: truyện của
  Việt Nam có mô típ trừng phạt tên trưởng giả xấu tính bị biến thành con khỉ;
  truyện của Nhật Bản có mô típ độc ác với loài vật bị trừng phạt vơi các tình
  tiết người đàn ông bị nổi mụn, lở khắp toàn thân, không có cách nào chữa
  được, kêu gào cho đến lúc chết. 
            Do
  đó, cốt truyện Sự tích con khỉ của
  Việt Nam phản ánh mối quan hệ giữa con người với con người và bài học ứng xử
  của con người. Còn cốt truyện Chuyện
  người đàn ông không có lòng từ bi, lột da thỏ sống bị quả báo (truyện 16,
  quyển Thượng) của Linh Dị Ký phản
  ánh mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và bài học về cách đối xử với
  loài vật. 
            Sự
  khác nhau của một số mô típ, một số tình tiết cấu thành cốt truyện nói lên sự
  khác nhau của các yếu tố văn hoá mang màu sắc của từng dân tộc, từng đất
  nước. 
Nhật bản là một quốc gia thống
  nhất, dân tộc thống nhất. Vì thế truyện cổ Nhật Bản là sự tích hợp lý tưởng
  của một dân tộc Nhật Bản thuần nhất, dựa trên các câu truyện ở các quận khác
  nhau. 
Còn Việt Nam là một quốc gia đa
  tộc người, gồm 54 dân tộc do đó có sự giao lưu, ảnh hưởng, tiếp thu kho tàng
  văn hoá của các dân tộc anh em cùng sống trên nước Việt Nam, tạo nên sự đa
  dạng phong phú và những sắc thái khác nhau ở cốt truyện và nhân vật. 
 | 
 
Wednesday, July 24, 2013
Vũ Tuyết Loan
Subscribe to:
Post Comments (Atom)




No comments:
Post a Comment